Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Nhà Tây Sơn thừa hưởng công nghệ đóng tàu của Đàng Trong và đầu tư phát triển hạm đội của riêng mình khá dễ dàng.
Lực lượng của họ quả thực rất đáng kể khi mà vừa thu dụng tàu thuyền của Hải tặc vừa nâng cấp và triển khai đóng mới. Việc này là một chiến lược khôn ngoan vì tàu hải tặc sẽ đủ để đáp ứng về số lượng, và việc đầu tư nâng cấp diễn ra sau khi hạm đội thành lập sẽ dễ dàng hơn là xây mới từ đầu.

Chiến hạm là phương tiện cơ động và chiến đấu không thể thiếu ở các quốc gia có nhiều sông ngòi, kênh rạch, đầm hồ và vùng biển lớn như nước ta.
Suốt các triều đại lịch sử kể từ khi lập nước, thủy quân và chiến hạm luôn được các vị Vua Đinh, Lý, Trần, Lê... coi trọng phát triển. Mỗi triều đại, chiến hạm luôn có nét riêng phù hợp với yêu cầu dựng nước và giữ nước.
Tuy vậy, chiến hạm triều Tây Sơn được giới sử học đánh giá là tạo bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật quân sự. Thậm chí, dành được vô số sự thừa nhận, khen ngợi từ giới quân sự phương Tây thời điểm đó.
Sửng sốt kinh ngạc chiến hạm “Đại hiệu”
Theo cuốn Lịch sử Kỹ thuật Quân sự (giản yếu) của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, ngay sau khi quét sạch quân Thanh khỏi bờ cõi, Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ bắt tay ngay vào việc phát triển thủy quân với dự định không chỉ đối phó quân Thanh mà còn để “đập tan quân Nguyễn Ánh dễ như đập một cành củi khô, một thanh gỗ mục”.
Đặc biệt, khi tàn quân Nguyễn Ánh bắt đầu xin sự trợ giúp từ người Pháp, Bồ Đào Nha thì Nguyễn Huệ thúc đẩy nhanh xây dựng các chiến hạm đủ sức đối phó với công nghệ phương Tây.
Lúc bấy giờ, ở châu Âu, chiến hạm nhiều tầng pháo ra đời, trở thành vũ khí ghê gớm trên biển. Chẳng hạn một chiếc chiến hạm hạng nhất của Pháp có 120 khẩu pháo các loại, tương đương hỏa lực 1/3 tổng số thuyền chiến Đàng Trong ở Phú Xuân.
Lợi thể căn bản của loại tàu này so với tàu chiến phương Đông là nó như một dàn pháo di động trên biển, đảm bảo hỏa lực liên lục không đứt đoạn. Chính vì vậy, với các triều đại phong kiến phương Đông, loại tàu này như một “con ngáo ộp” rất đáng sợ.
Dẫu vậy, vua Quang Trung Nguyễn Huệ kịch liệt công kích thái độ run sợ trước “ngáo ộp” phương Tây. Ông tin rằng nó “không có gì đáng lạ” bởi lẽ quân Tây Sơn rồi sẽ có.
Vì trình độ thợ của nước ta không hề kém, trong xưởng thuyền của Nguyễn Ánh, chỉ sau một lần dỡ tàu Tây ra lắp lại là đã sản xuất hàng loạt chiến hạm tương tự, thậm chí đẹp hơn.
Mà những người thợ đó đều là người Đàng Trong và những xưởng thuyền đào tạo họ đều nằm trong vùng đất Tây Sơn quản lý.

Cuối thế kỷ XVIII, John Barrow là một người Anh, sang nước ta trong những ngày Tây Sơn đóng nhiều tàu nhất (1792-1793) đã nhận xét: "Có một nghề đặc biệt trong các nghề mà xứ Đàng Trong hiện nay có thể tự hào, đó là nghề đóng thuyền biển… Thuyền biển của họ đi không nhanh, nhưng rất an toàn, bên trong được chia thành nhiều khoang. Loại này rất chắc, có thể va vào đá ngầm mà không chìm, vì nước chỉ vào được một khoang mà thôi. Hiện ở Anh đã bắt chước cách đó để đóng tàu".
Lực lượng của họ quả thực rất đáng kể khi mà vừa thu dụng tàu thuyền của Hải tặc vừa nâng cấp và triển khai đóng mới. Việc này là một chiến lược khôn ngoan vì tàu hải tặc sẽ đủ để đáp ứng về số lượng, và việc đầu tư nâng cấp diễn ra sau khi hạm đội thành lập sẽ dễ dàng hơn là xây mới từ đầu.

Chiến hạm là phương tiện cơ động và chiến đấu không thể thiếu ở các quốc gia có nhiều sông ngòi, kênh rạch, đầm hồ và vùng biển lớn như nước ta.
Suốt các triều đại lịch sử kể từ khi lập nước, thủy quân và chiến hạm luôn được các vị Vua Đinh, Lý, Trần, Lê... coi trọng phát triển. Mỗi triều đại, chiến hạm luôn có nét riêng phù hợp với yêu cầu dựng nước và giữ nước.
Tuy vậy, chiến hạm triều Tây Sơn được giới sử học đánh giá là tạo bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật quân sự. Thậm chí, dành được vô số sự thừa nhận, khen ngợi từ giới quân sự phương Tây thời điểm đó.
Sửng sốt kinh ngạc chiến hạm “Đại hiệu”
Theo cuốn Lịch sử Kỹ thuật Quân sự (giản yếu) của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, ngay sau khi quét sạch quân Thanh khỏi bờ cõi, Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ bắt tay ngay vào việc phát triển thủy quân với dự định không chỉ đối phó quân Thanh mà còn để “đập tan quân Nguyễn Ánh dễ như đập một cành củi khô, một thanh gỗ mục”.
Đặc biệt, khi tàn quân Nguyễn Ánh bắt đầu xin sự trợ giúp từ người Pháp, Bồ Đào Nha thì Nguyễn Huệ thúc đẩy nhanh xây dựng các chiến hạm đủ sức đối phó với công nghệ phương Tây.
Lúc bấy giờ, ở châu Âu, chiến hạm nhiều tầng pháo ra đời, trở thành vũ khí ghê gớm trên biển. Chẳng hạn một chiếc chiến hạm hạng nhất của Pháp có 120 khẩu pháo các loại, tương đương hỏa lực 1/3 tổng số thuyền chiến Đàng Trong ở Phú Xuân.
Lợi thể căn bản của loại tàu này so với tàu chiến phương Đông là nó như một dàn pháo di động trên biển, đảm bảo hỏa lực liên lục không đứt đoạn. Chính vì vậy, với các triều đại phong kiến phương Đông, loại tàu này như một “con ngáo ộp” rất đáng sợ.
Dẫu vậy, vua Quang Trung Nguyễn Huệ kịch liệt công kích thái độ run sợ trước “ngáo ộp” phương Tây. Ông tin rằng nó “không có gì đáng lạ” bởi lẽ quân Tây Sơn rồi sẽ có.
Vì trình độ thợ của nước ta không hề kém, trong xưởng thuyền của Nguyễn Ánh, chỉ sau một lần dỡ tàu Tây ra lắp lại là đã sản xuất hàng loạt chiến hạm tương tự, thậm chí đẹp hơn.
Mà những người thợ đó đều là người Đàng Trong và những xưởng thuyền đào tạo họ đều nằm trong vùng đất Tây Sơn quản lý.

Cuối thế kỷ XVIII, John Barrow là một người Anh, sang nước ta trong những ngày Tây Sơn đóng nhiều tàu nhất (1792-1793) đã nhận xét: "Có một nghề đặc biệt trong các nghề mà xứ Đàng Trong hiện nay có thể tự hào, đó là nghề đóng thuyền biển… Thuyền biển của họ đi không nhanh, nhưng rất an toàn, bên trong được chia thành nhiều khoang. Loại này rất chắc, có thể va vào đá ngầm mà không chìm, vì nước chỉ vào được một khoang mà thôi. Hiện ở Anh đã bắt chước cách đó để đóng tàu".