Vương Trí Nhàn
Lời dẫn
Trong cuốn
Tư liệu văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì
Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài của giáo sĩ Jerome Richard thuộc loại tài liệu đáng chú ý nhất.
Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc và thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn sách đã được biên soạn theo hướng viết
lịch sử xã hội là một việc mà ở ta chưa ai làm, nên càng cần thiết phải đọc.
Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và thử diễn giải lại theo cách hiểu của mình. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ trong khi làm việc, đó là
muốn lý giải hiện tại phải trở lại với lịch sử. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức.
Phần đầu của cuốn sách dành để miêu tả chung về nhiệt độ, khí hậu, cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là có một hòn đảo, được người Hà Lan đặt tên là
Đảo cướp. Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.
Các “đô thị” – chỉ là để tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như bắn tên có mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.
Người Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng. Ở đô thị càng đông, mạnh.
Các loại phương tiện giao thông
– Ngựa: quan;
– chân trần: dân;
– cáng: nhà giàu, người có địa vị
Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị phá.
Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở Trung Hoa đã có lúa
vụ ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa.
Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị, khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.
Cách cư trú, phong tục
Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.
Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền giáo, trong các dân cư ở đây, người H’mông – nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là H’mông – VTNh)
Tính cách con người
Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu, cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó lại hiếu động hay bị chia rẽ – thường xuyên nổi dậy và mưu phản.
Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò chơi, hơn là bởi tham vọng hay tư tưởng về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.
Đặc tính người bên lương (thờ Phật )
– luôn luôn không hài lòng với hiện trạng
– ham tài sản, độc ác, phản trắc
– coi cuộc đời như một cực hình
– sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.
Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi = cuồng tín.
Giao thiệp với người châu Âu. Triều đình biết quá ít về những lợi ích của mình nên không buôn bán với người nước ngoài.
Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.
Ăn mặc: không tất, không giày, không quần lót.
Giày dép là để phân biệt ngôi thứ:
– dân thường bị cấm.
– chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép
– chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.
Đời sống tinh thần. Bộ máy quản lý
Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một bản năng khéo léo, chỉ thiếu khoa học – sinh ra tính ỳ.
Nhưng nghèo khổ quá khiến người ta chỉ nghĩ đến
sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.
Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết, họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.
Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi phục dịch các đức ông.
Sở dĩ chính sách khắc nghiệt vì người ta cho là phải làm thế mới trị được một đám dân hiếu động và dễ phản loạn
.
Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ một số người thử vận may trong buôn bán.
Theo những mẫu mực Trung Hoa .
Phong tục Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa.
Người Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo…Phong tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.
Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam gần giống Nho sinh Trung Quốc.
Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết riêng xuất phát từ Trung Hoa.
Luật pháp
Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ. Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không sao.
Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.
(VTNh:
Luật chỉ có tính chất nửa vời)
– ít đi học vì nghèo
– Có hiện tượng bán con vì nghèo
– Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê
Nạn vay nặng lãi phổ biến.
Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ.
Văn hoá giao tiếp
Có sự phân biệt rõ ràng
– dân gian: buông thả
– quý tộc: nghi thức chặt chẽ hơn
Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng…
Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu kèm theo hộ vệ.
Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích — với những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết — chứng tỏ là mình xa hoa sang trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ sống.
Người ta quen với chế độ chính trị chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.
Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.
Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.
Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện buồn rầu. Không có đồng hồ. Thời gian chỉ được
ước tính. Ai cũng vậy.