ThanhCongTu
Xàm 0 Lít
@Cucuvn: Acc này còn mới nên không thể reply vào topic của bác theo chính sách mới của diễn đàn. Bác copy giúp vào topic của bác nhé.
Sorry ae vì đến hôm nay mới có thời gian ngồi tổng hợp lại và chia sẻ về thiền Vipassana. Những kiến thức trong này cơ bản được lấy từ bài giảng của thầy Goenka nhé AE.
1. Nguồn gốc
Đức Phật Siddhattha Gotama là người đã hoàn toàn giác ngộ, cuộc đời của Người giữ trọn vẹn Sila. Sau đó, ngày đã thực hành Sammā samādhi, Ngài đã từ bỏ đời sống gia đình để đi tầm đạo với nhiều Bậc Thầy. Ngài đã từng tu tập các tầng Thiền định cao nhất thời đó là 8 tầng Thiền (4 tầng Thiền sắc giới và 4 tầng Thiền vô sắc giới). Ngài đã thực tập tất cả nhưng vẫn thấy mình chưa được giải thoát hoàn toàn. Ngài nhận thấy sâu tận trong tâm vẫn còn những bất tịnh nằm bất động giống như núi lửa đang ngủ yên: “Khi nào những núi lửa này còn hiện hữu, chúng có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Chúng sẽ chế ngự ta và một lần nữa cuộc đời ta lại tràn đầy đau khổ. Phải bứng nhổ tận gốc rễ của các bất tịnh nằm rất sâu trong tâm ta”.
Vì lý do này, Ngài đã tiếp tục tìm kiếm và đã tái khám phá ra phương pháp Thiền Vipassana.
Thiền Vipassanā (Minh sát) đã có từ trước trong kinh Rigveda cổ xưa, nhưng chỉ là những lời đọc tụng suông. Việc thực hành đã thất truyền. Đức Phật Gotama là người đã tái khám phá ra nó. Ngài nói: “pubbe ananusutesu dhammesu cakkhuṃ upadādi” – Mắt ta đã mở đối với Pháp mà trước đây ta chưa từng được nghe – (nhãn sanh). Sau đó Ngài gọi Pháp ấy là purāṇo maggo – Con đường cổ xưa. Ngài tìm lại được con đường từ lâu đã bị vùi lấp, lãng quên và ban bố nó cho thế gian.
2.Cơ sở lý thuyết (Vì nó là cơ sở lý thuyết nên hơi dài, mình copy lại để ae ai có hứng thú thì nghiên cứu):
Tóm tắt: Hành (Saṅkhāra) là nguồn gốc của sự tái sinh. Khi thực hành thiền thì ta sẽ phá bỏ các Sankhara tích luỹ từ nhiều kiếp và khi giải phóng hết toàn bộ Sankhara thì đạt đến quả vị Arahan và được giải thoát.
Sorry ae vì đến hôm nay mới có thời gian ngồi tổng hợp lại và chia sẻ về thiền Vipassana. Những kiến thức trong này cơ bản được lấy từ bài giảng của thầy Goenka nhé AE.
1. Nguồn gốc
Đức Phật Siddhattha Gotama là người đã hoàn toàn giác ngộ, cuộc đời của Người giữ trọn vẹn Sila. Sau đó, ngày đã thực hành Sammā samādhi, Ngài đã từ bỏ đời sống gia đình để đi tầm đạo với nhiều Bậc Thầy. Ngài đã từng tu tập các tầng Thiền định cao nhất thời đó là 8 tầng Thiền (4 tầng Thiền sắc giới và 4 tầng Thiền vô sắc giới). Ngài đã thực tập tất cả nhưng vẫn thấy mình chưa được giải thoát hoàn toàn. Ngài nhận thấy sâu tận trong tâm vẫn còn những bất tịnh nằm bất động giống như núi lửa đang ngủ yên: “Khi nào những núi lửa này còn hiện hữu, chúng có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Chúng sẽ chế ngự ta và một lần nữa cuộc đời ta lại tràn đầy đau khổ. Phải bứng nhổ tận gốc rễ của các bất tịnh nằm rất sâu trong tâm ta”.
Vì lý do này, Ngài đã tiếp tục tìm kiếm và đã tái khám phá ra phương pháp Thiền Vipassana.
Thiền Vipassanā (Minh sát) đã có từ trước trong kinh Rigveda cổ xưa, nhưng chỉ là những lời đọc tụng suông. Việc thực hành đã thất truyền. Đức Phật Gotama là người đã tái khám phá ra nó. Ngài nói: “pubbe ananusutesu dhammesu cakkhuṃ upadādi” – Mắt ta đã mở đối với Pháp mà trước đây ta chưa từng được nghe – (nhãn sanh). Sau đó Ngài gọi Pháp ấy là purāṇo maggo – Con đường cổ xưa. Ngài tìm lại được con đường từ lâu đã bị vùi lấp, lãng quên và ban bố nó cho thế gian.
2.Cơ sở lý thuyết (Vì nó là cơ sở lý thuyết nên hơi dài, mình copy lại để ae ai có hứng thú thì nghiên cứu):
Con người gồm 2 thành phần cơ thể vật chất và tâm, và trong đó, tâm phân chia thành 4 phần chính (Thức, Tưởng, Thọ, Hành). Cái này là 4 uẩn trong ngũ uẩn. Uẩn còn lại là cơ thể vật chất nhé.
Viññāṇa (Thức – Hay biết)
Phần thứ nhất của tâm theo ngôn ngữ thời đó, Đức Phật gọi là Viññāṇa (Thức), là hay biết. Sáu giác quan của ta gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Sáu giác quan này có 6 Viññāṇa (Thức) hay 6 sự hay biết riêng biệt là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Khi có vật gì tiếp xúc với bất kỳ cửa giác quan nào. Một âm thanh tiếp xúc với cửa giác quan của tai thì nhĩ thức sẽ phát sinh.
Một hình thể, màu sắc, ánh sáng tiếp xúc với cửa giác quan của mắt thì nhãn thức sẽ phát sinh. Một mùi tiếp xúc với mũi thì tỷ thức sẽ phát sinh. Một Vị tiếp xúc với lưỡi thì thiệt thức sẽ phát sinh. Cái gì cụ thể tiếp xúc với cơ thể thì thân thức sẽ phát sinh. Một ý nghĩ, cảm xúc tiếp xúc với tâm thì ý thức phát sinh. Công việc của 6 thức này là hay biết những gì vừa xảy ra.
Saññā (Tưởng – Nhận định)
Có một âm thanh tiếp xúc với tai, nhĩ thức sẽ phát sinh: “Xem kìa! Một cái gì vừa xảy ra”. Ngay tức khắc, một phần khác của tâm sẽ xuất hiện. Theo ngôn ngữ thời đó, phần đó được gọi là Saññā (Tưởng), là nhận định. Một âm thanh vừa chạm vào tai, phần thứ nhất của tâm (Thức) sẽ nói: “Một cái gì đó vừa xảy ra tại cửa thính giác”, chỉ vậy thôi. Phần thứ hai (Tưởng) sẽ nhận định cái gì đã xảy ra: “Lời nói. Lời nói gì? Lời chê bai hoặc lời khen ngợi”. Nó nhận biết dựa trên kinh nghiệm, các điều kiện và ký ức trong quá khứ. Chẳng những nó nhận biết mà còn đánh giá: “Lời chê bai, Ồ! Xấu xa quá! Lời khen ngợi, Ồ! Tuyệt quá!”.
Vedanā (Thọ – Cảm nhận)
Khi phần thứ hai (Tưởng) làm xong nhiệm vụ thì phần thứ ba bắt đầu hoạt động. Ngôn ngữ thời đó gọi là Vedanā (Thọ), là cảm giác, cảm nhận được các cảm giác trên cơ thể. Khi sự đánh giá vừa xong, rằng đó là những lời khen và lời đó tốt đẹp, ta để ý và thấy một dòng luân lưu những rung động vi tế và dễ chịu khắp trên thân. Với những lời chê bai, sự đánh giá được đưa ra là xấu xa và ta sẽ thấy có một luồng cảm giác rất khó chịu trên thân thể. Phần thứ ba của tâm (Thọ) thể nghiệm những cảm giác trên người dễ chịu hoặc khó chịu.
Saṅkhāra (Hành – Phản ứng)
Và rồi ngay tức khắc, phần thứ tư của tâm xuất hiện. Theo ngôn ngữ thời xưa, nó được gọi là Saṅkhāra (Hành). Công việc của nó là phản ứng. Saṅkhāra (Hành) chính thực là động lực, phản ứng của tâm. Nó tựa như là một tập hợp các động tác. Phần đầu (Thức – hay biết) không phải là một động tác, nó không tạo ra quả. Tưởng (sự nhận biết) không phải là một động tác nên cũng không tạo ra quả. Cảm nhận (Thọ) cũng không phải là một động tác nên cũng không tạo ra quả. Nhưng Saṅkhāra (Phản ứng) là một hành động nên tạo ra quả vì ta luôn luôn lặp đi lặp lại. Lời khen ngợi, cảm giác dễ chịu và phần này của tâm luôn lặp đi lặp lại với sự ham muốn, bám víu liên tục: “Tôi muốn nó, muốn nữa, muốn nữa”. Lời chê bai, cảm giác khó chịu, phần này của tâm không ngừng phản ứng bằng ghét bỏ, oán hận: “Tôi không thích, tôi không thích nó, tôi muốn vứt bỏ nó đi”.
Vòng 12 nhân duyên luân hồi sinh tử
Toàn thể vòng nhân duyên sinh và từng mắt xích rất rõ ràng: Vì vô minh (Avijjā) người ta tạo ra hành động chủ ý (Saṅkhāra); vì Saṅkhāra nên có thức (Viññāṇa); vì có Viññāṇa kiếp sống mới của tâm và thân (Nāma-rūpa) bắt đầu hiện hữu; với sự hiện hữu của thân và tâm này, 6 giác quan (Saḷāyatana) sinh khởi; vì có 6 giác quan ấy nên có xúc chạm (Phassa); vì có xúc chạm nên có cảm giác (Vedanā); vì có cảm giác nên có ham muốn (Taṇhā); rồi ham muốn biến thành bám víu, ràng buộc (Upādāna) sâu đậm; vì sự ràng buộc sâu đậm này, tiến trình dòng chảy của sự sống (Bhava – Hữu) được khởi đầu. Dòng sự sống tiếp tục trôi chảy, nó tập hợp đủ năng lực. Mỗi khi cuộc sống chấm dứt, Bhava-Saṅkhāra nằm rất sâu, chịu trách nhiệm tạo nên một cuộc sống mới.
Tiến trình trở thành (Bhava) cứ thế tiếp tục. Vào lúc chết, nó không ngừng lại mà tiếp tục. Và bởi vì tiến trình trở thành mà ngay cả sau khi chết, một kiếp sống mới (jāti – Sinh) lại bắt đầu. Một lần nữa một kiếp sống mới lại tái sinh. Vì có sinh thì có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não (jarā-maraṇaṃ). Bất cứ khi nào kiếp sống bắt đầu, người ta phải trải qua tất cả những khổ đau này. Khổ vì tuổi già, khổ vì bệnh, khổ vì chết, khổ vì điều mong muốn không đạt được và khổ vì gặp điều không như ý…. Vì sự tái sinh đã bắt đầu, người ta phải trải qua đủ mọi khổ đau của tinh thần và thể xác này. Toàn thể tiến trình này đã trở nên rất rõ ràng cho bất kỳ ai tu tập sâu hơn. Sau khi đã hết vô minh và hiểu rõ sự thật, hiểu rõ ở mức độ thực nghiệm, bấy giờ, tiến trình ấy trở nên rõ ràng.
Phá bỏ vòng nhân duyên luân hồi ở đâu?
Tiến trình khổ đau này bắt đầu như thế nào? Làm sao nó tiếp tục sinh sôi nảy nở? Làm sao diệt trừ tiến trình này? Làm sao thoát ra khỏi tiến trình này? Làm sao cắt đứt chuỗi dây xích đầy những mắc xích này? Mắc xích nào phải được cắt bỏ? Chuỗi dây xích này phải được cắt đứt ở đâu? Một kiếp sống đã bắt đầu với Nāma – rūpa (Tâm và Thân). Dòng chảy sự sống đã bắt đầu, cần phải làm gì? Tự tử ư? Tự tử có giải quyết được chuyện gì không? Ồ không! Tự tử chẳng giải quyết được gì cả? Người ta không thoát khỏi đau khổ bằng cách này. Khi tự tử, chủ ý của tâm vào lúc ấy như thế nào? Tâm trạng của nó ra sao? Tâm cuối cùng của kiếp sống đầy những khổ đau. Nó sẽ không tạo ra điều gì khác ngoài một kiếp sống mới đầy ắp những khổ đau. Tâm kế tiếp đầy ắp khổ đau vì nó là sản phẩm của tâm cuối cùng của kiếp này. Tự tử không giải quyết được gì cả, người ta không thể thoát ra khỏi khổ đau bằng cách tự tử. Rồi khi có tâm và thân, dòng sông đang trôi chảy.
Còn 6 giác quan thì sao? Tốt hơn là nên để tôi hủy diệt chúng. Cặp mắt, đôi tai, mũi, lưỡi,… được đấy! Và rồi hủy diệt thân này, rồi tâm này. Một lần nữa, đó là tự tử, làm sao mà hủy diệt chúng được. Rồi đến tất cả các đối tượng tương ứng với các giác quan trên cõi đời này, người ta phải hủy diệt chúng đi. Điều này không thể được, làm sao ta có thể hủy diệt hết các thứ đó được.
Khi có 6 cửa giác quan và các đối tượng tương ứng ấy, sự xúc chạm chắc chắn sẽ phát sinh. Ta không thể chạy trốn được sự xúc chạm đó. Và khi sự xúc chạm có ở đó, cảm tưởng, cảm giác (Vedanā) chắc chắn phải có ở đó. Ta không thể hủy bỏ nó được, chính nơi có cảm giác này là nơi trí tuệ phát sinh. Đây là nơi người ta có thể dùng búa chặt đứt mắc xích nối. Nếu ta còn sống, chắc chắn cảm giác còn đến, các sự vật tiếp tục xúc chạm với một giác quan nào đó. Từng khoảnh khắc, thân và tâm không ngừng xúc chạm và ở đó có cảm giác.
Tiến trình thoát khỏi hoàn toàn khổ đau
Với cảm giác ấy, vì Vô minh (Avijjā) nên ham muốn (Taṇhā) nảy sinh, ghét bỏ nảy sinh. Bây giờ, ta phải thay đổi toàn bộ tiến trình này. Cảm giác sẽ có ở đó, nhưng với cảm giác, trí tuệ sẽ nảy sinh. Sự thật, đặc tính cảm giác này là gì? Nó không đời đời vĩnh cửu, nó không tồn tại mãi mãi. Nó nảy sinh để rồi diệt đi, hãy để tôi xem cảm giác ấy kéo dài được bao lâu. Phải, nó nảy sinh và diệt đi. Cảm giác có khó chịu đến đâu đi nữa, chắc chắn rồi nó sẽ diệt đi. Cảm giác có dễ chịu đến thế nào đi nữa, chắc chắn rồi nó sẽ diệt đi. Phản ứng chẳng có lợi gì cả, phản ứng là những cái gì mà bản tánh của nó là diệt đi thì có ích gì, chẳng có ý nghĩa gì cả, không đáp ứng được mục đích nào cả.
Càng ngày càng trở nên dễ dàng là đến giai đoạn khi cảm thấy cảm giác và ta không phản ứng lại các cảm giác này. Ta sẽ thay đổi toàn bộ tiến trình gia tăng khổ đau, tiến trình giải thoát bắt đầu. Đức Phật khám phá ra rằng cảm giác là một giao điểm quan trọng, nơi chia ra hai con đường. Ngài nói một con đường là đầy khổ đau. Ta tạo ra khổ đau và cứ tiếp tục tạo ra khổ đau. Vì với mỗi cảm giác, ta cứ tiếp tục phản ứng. Trong từng khoảnh khắc, ta cảm thấy cảm giác và cũng trong từng khoảnh khắc, ta phản ứng lại. Như thế, đó là tiến trình gia tăng khổ đau. Nhưng cũng chính tại điểm giao tiếp này, chính cảm giác trên thân này có thể đưa ta đến con đường giải thoát. Tất cả khổ đau sẽ bị diệt trừ bởi vì giờ đây, khi cảm thấy một cảm giác, ta không phản ứng lại.
Ta chỉ hiểu rằng Aniccā, Aniccā, Ồ! Vô thường, vô thường. Đây là điều ta đã bắt đầu thực hiện. Điều quan trọng đầu tiên là ta ý thức được các cảm giác và sau đó, ta không phản ứng với các cảm giác này. Mỗi cảm giác một sẽ biến thành Paññā (Trí tuệ). Mỗi một cảm giác phải đem lại trí tuệ, mỗi một cảm giác không nên đem lại Taṇhā (ham muốn và ghét bỏ). Đây là con đường đưa đến giải thoát mà mình đã chọn, đi sâu hơn vào mức độ cảm giác và không phản ứng. Ở đây là nơi toàn thể dây xích bị cắt đứt vì bây giờ không còn vô minh (Avijjā) nữa.
Khi Vô minh bị diệt trừ hoàn toàn thì không còn Saṅkhāra (hành động chủ ý) nữa. Vì Saṅkhāra diệt nên Thức diệt và dòng tâm thức ngừng lại. Vì Thức diệt nên Cơ cấu thân tâm diệt, không còn luồng tâm thức và vật thể luân chuyển nữa. Vì Cơ cấu thân tâm diệt nên 6 giác quan diệt. Vì 6 giác quan diệt nên Xúc diệt, không còn xúc chạm nữa. Vì Xúc diệt nên Cảm giác diệt, không còn cảm giác nữa. Vì Cảm giác diệt nên Thèm khát diệt, không còn Ham muốn nữa. Vì Ham muốn diệt nên Ràng buộc diệt, không còn ràng buộc nữa. Vì Ràng buộc diệt nên hết Trở thành, không còn tiến trình trở thành. Vì Trở thành diệt nên Sinh cũng diệt, không còn sự sinh ra đời nữa. Vì Sinh diệt nên Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Tất cả các khổ đau lần lượt nối tiếp ra đi. Tất cả những điều này thật dễ hiểu, ta có thể chấp nhận chúng ở mức độ lý trí. Nhưng sự chấp nhận ấy chẳng giúp được gì cả, ta phải thực hành, phải đi sâu tận nơi có cảm giác và không phản ứng lại các cảm giác đó. Chỉ chấp nhận điều này ở mức độ lý thuyết, chẳng giúp được gì. Có thể có người không tin vào kiếp quá khứ hay kiếp tương lai, không thành vấn đề, điều này không quan trọng. Không cần thiết là ta phải chấp nhận rằng có kiếp quá khứ hay kiếp tương lai trước đã, rồi chỉ từ đó, phương pháp Thiền này mới có thể giúp cho mình.
Người ta phải chấp nhận kiếp sống hiện tại, kiếp sống ấy ở ngay đây và ta đang tạo ra khổ đau cho chính mình trong từng khoảnh khắc. Chúng ta tạo ra Saṅkhāra trong từng khoảnh khắc và mỗi Saṅkhāra là một khổ đau cho mình. Chúng ta cứ tiếp tục tạo ra Saṅkhāra ấy và làm cho nó sâu đậm thêm, sâu như đường khắc trên đá bằng dùi, đục và búa, khổ đau càng nhiều và sâu đậm. Ít ra là ta đang bắt đầu thoát ra khỏi khổ đau hiện tại. Luật tự nhiên là thế, nếu ta ngừng tạo ra Saṅkhāra mới khi cảm nhận cảm giác trên cơ thể, các Saṅkhāra cũ sẽ bắt đầu trồi lên trên bề mặt. Tất cả các Saṅkhāra tích lũy trong quá khứ nằm tận bên dưới, chứa sâu trong kho sẽ bắt đầu trồi lên. Các Saṅkhāra cũ ấy trồi lên với các cảm giác và ta không phản ứng mà giữ được sự bình tâm. Các Saṅkhāra ấy mất hết sức mạnh, yếu dần và diệt đi.
Một Saṅkhāra khác sẽ tới với một cảm giác nào đó, một lần nữa, ta vẫn giữ được sự bình tâm. Theo cách này, những Saṅkhāra cũ sẽ bị diệt trừ. Một khi ta ngưng tạo ra các Saṅkhāra mới, những Saṅkhāra cũ sẽ tự động bị diệt trừ dần dần. Ta càng bình tâm nhiều bao nhiêu, các Saṅkhāra ấy trồi lên bề mặt và bị diệt trừ nhiều bấy nhiêu. Đây là ý nghĩa của câu: “Mỗi Saṅkhāra sẽ nảy sinh và diệt đi. Sinh và diệt là Bản tính của chúng. Nó diệt đi nhưng nó lại nảy sinh, nó gia tăng và lại nảy sinh”.
Nhưng nếu ta ý thức được cảm giác của mình và không phản ứng lại các cảm giác ấy thì chúng bị diệt trừ khi trồi lên trên bề mặt. Khi chúng càng bị diệt trừ nhiều bao nhiêu, thì ta hưởng được sự an lạc và niềm hạnh phúc của giải thoát nhiều bấy nhiêu, vì nhiều bấy nhiêu khổ đau đã mất đi. Đó là toàn thể tiến trình và đây là sự giác ngộ của Đức Phật. Ngài đã tìm thấy nguyên nhân thật sự của khổ đau, và tìm ra cách diệt trừ nguyên nhân này ở tầng lớp sâu thẳm nhất.
Tóm tắt: Hành (Saṅkhāra) là nguồn gốc của sự tái sinh. Khi thực hành thiền thì ta sẽ phá bỏ các Sankhara tích luỹ từ nhiều kiếp và khi giải phóng hết toàn bộ Sankhara thì đạt đến quả vị Arahan và được giải thoát.