Đinh Mỹ Linh
Trẻ trâu
Tác giả: Hồ Bạch Thảo
Sau khi Trương Phụ đặt chân đến vùng Quảng Trị, Quảng Bình, đánh dẹp xong nhà Hậu Trần; tham vọng xâm lăng của y hướng tới Chiêm Thành tại phía nam. Thời Hồ Quí Ly, lãnh thổ nước ta mở mang đến tận 4 châu Thanh [bắc Quảng Nam], Hoa [nam Quảng Nam], Tư [bắc Quảng Ngãi], Nghĩa [nam Quảng Ngãi]; lúc quân Minh đánh nhà Hồ, Chiêm Thành mượn cớ giúp Minh, nhân thời cơ chiếm lại 4 châu. Đến đây Trương Phụ bèn giành lại 4 châu và cho đặt quan cai trị:
“Ngày 27 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [16/4/1414]. Ngày hôm nay lập 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; tất cả đều lệ thuộc phủ Thăng Hoa. Phủ này ở phía nam Hóa Châu, gồm 11 huyện bao gồm cả Lê Giang. Vì giặc họ Lê lấy đất này của Chiêm Thành, để cho bọn Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung trông coi. Đến lúc bọn Nguyễn Súy làm phản, Chiêm Thành lại sai người cai quản. Nay bọn nổi loạn đã bị bắt, quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ cùng Kiềm quốc công Mộc Thạnh bàn lập lại 4 châu, theo thể chế giao cho những người xin hàng gồm Nguyễn Nhiêu, Dương Mộng Tùng, Phạm Công Nghị, Nguyễn Kiệm chức Tri châu; Hồ Giao, Trương Nguyên Chú, Vũ Chinh, Phạm Phưởng chức Đồng tri; lại gửi thư cho Chiêm Thành Sứ giả biết về việc xếp đặt này; cùng tâu trình về triều. Hoàng thái tử chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Lúc này Vua Minh không còn o bế Chiêm Thành như trước, nghiêm khắc răn đe Chiêm Ba Đích Lại gây hấn với nước Chân Lạp phương nam:
“Ngày 11 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [1/4/1414]. Sai bọn Phụng ngự Chúc Nguyên đi sứ nước Chân Lạp. Trước đây Chân Lạp sai người cống sản vật địa phương, tâu rằng nước này mấy lần bị Chiêm Thành xâm lược. Viên Sứ giả lưu tại kinh sư lâu, đến nay Thiên tử sai bọn Nguyên đưa về, cùng ban cho Quốc vương Chân Lạp Tham Liệt Chiêu Bình Nha lụa, tiền. Riêng ban sắc răn Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại phải an phận theo lẽ phải, giữ yên bờ cõi, hòa mục với lân bang.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Trầm trọng hơn, Thượng thư Trần Hiệp tố cáo Chiêm Thành cấu kết với nhà Hậu Trần, xin mang quân đi chinh phạt; tuy nhiên Vua Minh chỉ nghiêm khắc cảnh cáo Chiêm Ba Đích Lại:
“Ngày 13 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [29/12/1415]. Thượng thư bộ Binh Trần Hiệp tâu rằng lúc triều đình mang binh dẹp giặc họ Lê cùng Trần Quí Khoáng, Quốc vương nước Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại tuy tuân triều mệnh mang binh sang trợ giúp; nhưng y âm mưu hai lòng, coi bọn chúng như môi với răng để hòng nương dựa. Y trông chờ nhìn ngó tình hình, không tiến quân đúng hẹn, lúc đến Hóa Châu thì ra sức cướp bóc. Lại đưa vàng, vải vóc, voi trận tư cấp cho Quí Khoáng, Khoáng mang con gái họ Lê đem cho; còn dung nạp cậu Quí Khoáng là Trần Ông Đình, em của Đặng Dung là Đặng Đoàn cùng trai gái hơn 3 vạn người. Y xâm đoạt phủ Thăng Hoa gồm 4 châu 11 huyện, lại cướp bóc nhân dân, tội dưới Quí Khoáng một bậc mà thôi. Phàm có tội phải trừng trị, xin phát binh chinh phạt.
Thiên tử cho rằng vừa bình định xong, dân mới được yên nghiệp, không nỡ mang quân đi đánh nước man di xa xôi. Chỉ sai sứ sang dụ Chiêm Ba Đích Lại rằng nước ngươi từ lâu bị An Nam độc hại, mấy lần xin phát binh tiễu trừ, Trẫm đã mệnh đem quân bình định, chia nước này thành quận huyện. Ngươi Đích Lại, đáng cảm tạ ân đức, yên phận để giữ đất phong, nếu ăn ở hai lòng trái đạo trời, không chăm sóc kẻ dưới, không chịu trả lại đất An Nam, thì hãy trông bánh xe đổ trước mắt, xem đó để làm răn!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 27)
Rút kinh nghiệm về các cuộc nổi dậy thường dựa vào vùng đất miền bắc Trung Phần làm cơ sở, và nhắm sẵn sàng trấn áp Chiêm Thành; Trương Phụ cho tăng cường quân sự, đặt thêm các vệ, sở, tại nơi này:
“Ngày 9 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [24/6/1414]. Ngày hôm nay đặt tại Giao Chỉ 3 vệ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa; đặt Diễn Châu Thủ Ngự Thiên hộ sở, Nghệ An vệ Nam Tĩnh Thiên hộ sở. Lúc bấy giờ Anh quốc công Trương Phụ cho rằng 4 phủ tiếp giáp với Lão Qua, Chiêm Thành, Xiêm Man; đất đai rộng lớn, dân chúng đông đúc cần phải khống chế. Cùng bàn bạc với Kiềm quốc công Mộc Thạnh cho đặt sở, vệ tại các phủ. Căn cứ vào sổ hộ tịch bắt lính, cho Thổ quan chỉ huy Thiên hộ, xin cấp ấn tín; được Hoàng Thái tử chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Về vua tôi nhà Hậu Trần sau khi bị bắt; Trương Phụ cho áp giải bằng xe tù, đưa về kinh đô:
“Ngày 9 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [27/5/1414]. Quan Tổng binh Giao Chỉ Tân thành hầu Trương Phụ cho áp giải bằng xe tù đầu đảng giặc gồm ngụy Hoàng đế nước Đại Việt Trần Quí Khoáng, ngụy Phiêu kỵ Đại tướng quân đặc tiến Khai phủ nghi đồng Tam ty nhập nội kiểm hiệu Thống chính thái truyền bình chương sự Thượng trụ quốc Khai quốc trung vũ công Nguyễn Súy, cùng 9 ấn tín ngụy và gia thuộc các tên giặc; tất cả đưa về kinh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 11)
Sử Trung Quốc chép sau khi áp giải đến kinh đô, vua tôi nhà Hậu Trần đều bị tru lục:
“Ngày 2 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [16/8/1414]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ cho người đem đầu đảng giặc Trần Quí Khoáng, Nguyễn Súy đến kinh đô; bọn chúng chịu tội tru lục.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Tuy nhiên sử Việt, cả 2 bộ Toàn Thư và Cương Mục đều chép rằng Vua Trùng Quang và Đặng Dung nhảy xuống nước chết; Nguyễn Súy dùng bàn cờ đánh người lính canh, rồi cũng nhảy xuống sông chết:
“Trương Phụ đã bắt được Đế Quý Khoáng và Dung, Súy, bèn dẫn quân về thành Đông Quan, sai người đưa vua tôi Quý Khoáng sang Yên Kinh. Khi đi đến giữa đường, Đế Quý Khoáng nhảy xuống sông chết; Dung nhảy theo. Duy còn Súy bị người lính canh bắt giữ lại, Sùy bèn ngày ngày cùng người lính canh đánh cờ, dần dà làm thân, sau lấy bàn cờ đánh chết người canh, rồi cũng nhảy xuống sông chết.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.
Sau khi đánh dẹp xong cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần; Trương Phụ, Mộc Thạnh trở về nước; nhưng chỉ nửa năm sau Trương Phụ lại được điều sang lần thứ 4, lãnh ấn Chinh di tướng quân, thống lãnh quan binh Giao Chỉ:
“Ngày 8 tháng 9 nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 12 [21/10/1414]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ, Kiềm quốc công Mộc Thạnh cho rằng phản tặc tại Giao Chỉ đã bình, ủy quyền Đô chỉ huy Chu Huy, Liêu Xuân suất quan quân 5000 người lưu tại Giao Chỉ phòng ngự. Bọn Phụ mang quân trở về.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 14)
“Ngày 1 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [9/5/1415]
Mệnh Anh quốc công Trương Phụ đeo ấn Chinh Di Tướng quân thống lãnh quan binh trấn Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 19)
Bấy giờ nhà Minh chủ trương bóc lột, vơ vét nặng nề; cứ 1 mẫu đất bắt khai thành 3 mẫu; theo qui định mới 1 mẫu thu 5 thăng thóc; đất trồng dâu, 1 mẫu thu 1 lạng tơ:
“Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [11/1414].
Nhà Minh bắt khai số ruộng và đất trồng dâu, trưng thu lương thực, tơ tằm. Mỗi hộ 1 mẫu thì bắt khai thành 3 mẫu. Đến sau xét hộ khẩu tăng hàng năm, định số ruộng mỗi hộ là 10 mẫu [nghĩa là mỗi mẫu chỉ có 3 sào, 10 mẫu thực ra chỉ có 3 mẫu]. Mỗi mẫu thu 5 thăng [thăng = lít] thóc, đất bãi mỗi hộ một mẫu thu 1 lạng tơ, mỗi cân tơ dệt được 1 tấm lụa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26a.
Muối do quan lại nhà Minh quản lý, bán cho thương gia lấy vàng, hoặc bạc nén:
“Ngày 23 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [31/5/1415]
Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng đã triệu tập thương gia đến, hứa cho dùng vàng, bạc, tiền đồng để đổi muối. Rồi bộ Hộ qui định một lượng vàng cấp 30 dẫn muối [1 dẫn = 300 cân]; 1 lượng bạc, hoặc 2500 đồng tiền cấp 3 dẫn. Nay chấp nhận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 21)
Thời Giản Định Đế và Vua Trùng Quang khởi nghĩa, do tình hình chiến sự, tạm thời đóng cửa các mỏ vàng tại Nghệ An, Diễn Châu; nay cho khai thác trở lại:
“Ngày 10 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [2/8/1416]
Cho đặt lại 2 cục mỏ vàng tại trấn Vọng Giang, Diễn Châu và trấn Lâm An phủ Nghệ An. Trước đây dân Man không yên nên hai cơ sở này đóng không hoạt động, nay cho thiết lập lại.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 33)
Sử Việt xác nhận nhà Minh sai hoạn quan sang nước ta trông coi các hầm mỏ, bãi muối; bắt dân ta đãi vàng, bạc; mò trân châu, săn voi, vv…:
“Minh Vĩnh Lạc năm thứ 13 [1415]. Mùa thu, tháng 8, nhà Minh khám thu các mỏ vàng, bạc, mộ phụ đãi nhặt vàng bạc và bắt voi trắng, mò trân châu. Thuế khóa nặng, vơ vét nhiều, dân chúng điêu đứng. Bãi muối ven biển cấm dân mua bán riêng, sai nội quan [hoạn quan] coi giữ cả. Lại đặt chức cục sứ và phó của từng bãi muối để chia nhau trông coi. Các phủ, châu, huyện đều đặt phó sứ ty Thuế khóa và sở Hà bạc[1].” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26a.
Trần Nguyệt Hồ nổi dậy cùng thời với Giản Định Đế [1407]; kéo dài mãi đến thời Trương Phụ sang lần thứ 4, y mang đại quân truy kích từ Thanh Hóa đến huyện Xích Thố, tỉnh Ninh Bình mới dẹp được:
“Ngày 1 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [2/11/1415]
Tên phản loạn Trần Nguyệt Hồ tại Giao Chỉ bị giết. Trước đó Nguyệt Hồ tụ tập dân địa phương tại Lỗi Giang, Thanh Hóa làm loạn, tự xưng Vương Nguyệt Hồ. Gặp lúc Anh quốc công Trương Phụ tới Giao Chỉ tiến binh tiễu trừ. Giặc thua chạy, bèn truy kích đến trấn Đại Quan [Thiên Quan?], huyện Xích Thổ [Ninh Bình], bắt được Nguyệt Hồ; bèn giải về kinh sư tru lục. Bọn đồ đảng Quách Nguyên Khánh tiếp tục bị giết, bọn giặc còn lại được bình định.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 26)
Trấn áp bằng bạo lực, các cuộc nổi dậy càng dấy lên không ngớt, lòng dân tỏ ra không phục; Vua Minh bèn thay đổi chính sách, sử dụng tôn giáo văn hóa, kèm với bạo lực, để mua chuộc. Thực hiện chính sách này, Thượng thư Hoàng Phúc được lệnh đưa bọn nhà nho, nhà sư, đạo sĩ, thầy thuốc, thầy tướng sang Nam Kinh huấn luyện, rồi giao chức quan, để đưa về nước dùng:
“Tháng 9 [10/1415], Hoàng Phúc nhà Minh sai quan áp giải đích thân những bọn nho học, thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ đưa về Yên Kinh trao cho quan chức rồi đưa về các nha môn làm việc. Lại ra lệnh cho các quan ty sở tại cấp cho tiền đi đường và người bạn tống, nếu không sẽ bị trừng trị; dọc đường phải cấp cơm ăn và tiền đi đường.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26b
Sau khi Trương Phụ đặt chân đến vùng Quảng Trị, Quảng Bình, đánh dẹp xong nhà Hậu Trần; tham vọng xâm lăng của y hướng tới Chiêm Thành tại phía nam. Thời Hồ Quí Ly, lãnh thổ nước ta mở mang đến tận 4 châu Thanh [bắc Quảng Nam], Hoa [nam Quảng Nam], Tư [bắc Quảng Ngãi], Nghĩa [nam Quảng Ngãi]; lúc quân Minh đánh nhà Hồ, Chiêm Thành mượn cớ giúp Minh, nhân thời cơ chiếm lại 4 châu. Đến đây Trương Phụ bèn giành lại 4 châu và cho đặt quan cai trị:
“Ngày 27 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [16/4/1414]. Ngày hôm nay lập 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; tất cả đều lệ thuộc phủ Thăng Hoa. Phủ này ở phía nam Hóa Châu, gồm 11 huyện bao gồm cả Lê Giang. Vì giặc họ Lê lấy đất này của Chiêm Thành, để cho bọn Nguyễn Súy, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung trông coi. Đến lúc bọn Nguyễn Súy làm phản, Chiêm Thành lại sai người cai quản. Nay bọn nổi loạn đã bị bắt, quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ cùng Kiềm quốc công Mộc Thạnh bàn lập lại 4 châu, theo thể chế giao cho những người xin hàng gồm Nguyễn Nhiêu, Dương Mộng Tùng, Phạm Công Nghị, Nguyễn Kiệm chức Tri châu; Hồ Giao, Trương Nguyên Chú, Vũ Chinh, Phạm Phưởng chức Đồng tri; lại gửi thư cho Chiêm Thành Sứ giả biết về việc xếp đặt này; cùng tâu trình về triều. Hoàng thái tử chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Lúc này Vua Minh không còn o bế Chiêm Thành như trước, nghiêm khắc răn đe Chiêm Ba Đích Lại gây hấn với nước Chân Lạp phương nam:
“Ngày 11 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [1/4/1414]. Sai bọn Phụng ngự Chúc Nguyên đi sứ nước Chân Lạp. Trước đây Chân Lạp sai người cống sản vật địa phương, tâu rằng nước này mấy lần bị Chiêm Thành xâm lược. Viên Sứ giả lưu tại kinh sư lâu, đến nay Thiên tử sai bọn Nguyên đưa về, cùng ban cho Quốc vương Chân Lạp Tham Liệt Chiêu Bình Nha lụa, tiền. Riêng ban sắc răn Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại phải an phận theo lẽ phải, giữ yên bờ cõi, hòa mục với lân bang.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Trầm trọng hơn, Thượng thư Trần Hiệp tố cáo Chiêm Thành cấu kết với nhà Hậu Trần, xin mang quân đi chinh phạt; tuy nhiên Vua Minh chỉ nghiêm khắc cảnh cáo Chiêm Ba Đích Lại:
“Ngày 13 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [29/12/1415]. Thượng thư bộ Binh Trần Hiệp tâu rằng lúc triều đình mang binh dẹp giặc họ Lê cùng Trần Quí Khoáng, Quốc vương nước Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại tuy tuân triều mệnh mang binh sang trợ giúp; nhưng y âm mưu hai lòng, coi bọn chúng như môi với răng để hòng nương dựa. Y trông chờ nhìn ngó tình hình, không tiến quân đúng hẹn, lúc đến Hóa Châu thì ra sức cướp bóc. Lại đưa vàng, vải vóc, voi trận tư cấp cho Quí Khoáng, Khoáng mang con gái họ Lê đem cho; còn dung nạp cậu Quí Khoáng là Trần Ông Đình, em của Đặng Dung là Đặng Đoàn cùng trai gái hơn 3 vạn người. Y xâm đoạt phủ Thăng Hoa gồm 4 châu 11 huyện, lại cướp bóc nhân dân, tội dưới Quí Khoáng một bậc mà thôi. Phàm có tội phải trừng trị, xin phát binh chinh phạt.
Thiên tử cho rằng vừa bình định xong, dân mới được yên nghiệp, không nỡ mang quân đi đánh nước man di xa xôi. Chỉ sai sứ sang dụ Chiêm Ba Đích Lại rằng nước ngươi từ lâu bị An Nam độc hại, mấy lần xin phát binh tiễu trừ, Trẫm đã mệnh đem quân bình định, chia nước này thành quận huyện. Ngươi Đích Lại, đáng cảm tạ ân đức, yên phận để giữ đất phong, nếu ăn ở hai lòng trái đạo trời, không chăm sóc kẻ dưới, không chịu trả lại đất An Nam, thì hãy trông bánh xe đổ trước mắt, xem đó để làm răn!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 27)
Rút kinh nghiệm về các cuộc nổi dậy thường dựa vào vùng đất miền bắc Trung Phần làm cơ sở, và nhắm sẵn sàng trấn áp Chiêm Thành; Trương Phụ cho tăng cường quân sự, đặt thêm các vệ, sở, tại nơi này:
“Ngày 9 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [24/6/1414]. Ngày hôm nay đặt tại Giao Chỉ 3 vệ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa; đặt Diễn Châu Thủ Ngự Thiên hộ sở, Nghệ An vệ Nam Tĩnh Thiên hộ sở. Lúc bấy giờ Anh quốc công Trương Phụ cho rằng 4 phủ tiếp giáp với Lão Qua, Chiêm Thành, Xiêm Man; đất đai rộng lớn, dân chúng đông đúc cần phải khống chế. Cùng bàn bạc với Kiềm quốc công Mộc Thạnh cho đặt sở, vệ tại các phủ. Căn cứ vào sổ hộ tịch bắt lính, cho Thổ quan chỉ huy Thiên hộ, xin cấp ấn tín; được Hoàng Thái tử chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Về vua tôi nhà Hậu Trần sau khi bị bắt; Trương Phụ cho áp giải bằng xe tù, đưa về kinh đô:
“Ngày 9 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [27/5/1414]. Quan Tổng binh Giao Chỉ Tân thành hầu Trương Phụ cho áp giải bằng xe tù đầu đảng giặc gồm ngụy Hoàng đế nước Đại Việt Trần Quí Khoáng, ngụy Phiêu kỵ Đại tướng quân đặc tiến Khai phủ nghi đồng Tam ty nhập nội kiểm hiệu Thống chính thái truyền bình chương sự Thượng trụ quốc Khai quốc trung vũ công Nguyễn Súy, cùng 9 ấn tín ngụy và gia thuộc các tên giặc; tất cả đưa về kinh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 11)
Sử Trung Quốc chép sau khi áp giải đến kinh đô, vua tôi nhà Hậu Trần đều bị tru lục:
“Ngày 2 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [16/8/1414]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ cho người đem đầu đảng giặc Trần Quí Khoáng, Nguyễn Súy đến kinh đô; bọn chúng chịu tội tru lục.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 12)
Tuy nhiên sử Việt, cả 2 bộ Toàn Thư và Cương Mục đều chép rằng Vua Trùng Quang và Đặng Dung nhảy xuống nước chết; Nguyễn Súy dùng bàn cờ đánh người lính canh, rồi cũng nhảy xuống sông chết:
“Trương Phụ đã bắt được Đế Quý Khoáng và Dung, Súy, bèn dẫn quân về thành Đông Quan, sai người đưa vua tôi Quý Khoáng sang Yên Kinh. Khi đi đến giữa đường, Đế Quý Khoáng nhảy xuống sông chết; Dung nhảy theo. Duy còn Súy bị người lính canh bắt giữ lại, Sùy bèn ngày ngày cùng người lính canh đánh cờ, dần dà làm thân, sau lấy bàn cờ đánh chết người canh, rồi cũng nhảy xuống sông chết.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.
Sau khi đánh dẹp xong cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần; Trương Phụ, Mộc Thạnh trở về nước; nhưng chỉ nửa năm sau Trương Phụ lại được điều sang lần thứ 4, lãnh ấn Chinh di tướng quân, thống lãnh quan binh Giao Chỉ:
“Ngày 8 tháng 9 nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 12 [21/10/1414]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ, Kiềm quốc công Mộc Thạnh cho rằng phản tặc tại Giao Chỉ đã bình, ủy quyền Đô chỉ huy Chu Huy, Liêu Xuân suất quan quân 5000 người lưu tại Giao Chỉ phòng ngự. Bọn Phụ mang quân trở về.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 14)
“Ngày 1 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [9/5/1415]
Mệnh Anh quốc công Trương Phụ đeo ấn Chinh Di Tướng quân thống lãnh quan binh trấn Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 19)
Bấy giờ nhà Minh chủ trương bóc lột, vơ vét nặng nề; cứ 1 mẫu đất bắt khai thành 3 mẫu; theo qui định mới 1 mẫu thu 5 thăng thóc; đất trồng dâu, 1 mẫu thu 1 lạng tơ:
“Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [11/1414].
Nhà Minh bắt khai số ruộng và đất trồng dâu, trưng thu lương thực, tơ tằm. Mỗi hộ 1 mẫu thì bắt khai thành 3 mẫu. Đến sau xét hộ khẩu tăng hàng năm, định số ruộng mỗi hộ là 10 mẫu [nghĩa là mỗi mẫu chỉ có 3 sào, 10 mẫu thực ra chỉ có 3 mẫu]. Mỗi mẫu thu 5 thăng [thăng = lít] thóc, đất bãi mỗi hộ một mẫu thu 1 lạng tơ, mỗi cân tơ dệt được 1 tấm lụa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26a.
Muối do quan lại nhà Minh quản lý, bán cho thương gia lấy vàng, hoặc bạc nén:
“Ngày 23 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [31/5/1415]
Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng đã triệu tập thương gia đến, hứa cho dùng vàng, bạc, tiền đồng để đổi muối. Rồi bộ Hộ qui định một lượng vàng cấp 30 dẫn muối [1 dẫn = 300 cân]; 1 lượng bạc, hoặc 2500 đồng tiền cấp 3 dẫn. Nay chấp nhận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 21)
Thời Giản Định Đế và Vua Trùng Quang khởi nghĩa, do tình hình chiến sự, tạm thời đóng cửa các mỏ vàng tại Nghệ An, Diễn Châu; nay cho khai thác trở lại:
“Ngày 10 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [2/8/1416]
Cho đặt lại 2 cục mỏ vàng tại trấn Vọng Giang, Diễn Châu và trấn Lâm An phủ Nghệ An. Trước đây dân Man không yên nên hai cơ sở này đóng không hoạt động, nay cho thiết lập lại.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 33)
Sử Việt xác nhận nhà Minh sai hoạn quan sang nước ta trông coi các hầm mỏ, bãi muối; bắt dân ta đãi vàng, bạc; mò trân châu, săn voi, vv…:
“Minh Vĩnh Lạc năm thứ 13 [1415]. Mùa thu, tháng 8, nhà Minh khám thu các mỏ vàng, bạc, mộ phụ đãi nhặt vàng bạc và bắt voi trắng, mò trân châu. Thuế khóa nặng, vơ vét nhiều, dân chúng điêu đứng. Bãi muối ven biển cấm dân mua bán riêng, sai nội quan [hoạn quan] coi giữ cả. Lại đặt chức cục sứ và phó của từng bãi muối để chia nhau trông coi. Các phủ, châu, huyện đều đặt phó sứ ty Thuế khóa và sở Hà bạc[1].” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26a.
Trần Nguyệt Hồ nổi dậy cùng thời với Giản Định Đế [1407]; kéo dài mãi đến thời Trương Phụ sang lần thứ 4, y mang đại quân truy kích từ Thanh Hóa đến huyện Xích Thố, tỉnh Ninh Bình mới dẹp được:
“Ngày 1 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [2/11/1415]
Tên phản loạn Trần Nguyệt Hồ tại Giao Chỉ bị giết. Trước đó Nguyệt Hồ tụ tập dân địa phương tại Lỗi Giang, Thanh Hóa làm loạn, tự xưng Vương Nguyệt Hồ. Gặp lúc Anh quốc công Trương Phụ tới Giao Chỉ tiến binh tiễu trừ. Giặc thua chạy, bèn truy kích đến trấn Đại Quan [Thiên Quan?], huyện Xích Thổ [Ninh Bình], bắt được Nguyệt Hồ; bèn giải về kinh sư tru lục. Bọn đồ đảng Quách Nguyên Khánh tiếp tục bị giết, bọn giặc còn lại được bình định.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 26)
Trấn áp bằng bạo lực, các cuộc nổi dậy càng dấy lên không ngớt, lòng dân tỏ ra không phục; Vua Minh bèn thay đổi chính sách, sử dụng tôn giáo văn hóa, kèm với bạo lực, để mua chuộc. Thực hiện chính sách này, Thượng thư Hoàng Phúc được lệnh đưa bọn nhà nho, nhà sư, đạo sĩ, thầy thuốc, thầy tướng sang Nam Kinh huấn luyện, rồi giao chức quan, để đưa về nước dùng:
“Tháng 9 [10/1415], Hoàng Phúc nhà Minh sai quan áp giải đích thân những bọn nho học, thầy thuốc, thầy tướng số, nhà sư, đạo sĩ đưa về Yên Kinh trao cho quan chức rồi đưa về các nha môn làm việc. Lại ra lệnh cho các quan ty sở tại cấp cho tiền đi đường và người bạn tống, nếu không sẽ bị trừng trị; dọc đường phải cấp cơm ăn và tiền đi đường.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9, trang 26b