leonardo dicaprio
Địt xong chạy
13 KHỔ HẠNH ĐẦU ĐÀ CỦA PHẬT GIÁO
1. Hạnh phấn tảo y.
2. Hạnh ba y.
3. Hạnh khất thực.
4. Hạnh khất thực từng nhà.
5. Hạnh nhất tuệ thực.
6. Hạnh ăn bằng bát.
7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong).
8. Hạnh ở rừng.
9. Hạnh ở gốc cây.
10. Hạnh ở giữa trời.
11. Hạnh ở nghĩa địa.
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
13. Hạnh ngủ ngồi.
- Giải thích
1. Gọi là phấn tảo (pamsukùla - bụi bặm), vì nó được tìm ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, đống phân (midden), nó thuộc về đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình trạng tồi tệ như đồ bỏ (Pamsu viya kucchita-bhàvamulati) cho nên gọi là phấn tảo y.
2. Ba y là áo khoác ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ y.
3. Sự để rơi (pàta) những mẩu đồ ăn (pinda) gọi là khất thực, pindapàta. Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất thực.
Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt - nghĩa này không có trong tự điển của hội Pàli Text) những miếng ăn (pinda) nên gọi là người thu nhặt đồ ăn, hay người khất thực (pindapàtin). Sự thực hành này gọi là hạnh khất thực để sống.
4. Hạnh thứ đệ khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhandana hay dàna.Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi ) hoặc không chỗ trống, không hở, là apadàna.
Người đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng giữa, gọi là sapadànacàrin, tức là hạnh khất thực từng nhà, thứ đệ khất.
5. Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh nhất tọa thực (ăn ngày một bữa).
6. Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát, (pattapindika).
7. "Khalu" có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchàbhatta).
Người không ăn đồ ăn như thế gọi là khalu- pacchàbhattika, không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong Luận nói: “Khalu là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị tỳ-kheo này cũng vậy.
8. Vị ấy quen sống ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.
9. Sống dưới gốc cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.
10. Ở ngoài trời và ở nghĩa địa, cũng thế.
11. Những gì được phân phối (cho mình) gọi là "như được phân phối" (yathà-santhata). Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được phân phối cho vị tỳ kheo.
12. Người nghỉ ở chỗ được phân phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như được phân phối (yathàsanthatika) người theo hạnh này gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
13. Vị ấy có thói quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.
Tất cả những hạnh kể trên gọi là hạnh (anga) cùa một tỳ kheo theo khổ hạnh (dhuta, đầu-đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy.
Gọi là "đầu-đà" (dhuta) vì nó rũ sạch (niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh ( anga ) vì nó là con đường (patipatti).
______________
Pháp hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm có có 3 bậc:
1- Bậc thượng: Hành giả ngồi ngay thẳng, không dựa lưng, đầu vào một nơi nào cả.
2- Bậc trung: Hành giả có thể ngồi dựa lưng, đầu vào tường…
3- Bậc hạ: Hành giả có thể ngồi trên giường, trên ghế dựa…
Hành giả sau khi thọ trì pháp hạnh đầu đà này rồi, suốt đêm: Canh đầu, canh giữa, canh cuối chỉ sử dụng 3 oai nghi: Oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, oai nghi đứng là phụ tuyệt đối không sử dụng oai nghi nằm, cho đến rạng sáng ngày hôm sau.
Nếu hành giả muốn ngủ để thân tâm được nghỉ ngơi, thì hành giả có thể ngủ trong oai nghi ngồi.
Như vậy, hành giả đã thành tựu kết quả pháp hạnh đầu đà này.
Hành giả đã thọ pháp hành đầu đà này rồi, ban đêm có 3 canh: Canh đầu, canh giữa, canh cuối, nếu hành giả đặt lưng và đầu xuống mặt phẳng nằm nghỉ ngơi vào canh nào, thì pháp hành đầu đà này bị đứt.
Tuy pháp hành đầu đà này bị đứt nhưng không có tội, chỉ không được phước mà thôi.
Hành giả có thể nguyện thọ pháp hạnh đầu đà này trở lại.
Pháp hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm này, chỉ thọ trì oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, hành giả được thành tựu các quả báu như sau:
- Cắt đứt tâm ham nằm ngủ ngon giấc.
- Thuận lợi thực hành mọi pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
- Giữ gìn các oai nghi đáng kính, dễ phát sinh đức tin trong sạch.
- Tinh tấn thực hành thiền định, hoặc thực hành thiền tuệ liên tục.
- Hỗ trợ cho các pháp hành giới - định - tuệ… được phát triển và tăng trưởng tốt.
____________________
1. Hạnh phấn tảo y.
2. Hạnh ba y.
3. Hạnh khất thực.
4. Hạnh khất thực từng nhà.
5. Hạnh nhất tuệ thực.
6. Hạnh ăn bằng bát.
7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong).
8. Hạnh ở rừng.
9. Hạnh ở gốc cây.
10. Hạnh ở giữa trời.
11. Hạnh ở nghĩa địa.
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
13. Hạnh ngủ ngồi.
- Giải thích
1. Gọi là phấn tảo (pamsukùla - bụi bặm), vì nó được tìm ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, đống phân (midden), nó thuộc về đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình trạng tồi tệ như đồ bỏ (Pamsu viya kucchita-bhàvamulati) cho nên gọi là phấn tảo y.
2. Ba y là áo khoác ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ y.
3. Sự để rơi (pàta) những mẩu đồ ăn (pinda) gọi là khất thực, pindapàta. Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất thực.
Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt - nghĩa này không có trong tự điển của hội Pàli Text) những miếng ăn (pinda) nên gọi là người thu nhặt đồ ăn, hay người khất thực (pindapàtin). Sự thực hành này gọi là hạnh khất thực để sống.
4. Hạnh thứ đệ khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhandana hay dàna.Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi ) hoặc không chỗ trống, không hở, là apadàna.
Người đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng giữa, gọi là sapadànacàrin, tức là hạnh khất thực từng nhà, thứ đệ khất.
5. Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh nhất tọa thực (ăn ngày một bữa).
6. Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát, (pattapindika).
7. "Khalu" có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchàbhatta).
Người không ăn đồ ăn như thế gọi là khalu- pacchàbhattika, không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong Luận nói: “Khalu là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị tỳ-kheo này cũng vậy.
8. Vị ấy quen sống ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.
9. Sống dưới gốc cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.
10. Ở ngoài trời và ở nghĩa địa, cũng thế.
11. Những gì được phân phối (cho mình) gọi là "như được phân phối" (yathà-santhata). Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được phân phối cho vị tỳ kheo.
12. Người nghỉ ở chỗ được phân phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như được phân phối (yathàsanthatika) người theo hạnh này gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
13. Vị ấy có thói quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.
Tất cả những hạnh kể trên gọi là hạnh (anga) cùa một tỳ kheo theo khổ hạnh (dhuta, đầu-đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy.
Gọi là "đầu-đà" (dhuta) vì nó rũ sạch (niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh ( anga ) vì nó là con đường (patipatti).
______________
Pháp hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm có có 3 bậc:
1- Bậc thượng: Hành giả ngồi ngay thẳng, không dựa lưng, đầu vào một nơi nào cả.
2- Bậc trung: Hành giả có thể ngồi dựa lưng, đầu vào tường…
3- Bậc hạ: Hành giả có thể ngồi trên giường, trên ghế dựa…
Hành giả sau khi thọ trì pháp hạnh đầu đà này rồi, suốt đêm: Canh đầu, canh giữa, canh cuối chỉ sử dụng 3 oai nghi: Oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, oai nghi đứng là phụ tuyệt đối không sử dụng oai nghi nằm, cho đến rạng sáng ngày hôm sau.
Nếu hành giả muốn ngủ để thân tâm được nghỉ ngơi, thì hành giả có thể ngủ trong oai nghi ngồi.
Như vậy, hành giả đã thành tựu kết quả pháp hạnh đầu đà này.
Hành giả đã thọ pháp hành đầu đà này rồi, ban đêm có 3 canh: Canh đầu, canh giữa, canh cuối, nếu hành giả đặt lưng và đầu xuống mặt phẳng nằm nghỉ ngơi vào canh nào, thì pháp hành đầu đà này bị đứt.
Tuy pháp hành đầu đà này bị đứt nhưng không có tội, chỉ không được phước mà thôi.
Hành giả có thể nguyện thọ pháp hạnh đầu đà này trở lại.
Pháp hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm này, chỉ thọ trì oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, hành giả được thành tựu các quả báu như sau:
- Cắt đứt tâm ham nằm ngủ ngon giấc.
- Thuận lợi thực hành mọi pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
- Giữ gìn các oai nghi đáng kính, dễ phát sinh đức tin trong sạch.
- Tinh tấn thực hành thiền định, hoặc thực hành thiền tuệ liên tục.
- Hỗ trợ cho các pháp hành giới - định - tuệ… được phát triển và tăng trưởng tốt.
____________________
Sửa lần cuối: