fdgfdhfgg
Già trâu

Tổng thống Mỹ Donald Trump gần đây nhiều lần nhắc tới tham vọng mua lại hòn đảo Greenland từ Đan Mạch, thậm chí không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực để đạt mục tiêu. Trong chuyến thăm Greenland cuối tháng trước, Phó tổng thống Mỹ JD Vance lưu ý thế giới nên xem xét mong muốn của ông Trump một cách nghiêm túc.
Greenland, hòn đảo có dân số 57.000 người và diện tích khoảng 2,16 triệu km2, nằm trên tuyến đường ngắn nhất từ Bắc Mỹ tới châu Âu, khiến nó trở thành địa điểm chiến lược quan trọng với Washington. Greenland có nguồn khoáng sản dồi dào, phần lớn chưa được khai thác.
Việc mua lại lãnh thổ từ một quốc gia khác hiện được xem là động thái bất thường đối với một lãnh đạo Mỹ, nhưng thực tế Mỹ đã có được một số bang và vùng lãnh thổ ngày nay bằng việc mua lại trong quá khứ. Quần đảo Virgin thuộc Mỹ, gồm ba đảo chính Saint Thomas, Saint John và Saint Croix, là một trong số đó.
Đan Mạch từng biến ba hòn đảo nói trên thành thuộc địa, gọi là quần đảo Tây Ấn của Đan Mạch, trong thế kỷ 17 và 18. Họ bắt nô lệ châu Phi làm việc trong những đồn điền sản xuất đường, mang về nguồn lợi nhuận cho đến những năm 1840, khi giá đường giảm. Vào cuối thế kỷ 19, Đan Mạch ngày càng cảm thấy tốn kém khi kiểm soát và duy trì phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết trên các hòn đảo.
Vị trí ba đảo Saint Thomas, Saint John và Saint Croix (màu vàng) thuộc Quần đảo Virgin của Mỹ. Đồ họa: Britannica
Trong khi đó, ngay từ khi Nội chiến năm 1861-1865, Mỹ đã để mắt tới các hòn đảo như tài sản kinh tế và an ninh quốc gia mà họ có thể kiểm soát. Điều này bắt nguồn từ việc quan chức Mỹ thời đó nghĩ rằng ba hòn đảo có thể giúp đảm bảo lợi ích kinh tế ở vùng Caribe và nỗi lo rằng thế lực thù địch nước ngoài có thể kiểm soát chúng trước Washington.
"Trong những năm 1880-1890, nghi ngờ chủ yếu nhắm vào Đức, quốc gia ngày càng thể hiện sự quan tâm tới khu vực Mỹ Latin. Việc công ty tàu hơi nước Đức Hamburg-American Line sử dụng đảo Saint Thomas như trạm tiếp nhiên liệu thường xuyên làm dấy lên nhiều hoài nghi", nhà sử học Isaac Dookhan từng viết trong bài đăng trên Nghiên cứu Caribe năm 1975.
Các cuộc đàm phán đầu tiên giữa Mỹ và Đan Mạch về ba hòn đảo bắt đầu năm 1865, khi nội chiến Mỹ kết thúc. Ngoại trưởng Mỹ William Henry Seward đàm phán hiệp ước để Đan Mạch nhượng lại các hòn đảo cho Mỹ năm 1867, nhưng sau đó bị Thượng viện bác bỏ. Nguyên nhân một phần do tâm lý phản đối bành trướng lãnh thổ hậu nội chiến và do Thượng viện bất bình với Seward vì đã ủng hộ tổng thống Andrew Johnson trong phiên tòa luận tội.
Đàm phán được nối lại vào những năm 1890 nhưng thất bại lần nữa khi Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ bùng nổ năm 1898. Sau cuộc chiến đó, Mỹ giành được lãnh thổ Puerto Rico ở Caribe, Guam và Philippines ở Tây Thái Bình Dương. Puerto Rico và Guam ngày nay vẫn là lãnh thổ thuộc Mỹ, Philippines được trao trả độc lập sau Thế chiến II.
