Thằng Bố Tao
Tôi là Thằng mặt lồn
Đà Nẵng ngày giải phóng 50 năm trước
Sau 10 năm chọn Đà Nẵng làm cứ điểm quân sự lớn nhất miền Trung, binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải đầu hàng ngày 29/3/1975.9

Bấm để lật ảnh sau/trước

Ngày 8/3/1965, Lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến của Mỹ đổ bộ lên bãi biển từ Phú Lộc đến Xuân Thiều (nay thuộc quận Liên Chiểu, Đà Nẵng), đánh dấu sự can thiệp trực tiếp của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam.
Chiều cùng ngày, Tiểu đoàn thứ hai của Lữ đoàn 9 được không vận từ căn cứ quân sự Okinawa (Nhật Bản) đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Tổng số quân từ các lần đổ bộ của Mỹ khoảng 3.500, mang theo xe tăng, pháo tự hành 175 mm, tầm bắn xa 30 km; tên lửa AIM - 7E Sparrow...
Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, sau TP HCM, sở hữu căn cứ quân sự khổng lồ với khoảng 100.000 binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đến Đà Nẵng tháng 7/1965. Mỹ chọn Đà Nẵng vì vị trí quân sự chiến lược, dễ bề chia cắt hai miền Nam - Bắc, đồng thời tận dụng cảng nước sâu và giữ cự ly nhất định với miền Bắc để xây dựng các căn cứ quân sự dã chiến, mục đích tấn công miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Đổ bộ Đà Nẵng, quân Mỹ chiếm đóng sân bay, khu vực Tây Bắc (huyện Hòa Vang), xây doanh trại dã chiến, cho lập ty cảnh sát Gia Long, tòa thị chính, quân vụ, tòa lãnh sự... Hệ thống phòng thủ bên trong nội thành do quân Việt Nam Cộng hòa đảm trách, bên ngoài là quân Mỹ.
Quân đội Mỹ sau đó tổ chức nhiều đợt càn quét, đốt phá nhà dân, chiếm đèo Hải Vân, núi Phước Tường, xây dựng lô cốt và trận địa pháo, lập căn cứ quân sự ở Ngũ Hành Sơn, lắp đặt hệ thống radar hiện đại trên bán đảo Sơn Trà để khống chế vùng trời. Sân bay Đà Nẵng và hai sân bay trực thăng Nước Mặn, Xuân Thiều được gấp rút xây dựng.

Quân Giải phóng và người dân đã áp dụng nhiều lối đánh dần tiêu hao sinh lực địch, phá hoại máy bay chiến đấu của Mỹ. Trong ảnh là kho bom đạn Phước Lý của Mỹ bị đánh bom sáng 27/4/1969. Vụ cháy nổ kéo dài sang ngày 28/4/1969, với những tiếng nổ dây chuyền không ngớt, làm cho giới chức Mỹ hoang mang, gây chấn động cả miền Nam.
Thời điểm này, đàm phán Paris đang diễn ra với sự tham dự của bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa. Danh nghĩa đàm phán bốn bên, nhưng thực chất là giữa hai phía, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ. Đàm phán đã có những thời điểm rơi vào bế tắc.

Sau gần 5 năm đàm phán, 12h30 ngày 23/1/1973, Ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt đoàn đàm phán với Mỹ, người lãnh đạo cao nhất phía Việt Nam và Kissinger, cố vấn đoàn Mỹ, ký tắt hiệp định Paris và các nghị định thư. Sáng 27/1, lễ ký chính thức hiệp định Paris diễn ra tại trung tâm hội nghị quốc tế Kléber.
Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền nam Việt Nam; không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; ngừng bắn, rút hết quân trong 60 ngày... Trong ảnh, những sĩ quan Mỹ cuối cùng rút khỏi Đà Nẵng, ngày 14/3/1973.

Cuối năm 1974, cục diện chiến tranh chuyển biến có lợi để Việt Nam mở cuộc tiến công và nổi dậy trong hai năm 1975-1976. Tháng 3/1975, quân Giải phóng liên tiếp thắng lớn trên chiến trường Tây Nguyên và Trung Trung Bộ.
Ở phía bắc, ngày 25/3, TP Huế được giải phóng, tạo thành thế gọng kìm vây hãm chiến trường Đà Nẵng, khiến hơn 100.000 quân địch bị cô lập bằng đường bộ, suy sụp tinh thần. Trong ảnh, xe tăng 707 của Trung đoàn 574, Sư đoàn 2, Quân khu 5 yểm trợ bộ binh đánh chiếm điểm cao thuộc Tam Kỳ, Quảng Nam, ngày 24/3/1975.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2, Quân khu 5 đã mở chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26/3 đến ngày 29/3/1975), tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Quảng Đà, không cho chúng có điều kiện củng cố lực lượng và bố trí thế chiến lược mới.
Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà họp bàn phương án giải phóng Đà Nẵng tại căn cứ Hòn Tàu, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, ngày 27/3/1975. Mục đích là tiêu diệt lực lượng thuộc Quân đoàn 1 - Quân khu 1 quân đội Sài Gòn co cụm phòng thủ tại Đà Nẵng trong tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng do ông Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, ông Chu Huy Mân, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 5 làm Chính ủy. Trong ảnh, ông Chu Huy Mân nói chuyện với bộ đội thiết giáp trước giờ tiến công giải phóng Đà Nẵng.
Trong hồi ký của trung tướng Phan Hoan, địch lúc này ở Đà Nẵng có Sư đoàn 3 bộ binh, sư đoàn lính thủy đánh bộ, 15 tiểu đoàn bảo an, 7 tiểu đoàn pháo binh (194 khẩu), một trung đoàn thiết giáp (70 xe), một sư đoàn không quân (370 máy bay các loại), 5.000 cảnh sát, 24.000 phòng vệ dân sự, tàn quân các nơi dồn về, tổng cộng hơn 100.000.
Quân Giải phóng có Quân đoàn 2 và Quân khu 5, gồm Sư đoàn bộ binh 2, Lữ đoàn bộ binh 52, 2 tiểu đoàn tăng thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, 2 trung đoàn và 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương, du kích và lực lượng tự vệ, biệt động... Theo nhận định của quân Giải phóng, quân địch đông nhưng không mạnh, vì đang ở trạng thái hoang mang cực độ.

