Đảng Cọng Sả Việt Nam đã thao túng lịch sử vì mục đích chính trị như thế nào?

tvxq2610

Phó thường dân
Puerto-Rico
Chuyện hòa giải thần thoại của Hà Nội nhằm củng cố quyền kiểm soát chính trị trong khi vẫn tận dụng được lợi ích kinh tế từ việc tiếp cận cộng đồng người Việt hải ngoại.

thediplomat_2025-05-23-023736.jpg

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Việt Nam.

Hàng năm, khi Việt Nam kỷ niệm ngày 30 tháng 4 - một ngày được gọi là "Ngày Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước" - Đảng Cọng sả Việt Nam (ĐCSVN) lại tái khởi động chiến dịch tuyên truyền quen thuộc. Các bài phát biểu chính thức, sự kiện công cộng và truyền thông nhà nước đều lặp lại cùng một luận điệu chiến thắng: rằng Đảng không chỉ giành chiến thắng trong một cuộc chiến chính nghĩa mà còn thực hiện một chính sách hòa giải nhất quán đối với các cựu thù ở miền Nam.

Một bài viết gần đây trên tạp chí The Diplomat là ví dụ điển hình cho luận điệu được xây dựng cẩn thận này. Bài viết của Khang Vũ cố gắng mô tả các hành động của ĐCSVN trong và sau Chiến tranh Việt Nam như là độ lượng và bao dung, cho rằng Hà Nội đã tìm cách hòa giải với đối phương vì lợi ích lớn hơn và vì sự thống nhất quốc gia.

Tuy nhiên, luận điệu này sụp đổ trước thực tế lịch sử và sự kiểm tra đạo đức. Trên thực tế, cái mà ĐCSVN gọi là "hòa giải" chỉ là một chính sách mang tính tính toán và vị kỷ, nhằm vô hiệu hóa sự bất đồng, tẩy trắng quá khứ bạo lực và đòi hỏi sự phục tùng để đổi lấy sự khoan dung có giới hạn. Bài viết này nhằm vạch trần sự giả dối và động cơ chính trị đằng sau cái gọi là nỗ lực hòa giải của ĐCSVN.

Bài viết bắt đầu bằng lập luận rằng chính sách hòa giải của ĐCSVN có từ năm 1946, khi Hồ Chí Minh chấp nhận sự thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại và giữ ông lại như một "cố vấn tối cao". Dù động thái này có vẻ rộng lượng trên giấy tờ, thực tế chỉ là một quyết định chiến thuật. Bảo Đại nhanh chóng bị tước bỏ mọi quyền lực thực tế và bị biến thành biểu tượng cho đến khi hết giá trị lợi dụng.

Tương tự, bài viết dẫn việc lồng ghép tạm thời các thành phần tư sản và địa chủ ở miền Bắc trong các chiến dịch cải cách ruộng đất những năm 1950. Nhưng đó không phải là hành động khoan dung mà đó là một biện pháp tính toán theo nhu cầu. ĐCSVN cần tài sản và năng lực quản lý của họ để duy trì nền kinh tế thời chiến. Khi những nhu cầu đó không còn, các nhóm này đã bị thanh trừng một cách tàn bạo.

Ngay cả cái gọi là "tự phê bình" của Hồ Chí Minh năm 1956 sau thảm họa cải cách ruộng đất gây ra hàng chục nghìn vụ xử tử oan sai cũng không phải là dấu hiệu của hòa giải. Đó chỉ là sự nhượng bộ chiến lược nhằm xoa dịu làn sóng phẫn nộ của công chúng và ngăn ngừa nổi dậy. Những hành động này luôn nhằm bảo vệ sự thống trị của Đảng, chứ không phải chấp nhận đa dạng chính trị hay xã hội một cách chân thành.

Sau đó là thực tế tàn khốc của các trại cải tạo cọng sả. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, ĐCSVN tuyên bố đang cho các quan chức miền Nam bại trận cơ hội "cải tạo" bản thân. Trên thực tế, đó là một trong những hành động trả thù chính trị lớn nhất trong lịch sử hiện đại Việt Nam.

Từ 300.000 đến 1 triệu cựu quân nhân, công chức, trí thức và lãnh đạo tôn giáo của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bị đưa vào trại cải tạo mà không qua xét xử. Nhiều người bị giam giữ nhiều năm trong điều kiện khắc nghiệt, lao động cưỡng bức, suy dinh dưỡng và bị nhồi sọ tư tưởng không ngừng. Gia đình của các cựu quan chức VNCH bị phân biệt đối xử có hệ thống. Họ bị cấm học đại học, làm việc cho nhà nước và thậm chí bị hạn chế di chuyển trong nước.

Bài viết của Khang Vũ biện hộ cho các hành động này bằng cách viện dẫn lo ngại rằng các sĩ quan VNCH lưu vong có thể tổ chức quân du kích tại Thái Lan và Lào. Lý do này bỏ qua thực tế rằng phần lớn những người bị giam không liên quan đến các hoạt động đó. Việc giam giữ hàng loạt là một hành động trừng phạt tập thể được tính toán nhằm triệt tiêu mọi khả năng kháng cự và củng cố chế độ độc đảng.

Một trong những tuyên bố trắng trợn nhất trong luận điệu hòa giải của ĐCSVN là rằng họ "không xóa bỏ" di sản của Việt Nam Cộng Hòa. Trên thực tế, kể từ năm 1975, Đảng đã tích cực đàn áp mọi ký ức về bản sắc độc lập của miền Nam. Quốc kỳ, quốc ca và các biểu tượng lịch sử của VNCH bị cấm. Sách giáo khoa mô tả các lãnh đạo VNCH là phản động, tội phạm chiến tranh và "tay sai" của Mỹ. Văn học, nghệ thuật và phim ảnh phản ánh lịch sử hoặc văn hóa miền Nam bị kiểm duyệt hoặc cấm phát hành.

Bài viết viện dẫn một vài cử chỉ tượng trưng, như việc "dân sự hóa" Nghĩa trang Biên Hòa và việc tưởng niệm trận hải chiến năm 1974 với Trung Quốc như bằng chứng cho thấy Hà Nội tôn trọng di sản VNCH. Nhưng những hành động này xuất phát từ tính toán chính trị chứ không phải thiện chí. Nghĩa trang Biên Hòa chỉ được mở cửa một phần cho công chúng từ năm 2006 nhằm cải thiện quan hệ với cộng đồng người Việt hải ngoại, trong khi tưởng niệm trận hải chiến phục vụ lợi ích chiến lược của Việt Nam trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.

Ngay cả ngày nay, các cuộc tụ họp công khai để tưởng niệm ngày 30 tháng 4 như một ngày lưu vong và mất mát vẫn bị nghiêm cấm trong nước. Cách tiếp cận của ĐCSVN chưa bao giờ là hòa giải bằng sự trung thực lịch sử mà là kiểm soát luận điệu và hồi sinh có chọn lọc ký ức về VNCH chỉ khi điều đó phục vụ lợi ích của Đảng.

Có lẽ điểm tiết lộ rõ nhất trong luận điệu của Đảng là định nghĩa của họ về hòa giải: yêu cầu các cựu thù "tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và hệ thống chính trị của Việt Nam". Đây là ngôn ngữ ám chỉ sự trung thành tuyệt đối với chế độ ĐCSVN.

Nói cách khác, hòa giải chỉ được phép thực hiện theo điều kiện của Đảng. Các cựu quan chức và người ủng hộ VNCH được hoan nghênh quay về đầu tư nhưng chỉ khi họ giữ im lặng về nhân quyền, tự do chính trị hoặc tính chính danh của chế độ độc đảng. Phê phán, biểu tình hoặc kêu gọi cải cách dân chủ sẽ bị theo dõi, sách nhiễu hoặc bỏ tù.

Bài viết mô tả ĐCSVN là bên có "thiện chí" với các cựu thù, đồng thời đổ lỗi cho những chia rẽ còn tồn tại là do những người ủng hộ VNCH lưu vong vẫn chống đối chế độ cọng sả. Nhưng điều này bỏ qua nguyên tắc cơ bản rằng hòa giải thực sự không thể dựa trên sự phục tùng. Nó phải bắt đầu từ sự công nhận lẫn nhau về những đau thương trong quá khứ và khác biệt chính trị - điều mà ĐCSVN chưa bao giờ cho phép.

Luận điệu hòa giải của ĐCSVN phục vụ một mục đích chính: củng cố quyền lực chính trị trong khi tận dụng các lợi ích kinh tế từ việc tiếp cận cộng đồng người Việt hải ngoại. Từ đầu những năm 1990, Đảng đã tích cực ve vãn kiều bào, không phải để hàn gắn vết thương cũ mà là để thu hút kiều hối và đầu tư.

Từ năm 1993 đến 2023, người Việt hải ngoại đã gửi về hơn 160 tỷ USD kiều hối, trở thành nguồn tăng trưởng kinh tế quan trọng. Những nhân vật như cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ được chào đón trở lại không phải vì ĐCSVN đột nhiên tôn trọng quá khứ của họ mà là vì sự hiện diện của họ giúp hợp thức hóa lời kêu gọi hợp tác kinh tế của chế độ, đồng thời làm giảm đi tiếng nói phản kháng chính trị.

Cách tiếp cận mang tính giao dịch đối với hòa giải này là vô cùng thực dụng và tàn nhẫn. Đảng chấp nhận tiền của người lưu vong nhưng không chấp nhận tiếng nói của họ. Đảng yêu cầu im lặng trước các tội ác của mình để đổi lấy đặc quyền thăm mộ tổ tiên hay đầu tư vào quê hương. Kiểu hòa giải có điều kiện như vậy không có đạo đức cũng như không chân thành.

Nếu Việt Nam thực sự muốn hòa giải với quá khứ đau thương của mình, đất nước cần bắt đầu bằng việc từ bỏ sự độc quyền của Đảng Cọng sả đối sự thật lịch sử. Quốc gia cần phải công nhận toàn bộ câu chuyện phức tạp của Chiến tranh Việt Nam - một câu chuyện tôn vinh sự hy sinh của cả hai miền Bắc và Nam, thừa nhận tội ác của tất cả các bên và tôn trọng niềm tin chính trị của những người đã chọn rời bỏ đất nước thay vì sống dưới chế độ toàn trị.

Hòa giải thực sự nghĩa là khôi phục phẩm giá cho những người bị đàn áp, cho phép tự do bày tỏ quan điểm chính trị đa dạng và đối diện công khai với những chương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc. Điều này đòi hỏi nhiều hơn những tuyên bố một chiều từ quan chức của Đảng và đòi hỏi một cuộc đối thoại toàn quốc mà không bị kiểm duyệt, không bị đe dọa và không bị cưỡng ép.

Cho đến khi điều đó xảy ra, luận điệu hòa giải của Đảng Cọng sả vẫn sẽ chỉ là một công cụ tuyên truyền và là rào cản cho hòa bình thực sự.

 
Sửa lần cuối:
Lịch sử của dacos là bút tích của thánh chiến, nới sức người trade với nồi niêu xoong chảo, mẹ Vi en đẻ xệ Lồn vì chính sách, kẻ không trải qua năm tháng bán mạng thì biết gì mà bảo thánh chỉ cỉa dacos là trò bịp bợm
 
2025 rồi, đọc cái gì thấy nó cấn cấn thì đi tìm hiểu, giờ đứa nào cũng có cái phone vs internet. Tìm hiểu nhiều nguồn xong tự suy nghĩ xem cái nào nó hợp lý, luyện cho bản thân tư duy phản biện. Chứ cứ học sgk vs báo đảng xong vỗ ngực ta đâu làu làu kinh sử thì xứng đáng bị dắt mũi, học xong ra lương đéo tới 5tr/tháng
 

Có thể bạn quan tâm

Top