thandieuhieplu11@
Bò lái xe
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đã có những chia sẻ thẳng thắn với Tuổi Trẻ xoay quanh nghị quyết 57 cũng như những vấn đề lớn liên quan đến cơ chế thu hút, sử dụng người tài trong nước và quốc tế.
Nghị quyết 57 là một động thái tích cực, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Đó là khẳng định của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn khi được hỏi về nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.Nhân chuyến công tác tại Việt Nam, giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đã có những chia sẻ thẳng thắn với Tuổi Trẻ xoay quanh nghị quyết 57 cũng như những vấn đề lớn liên quan đến cơ chế thu hút, sử dụng nhân tài trong nước và quốc tế.
Không nhất thiết phải mời "the best"
* Theo giáo sư, bài toán chọn đúng người trong quá trình thu hút nhân tài về nước nên được giải quyết thế nào?- Tôi cho rằng câu chuyện không chỉ dừng ở "mời được người tài" mà phải là "mời đúng người". Giáo sư, chuyên gia trên thế giới rất đa dạng. Có những người có năng lực thật sự, nhưng cũng không ít trường hợp có thể lập lờ về danh phận hoặc chỉ mong tận dụng cơ hội để hưởng lợi nhiều hơn là đóng góp.
Do đó muốn thu hút nhân tài một cách hiệu quả, nhất thiết phải có hội đồng thẩm định đủ tầm, đủ khách quan. Hội đồng này phải gồm những người thực sự am hiểu giới học thuật quốc tế, nắm rõ hệ quy chiếu đánh giá khoa học toàn cầu.
Không chỉ đơn thuần xét lý lịch hay danh xưng, mà phải nhìn vào những gì người đó đã làm được, công bố quốc tế ra sao, có bằng sáng chế, công trình ứng dụng hay năng lực lãnh đạo nhóm nghiên cứu không.
* Nhưng liệu những người giỏi có sẵn sàng về Việt Nam làm việc?
- Người giỏi nhất - "the best" - thường đã có chỗ đứng vững chắc ở nước ngoài. Họ có sự nghiệp, có môi trường lý tưởng và mức thu nhập cao nên khả năng họ về nước là không nhiều.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn cơ hội. Trên thế giới có những chuyên gia, nhà khoa học sau tiến sĩ có đề tài chưa được phát triển tại Mỹ hay châu Âu nhưng khi về các nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, họ lại có cơ hội hiện thực hóa những ý tưởng đó.
Vì vậy không nhất thiết chỉ hướng đến "the best" mà hãy tìm những người phù hợp, có tiềm năng và mong muốn cống hiến. Quan trọng là chúng ta phải có tiêu chí rõ ràng và quy trình tuyển chọn minh bạch.
Trung Quốc là một ví dụ tiêu biểu. Họ xây dựng hẳn chương trình "Ngàn nhân tài", không chỉ thu hút nhân lực trong lĩnh vực khoa học mà còn trải rộng sang các ngành khác. Họ mời qua các kênh chính thức và thậm chí thuê các công ty trung gian chuyên nghiệp để lo toàn bộ quy trình đàm phán, thủ tục.
Đặc biệt nhà khoa học sau khi ký hợp đồng sẽ gắn bó trực tiếp với một đơn vị cụ thể như trường đại học, viện nghiên cứu, bệnh viện và chịu sự ràng buộc rõ ràng về các kết quả cần đạt được.
Cần môi trường làm việc văn minh
* Ông có những góc nhìn nào về nghị quyết 57 đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các chuyên gia, nhà khoa học?- Với các chuyên gia đang sinh sống ở nước ngoài như tôi, tôi quan tâm hơn đến các nội dung thu hút nhân tài quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ cao quay về cống hiến cho đất nước. Nghị quyết có đề cập đến việc cần có những cơ chế ưu đãi như nhập quốc tịch, sở hữu nhà đất, cải thiện thu nhập và tạo dựng môi trường làm việc thuận lợi thu hút các chuyên gia quốc tế.
Tuy nhiên phải thẳng thắn nhìn nhận rằng từ nghị quyết đến thực tiễn còn là quãng đường dài. Chúng ta từng có những chủ trương tốt nhưng khi thực hiện thì lại vướng rào cản thủ tục hành chính.
Bản thân tôi sau hơn 25 năm với nhiều hoạt động về khoa học trong nước nhưng về để tổ chức một workshop hay tập huấn ngắn hạn vẫn phải đi xin phép hàng loạt cơ quan, từ truyền thông, an ninh cho đến y tế, thậm chí cả chính quyền địa phương. Đó là một ví dụ cho thấy những thủ tục rườm rà vô hình trung có thể làm nản lòng không ít chuyên gia.
* Nhìn ở góc độ khác, không ít người đã trở về rồi cũng không ít người lại ra đi. Phải chăng chúng ta đang có rào cản về môi trường làm việc?
- Đúng vậy. Tôi từng trực tiếp quản lý một bộ phận trong một đơn vị tại Việt Nam. Sau một thời gian tôi thấy trong bộ phận của mình có hiện tượng các bạn ở vị trí trên lại dùng nhiều lời lẽ quá đáng và cư xử thiếu tôn trọng, thiếu chuyên nghiệp ngay trong nội bộ.
Tôi thậm chí đã phải ra một nội quy cấp trên không được nhục mạ cấp dưới. Đáng buồn, sau khi tôi rời đi những thói quen cũ lại quay về.
Gần đây ba nghiên cứu sinh tiến sĩ từ nước ngoài về nước làm việc nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, cả ba đều rời bỏ vì không chịu nổi môi trường làm việc có phần bảo thủ và thiếu tính khích lệ sáng tạo.
Muốn thu hút nhân tài bền vững cần xây dựng môi trường làm việc văn minh, hiện đại và mang lại cảm hứng cho người làm khoa học. Đặc biệt khi những người mình mời về phần lớn đều đã có thời gian làm việc trong môi trường phương Tây.
Về chính sách đãi ngộ hay cơ sở vật chất tôi nghĩ Việt Nam dần không có sự chênh lệch nhiều với thế giới. Đã có nhiều bệnh viện Việt Nam sẵn sàng trả các bác sĩ quốc tế đến 15.000 hay 20.000 USD/tháng. Vấn đề lớn nhất vẫn nằm ở môi trường làm việc.
Có những nghiên cứu phải hàng chục năm
* Một điểm được đánh giá tích cực ở nghị quyết 57 là cơ chế chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học. Giáo sư có nhìn nhận đây là một bước tiến rất lớn sẽ "cởi trói" cho các nghiên cứu khoa học?- Tôi rất đồng ý. Thực tế tôi từng chứng kiến ở Việt Nam có những đề tài khoa học buộc phải cam kết trong vòng hai năm phải cho ra sản phẩm và có khả năng thương mại hóa. Tuy nhiên khoa học không vận hành theo cách đó. Có những nghiên cứu mất hàng chục năm mới đi đến ứng dụng thực tiễn.
Chẳng hạn một nghiên cứu về gene liên quan đến loãng xương có thể mất từ 20 đến 30 năm mới phát triển được loại thuốc điều trị hiệu quả.
Ngay như ở Úc, để đưa một loại dược phẩm mới ra thị trường, quá trình này thường kéo dài 5 năm chỉ riêng cho giai đoạn phát triển sản phẩm, trong đó mất 2-3 năm để thuyết phục các hiệp hội chuyên môn và có thể tốn 7-8 năm nữa mới chính thức được áp dụng trên bệnh nhân.
Do đó tôi hoàn toàn đồng ý rằng không nên siết chặt đầu ra trong nghiên cứu khoa học, bởi đây là lĩnh vực mà kết quả rất khó đo lường và định giá trước. Thay vào đó điều chúng ta cần làm là kiểm soát chặt chẽ ngay từ đầu vào. Nghĩa là chỉ nên tài trợ cho những đề tài thật sự xứng đáng - những đề tài có tính mới, có tiềm năng tác động đến thực tiễn.