Lý lịch của thầy Thích Thông Lạc do tu viện chơn như cung cấp
Và đây là cơ sở dữ liệu để phân tích của grok
TRƯỞNG LÃO THÔNG LẠC
Thầy Viện Chủ được may mắn sanh trong một gia đình có truyền thống tu hành Phật Giáo. Thầy sanh ngày 17-9-1927, mẹ Thầy đã có hai người con rồi tái giá mà Thầy là người con đầu của người chồng sau, Thầy có tất cả 7 anh chị em. Từ ngày ông Cố Nội lập ra Long An Tự, rồi kế truyền ông Nội, rồi bà Nội, ông Bác và ông Thân Sinh đều tu theo Tịnh Độ Tông; riêng ông Thân Sinh đã vào Núi Bà Đen tu thêm Mật Tông bùa chú rất linh hiển của một Ông Lục. Thầy Viện Chủ ngay từ lúc 8 tuổi đã được xuất gia vào chùa tu học dưới sự dạy dỗ của ông Bác và ông Thân Sinh. Thầy học thông suốt Hán tự, học kinh sách, học ứng phú đạo tràng, rành thông nghi lễ cổ truyền của Tịnh Độ Tông, lại được chân truyền bùa chú Mật Tông của ông Thân Sinh nên pháp lực khá được nổi tiếng. Năm 16 tuổi mới bắt đầu học chữ quốc ngữ và Thầy đã đỗ được các văn bằng Tú Tài toàn phần chương trình Pháp.
Năm 1961, do tình hình chiến tranh bất an trong vùng, Thầy xin về chùa Ấn Quang tu học và được Hòa Thượng Thiện Hòa đỡ đầu nhận làm đệ tử. Thầy đọc thêm nhiều kinh sách, lại học giáo lý Đại Thừa với các Hòa Thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa, trong khi nhận dạy sinh ngữ Pháp và làm Tổng Giám Thị trường Bồ Đề Chợ Lớn và Giám Học cho trường Bồ Đề Mỹ Tho, do Đại Đức Thích Quảng Chánh và Đại Đức Thích Viên Hạnh làm Hiệu Trưởng. Thời gian này đã mở rộng tầm hiểu biết của Thầy về Phật Giáo với những cao siêu của Giáo Lý Đại Thừa và đầy hấp dẫn trí tuệ giải thoát của làn gió mới Thiền Tông.
Để tránh bớt không khí sôi sục của các cuộc đấu tranh Phật Giáo trong giai đoạn 1963-1966, Thầy xin về chùa Giác Ngộ, cạnh trường Bồ Đề Chợ Lớn. Năm 1968, Thầy được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đề nghị gởi đi xuất ngoại học Tiến Sĩ Phật Học. Trong khi chờ đợi thì ông Thân Sinh của Thầy bị bịnh và Thầy chứng kiến giờ phút hấp hối của người cha với hiện tượng không giải thích được nên Thầy quyết định đi sâu vào đường tu để chứng đắc trí tuệ vô sư. Thầy xin Hòa Thượng Thiện Hòa, lúc đó là Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, để khỏi xuất ngoại, đồng thời xin Hòa Thượng tiến dẫn tới một vị thiền sư nào khác để học Thiền. Do đó Hòa Thượng viết thơ giới thiệu với Hòa Thượng Thanh Từ. Thầy được Hòa Thượng Thanh Từ cho nhập khóa thiền tu 3 năm tại Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu, nhưng sau đó Thầy chỉ cần hoàn tất phần thực hành pháp môn TRI VỌNG trong khóa An Cư Kiết Hạ 1970 phần lý thuyết thì Thầy đã thông hiểu đầy đủ qua kinh sách. Nhận thấy đời sống tại Tu Viện chưa hoàn toàn theo đúng giới luật mà Thầy thấy đó là chìa khóa mở cửa tu chứng nên nhân khi có hai vị sư Khất Sĩ mời Thầy về An Giang, Thầy xin phép Hòa Thượng Thanh Từ ra đi, sống theo Khất Sĩ, ngày một ngọ, ba y một bát, không chùa. Nhưng khi thực sự sống đời Khất Sĩ trong Tăng Đoàn này Thầy thấy vẫn chưa đúng Giới Luật nên Thầy một thân một bóng ra khơi An Giang, lên Ma Thiên Lãnh trên Hòn Sơn, trong sự thiếu thốn trầm trọng lương thực thực phẩm, Thầy đã ăn toàn trái cây rừng, rau hoang dã, ôm pháp TRI VỌNG ngồi tu suốt 9 tháng ròng rã.
IV. HÀNH TRÌNH TU TẬP & THÀNH QUẢ
Việc chứng Thánh quả Tứ Thiền, Tam Minh của Thầy Viện Chủ đã trải qua những giai đoạn đầy máu và nước mắt chứ không phải là việc dễ dàng.
Năm 1970, Hòa Thượng Thanh Từ mở khóa An Cư Kiết Hạ truyền dạy pháp môn TRI VỌNG đầu tiên tại Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu, Thầy là một trong số 10 tăng sinh đầu tiên này. Nhận được pháp, Thầy hoàn toàn tin tưởng vào pháp tu, đem hết năng lực ngày đêm 4 thời, mỗi thời 3 giờ tu tập. Sau Khóa Hạ năm ấy, Thầy xin Hòa Thượng Thanh Từ cùng đi với hai vị sư Khất sĩ về An Giang. Rời hai vị khất sĩ này, một thân một bóng lên ngọn Ma Thiên Lãnh trên Hòn Sơn ngoài khơi An Giang ngồi tu suốt 9 tháng với nhiều khổ hạnh trong thiếu thốn mọi bề, nhưng ái kiết sử với mẹ già không cắt đứt được. Tháng 12 năm 1971, trở về Trãng Bàng, dựng bảng TU VIỆN CHƠN NHƯ (với ý nghĩa là Tu Viện được xuất sinh và cùng tu pháp Tri Vọng của Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu) tại mãnh đất chùa Long An xưa cổ, do từ đời ông cố nội xây cất, nhưng hiện giờ chỉ còn một ngôi miếu nhỏ do dân làng dựng lên để lưu giữ di tích ngôi chùa đã bị chiến tranh tàn phá. Nhờ ngôi miếu này Thầy dùng làm nơi trú ngụ sống và tu hành tại đó giữa chốn bom cày đạn xới suốt ngày đêm (vùng Giải Phóng).
Vì lo sợ an toàn sinh mạng, mẹ và em gái nài nỉ Thầy về xóm Lò Rèn (cách đó chừng 4km, thuộc ấp Lộc Trát, xã Gia Lộc) dựng thất riêng tu. Chính giai đoạn này, với tuổi tráng niên (44) sung sức, tâm sắc dục khó tiêu trừ nên Thầy đã tự chế bằng pháp tiết thực, ngày một ngọ với lưng một chén cơm và vài đũa rau lang luộc. Chỉ một thời gian vài tháng, Thầy bị suy dinh dưỡng trầm trọng cộng với ngồi thiền ức chế vọng tưởng 12 giờ mỗi ngày khiến cho cơ bắp teo nhỏ và chân tay gần bại liệt, phải mất gần một năm kiên trì luyện tập và ăn ngọ đủ bình thường trở lại mới hồi phục.
Cuộc sống tu hành tại ấp Lộc Trát cũng không yên, sự thử thách vẫn tới với người chân tu. Một hôm Bộ Đội Giải Phóng về mở mặt trận trong vùng, đào hố chiến đấu khắp trong xóm và quanh am thất của Thầy. Họ khuyến dụ dân chúng lánh nạn nhưng Thầy bảo "Tôi đã nguyện nhập thất tại đây, dù chết tôi cũng không đi". Thế rồi chiến trận xẩy ra, quân đội Quốc Gia với máy bay, xe tăng và bộ binh tràn tới, bom đạn tơi bời, Thầy vẫn an nhiên ngồi trước tượng Phật trong am thất, không tán loạn. Bộ binh tới hỏi "Bộ Thầy muốn chết sao lại ngồi đây?", Thầy cũng vẫn dùng câu trên để trả lời. Nhờ nghiêm trì giới luật và niềm tin mạnh mẽ vào Đức Phật, Thầy đã an toàn vượt qua, thắng được nỗi sợ hãi kinh khiếp giữa tiếng bom nổ, đạn bắn.
Tháng 8 năm 1975, Thầy trở lại đất chùa Long An của tổ tiên, ngôi miếu thờ nay đã đổ nát không còn dấu vết, dựng am thất quyết tâm tu hành pháp môn Tri Vọng.
Suốt trong giai đoạn từ 1971 đến 1980, Thầy cắt đứt mọi sự tiếp duyên với người ngoài, trừ bà mẹ và cô em gái út cơm nước cúng dường hằng ngọ. Nhờ vô tình tu hạnh độc cư vào pháp tu Tri Vọng nên từ tháng 3 năm 1980, Thầy nhập được THỨC VÔ BIÊN XỨ, sau suốt hai tháng thường xuyên ở trong KHÔNG VÔ BIÊN XỨ. Ngay đó Thầy hiểu trọn vẹn toàn bộ kinh sách Đại Thừa mà Thầy đã hơn 40 năm tụng đọc và tu tập, lại giải được tất cả 1,700 công án thâm sâu của Thiền Tông không chút khó khăn. Vậy là con đường Thiền Tông sau 9 năm tu tập miệt mài, Thầy đã đạt được thành công này. Nhưng nhìn lại tâm mình bằng trí tuệ Thức Vô Biên, Thầy vẫn thấy THAM-SÂN-SI còn nguyên, không cách tiêu trừ. Chán nản quá, nếu không có mẹ già đang khổ cực nuôi cơm hằng ngày thì Thầy đã quyên sinh vì thấy con đường tu hành không lối thoát. Trong lúc tâm trí còn dùng dằng thì bỗng vô tình lật TRUNG BỘ KINH NIKAYA do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Pali sang Việt ngữ. Đọc thấy lời tựa của Hòa Thượng nói âm mưu thâm độc của Bà La Môn Giáo nhằm tiêu diệt Phật Giáo, đồng thời tình cờ lật đọc bài ĐẠI KINH SACCAKA, Thầy nghi ngờ mình đã tu lầm đường. Một niềm hy vọng lóe lên. Thầy bỏ thì giờ nghiên cứu Đại Tạng Kinh Nikaya đã được Hòa Thượng Minh Châu Việt dịch, Thầy hiểu rõ ràng lời Phật dạy, biết được tu như thế nào, tu pháp gì và sẽ chứng được cái gì. Mọi việc sáng như ban ngày, càng tu càng thích. Thế rồi chỉ sau 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1980, Thầy lần lượt nhập được SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN và đêm cuối cùng Thầy hoàn tất TAM MINH. Lúc sắp bước vào Tứ Thiền, đề phòng mẹ Thầy không đủ hiểu biết, sợ bà cho là Thầy đã chết nên Thầy căn dặn "Chừng nào mẹ thấy con sình thối thì hãy chôn, còn không thì mẹ đừng sợ; con sẽ nhập định không ăn, không uống, không thở". Kinh nghiệm nhập Tứ Thiền này cho Thầy biết khả năng làm chủ sự sống chết rõ ràng và sau khi chết sẽ còn lại cái gì. Cũng trong kinh nghiệm đó, Thầy chỉ thấy cõi giới siêu hình, cái mà quần chúng hôm nay tin tưởng là cõi giới vô hình, chẳng qua chỉ là cõi giới lưu xuất từ TƯỞNG ẤM do TƯỞNG THỨC thực hiện. Qua khỏi tưởng thức, dùng trí tuệ Tam Minh biết rõ như vậy. Từ đây con đường tu Đạo của Thầy Viện Chủ đã có hướng đi dứt khoát.