Mỹ khi đó đã tăng cường sức mạnh và quan tâm nhiều hơn đến việc mở rộng lãnh thổ. Mỹ cũng đặt mục tiêu xây dựng kênh đào Panama và điều này khiến họ càng quan tâm hơn tới việc mua ba đảo từ Đan Mạch để đảm bảo tuyến hàng hải trong tương lai.
Lần này, Ngoại trưởng Mỹ John Hay đàm phán hiệp ước với Đan Mạch. Thượng viện Mỹ phê chuẩn hiệp ước năm 1902, nhưng quốc hội Đan Mạch lại bác bỏ.
Năm 1915, nỗi lo lắng Đức kiểm soát các đảo đã thúc đẩy Mỹ hành động. Tổng thống Woodrow Wilson và Ngoại trưởng Robert Lansing lo rằng Đức có thể sáp nhập Đan Mạch, sau đó phát động nhiều cuộc tấn công hơn từ vùng Tây Ấn Đan Mạch. Các lãnh đạo Đan Mạch tiếp tục phản đối nhượng đảo.
Tức giận với động thái này, Lansing bóng gió rằng nếu Đan Mạch không bán các hòn đảo, Mỹ có thể sử dụng vũ lực chiếm chúng để ngăn nguy cơ Đức kiểm soát. Lời đe dọa đã hiệu quả.
Mong muốn ngăn nguy cơ Mỹ tấn công, Đan Mạch đã đàm phán hiệp ước mà sau đó được Tổng thống Wilson ký duyệt ngày 16/1/1917. Ngày 31/3/1917, Đan Mạch chính thức chuyển giao quyền quản lý các hòn đảo cho Mỹ và nhận về 25 triệu USD tiền vàng, tương đương khoảng 613 triệu USD ngày nay.
Vịnh Trunk trên đảo Saint John thuộc Quần đảo Virgin của Mỹ. Ảnh: CNN
Thỏa thuận này được mô tả là đôi bên cùng có lợi. Đan Mạch có thể giảm bớt gánh nặng tài chính để duy trì ba hòn đảo, trong khi Mỹ có được vùng lãnh thổ có vị trí chiến lược với 6 cảng nước sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quốc phòng và hải quân.
Sau khi chuyển giao chủ quyền, quần đảo Tây Ấn của Đan Mạch trở thành lãnh thổ Mỹ và nay được biết đến với tên gọi Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Cư dân của quần đảo được cấp quốc tịch Mỹ đầy đủ từ năm 1932.
Trong những năm qua, Mỹ đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các sáng kiến kinh tế để cải thiện cuộc sống của cư dân trên các đảo.
Vị trí của các hòn đảo khiến chúng trở nên hấp dẫn đối với ngành du lịch và thương mại. Mỹ đã đầu tư phát triển du lịch của quần đảo, quảng bá chúng như điểm đến hấp dẫn với các bãi biển hoang sơ và nền văn hóa đặc sắc. Du lịch đã trở thành nguồn thu quan trọng cho Quần đảo Virgin thuộc Mỹ, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và tạo cơ hội việc làm.
Tuy nhiên, người dân ở đây không có quyền bỏ phiếu bầu tổng thống Mỹ. Họ có chính quyền địa phương riêng, bầu thống đốc 4 năm một lần. Quần đảo có một nghị sĩ tại Hạ viện Mỹ, nhưng người này chỉ được phép tham gia các cuộc tranh luận chứ không có quyền bỏ phiếu tại quốc hội Mỹ.
Ngày 31/3 hàng năm, quần đảo tổ chức "Ngày chuyển giao" để kỷ niệm ngày Đan Mạch bán các hòn đảo cho Mỹ.
Thùy Lâm (Theo Washington Post, History, Cardinal News)