5h ngày 28/3/1975, quân Giải phóng bắn pháo lớn khống chế sân bay, bến cảng, sở chỉ huy quân đoàn 1, bán đảo Sơn Trà; xuyên thủng hệ thống phòng ngự vòng ngoài của địch và áp sát TP Đà Nẵng từ nhiều hướng. Tối cùng ngày, Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1, vội vã rời bỏ sở chỉ huy để lên tàu Hạm đội 7 trốn chạy.
Rạng sáng 29/3, Quân đoàn 2 và Quân khu 5 huy động 30 khẩu pháo lớn tấn công vào các khu vực Hòn Bằng, Trà Kiệu, Vĩnh Điện, sân bay Đà Nẵng, cảng Sơn Trà, sân bay Nước Mặn..., chi viện cho các mũi bộ binh, xe tăng tiến công từ nhiều hướng. Đối phương chủ yếu nổ súng yếu ớt rồi tháo chạy hoặc đầu hàng.

9h30, biệt động quận I, do ông Phạm Kiều Đa dẫn đầu, chiếm giữ tòa thị chính, trung tâm hành chính của chính quyền Sài Gòn tại Đà Nẵng. Lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên nóc tòa nhà thị chính Đà Nẵng, lúc 11h30 ngày 29/3/1975.

Xe tăng của quân Giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng, ngày 29/3/1975. Các mũi tiến công khác cũng tràn vào thành phố, buộc binh lính của Việt Nam Cộng hòa phải tháo chạy bằng đường biển và hàng không.
Khắp Đà Nẵng khi đó hỗn loạn, nhiều lính Việt Nam Cộng hòa tìm đường tháo chạy ra bến cảng, sân bay, hoặc xả súng vào các ổ khóa của tiệm buôn lớn để phá phách, cướp tài sản, giết người. Số ít bị bắn trong các đợt giao tranh quy mô nhỏ.

Xe tăng của Việt Nam Cộng hòa bỏ lại trong chiến dịch giải phóng Đà Nẵng. Quân Giải phóng nhanh chóng chiếm đài phát thanh, nhà máy điện Liên Trì, cảng Đà Nẵng... Nhờ đó hệ thống thông tin liên lạc, điện chiếu sáng được duy trì ngay khi Đà Nẵng được giải phóng.

Chiến thắng Đà Nẵng chỉ trong 32 giờ và là một trong những trận đánh chớp nhoáng, quyết định trong chiến dịch mùa xuân 1975. Nhiều lính Việt Nam Cộng hòa đã bỏ vũ khí đầu hàng. Tù binh bị bắt, áp giải thành hàng dài trên đường.
Theo hồi ký của ông Trần Thận, nguyên Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà, sơ kết trên địa bàn Quảng Đà có hơn 103.000 lính và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa ra trình diện, trong đó có hơn 6.600 sĩ quan cao cấp, 6 đại tá. Báo cáo sau ngày 29/3/1975 cho thấy quân Giải phóng chỉ có một chiến sĩ hy sinh ở phía tây cầu sắt, nay là cầu Trần Thị Lý.

Nhân dân TP Đà Nẵng đón mừng quân giải phóng tiến vào thành phố, ngày 29/3/1975. Giải phóng Đà Nẵng đồng nghĩa với việc quân và dân đập tan căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ở miền Trung, tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 quân địch.
Tổng Bí thư Lê Duẩn khi đó đã nhận định: "Tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng sớm ngoài kế hoạch, có ý nghĩa quyết định và báo hiệu Sài Gòn sẽ sụp đổ không còn lâu nữa".
Sự kiện ngày 29/3/1975 đã chấm dứt 117 năm Đà Nẵng bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đánh chiếm, biến thành "nhượng địa". Sang tháng 4, Đà Nẵng trở thành hậu phương vững chắc, là bàn đạp để bộ đội tiến vào giải phóng Sài Gòn. Hàng nghìn ôtô các loại được huy động để vận chuyển bộ đội, đạn dược, vũ khí phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đông
Ảnh tư liệu Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp