Hải Tặc Tàu Ô thời nhà Thanh


Sự trỗi dậy của các toán hải tặc thời Thanh hoạt động ở duyên hải tỉnh Quảng Đông lan tới duyên hải Việt Nam (Hoa Nam hải đạo, giặc Tàu Ô )
Đợt di cư tới Đông Nam Á của người Hoa thời đầu Thanh do ảnh hưởng chính sách Hải cấm - Sự tồn tại và biến mất của lực lượng hải tặc Hoa kiều gốc Quảng – Tiều tại Đàng Trong thời đầu Tây Sơn (trước 1771-1783).


Do bởi sau khi tiêu diệt chính quyền Đông Ninh của họ Trịnh để thống nhất Trung Hoa gồm cả đảo Đài Loan về dưới sự cai trị duy nhất của Thanh triều thì vua Khang Hi đế (5 tháng 2 năm 1661 – 20 tháng 12 năm 1722) Ái Tân Giác La Huyền Diệp (4 tháng 5 năm 1654 – 20 tháng 12 năm 1722) đã thi hành chính sách vỗ về, miễn giảm thuế má…được tiếp nối bởi các chính sách tập trung quyền lực về trung ương bởi con trai Ung Chính đế (27 tháng 12 năm 1722 – 8 tháng 10 năm 1735) Ái Tân Giác La Dận Chân (13 tháng 12 năm 1678 – 8 tháng 10 năm 1735) đã khiến cho nạn hải tặc từng hoành hành duyên hải Trung Hoa trước đó gần như vắng bóng suốt một quãng thời gian dài từ sau khi Khang Hi đế bình định xong Đài Loan vào năm 1683 cho tới những năm gần cuối niên hiệu Càn Long (8 tháng 10 năm 1735 – 9 tháng 2 năm 1796) của cháu nội Khang Hi là Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799).



1 trong những yếu tố để nạn hải tặc vắng bóng trên vùng duyên hải Hoa Nam gần hết giai đoạn Khang Càn thịnh thế của nhà Thanh chính là việc dù tương tự nhà Minh thì nhà Thanh trong suốt thời thịnh thế Khang Càn cũng có thi hành chính sách Cấm biển với hoạt động thi hành Hải Cấm của nhà Thanh trong thời đầu giai đoạn trị vì của Khang Hi đế có phần khắc nghiệt hơn thời Minh vì nhà Thanh đầu giai đoạn Khang Hi nhằm ngăn dân chúng duyên hải có thể tuồn vật tư cần thiết duy trì sự tồn tại của chính quyền Minh Trịnh tại đảo Đài Loan ngoài cấm biển còn cho cưỡng bức di dời dân sống khu vực ven biển Hoa Đông vào sống trong khu vực nội địa cách biển 50 dặm với bộ phận dân cư duyên hải Hoa Nam trong khối các nhóm người duyên hải Hoa Đông – Hoa Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ chính sách Hải Cấm đầu giai đoạn Khang Hi là người Tiều dẫn đến sụp đổ về thương mại, sản xuất của nhóm thương nhân gốc Triều (Triều thương) SONG việc thi hành Cấm biển sau cùng cũng được Thanh triều bãi bỏ vào năm 1684 sau khi Minh Trịnh đầu hàng nhà Thanh.



Mặc dù Khang Hi đế từ năm 1684 trở đi đã bãi bỏ Hải Cấm để cho phép các nhóm dân Hoa Nam được tự do quay lại cư trú ven biển lẫn tự do giương buồm ra ngoại quốc buôn bán nhưng 23 năm Hải cấm gắt gao đã khiến cho 1 bộ phận người Trung Hoa sống bằng nghề mậu dịch hàng hải gồm cả khối thương nhân Tiều chịu ảnh hưởng nặng từ quả Hải Cấm thời Khang Hi không có thiện cảm với nhà Thanh tới mức có không ít thương nhân (khoảng 40%-50%) Trung Hoa mà đông đảo là người Tiều đã lên thuyền hướng về phía Đông Nam Á một đi không trở lại vốn những người di cư Nam Dương này không chỉ đã đặt nền tảng cho sự hình thành các cộng đồng thương gia, hải tặc Tiều ở hải ngoại như những người Hà Hỉ Văn, Trần Liên, Trần Thái, Hoắc Nhiên ở vịnh Thái Lan lẫn cả người gốc Quảng Đông như Mạc Cửu mà sự di cư ồ ạt về phía Nam Dương này của những thương nhân Trung Hoa đặc biệt là dân Tiều đã gây chú ý tới nhà Thanh dẫn đến Khang Hi đế tới năm 1716 đã cho quan lại thương lượng việc lại Hải cấm 1 lần nữa trước khi bước qua năm 1717 thì chính thức thi hành cấm biển 1 lần nữa kéo dài tới năm 1726 thì được con trai là Ung Chính đế bãi bỏ.
 
Khác với lần hải cấm kéo dài 23 năm từ năm 1661 tới năm 1684 là hoàn toàn cấm biển lẫn dời dân vào nội địa nhằm bóp nghẹt sự tồn tại chính quyền Minh Trịnh thì lần hải cấm từ năm 1717 tới năm 1727 lại mang tính cục bộ hơn vì mục tiêu của nó chính là ngăn chảy máu thương nhân Trung Hoa (đặc biệt người Tiều) tới cư trú khu vực các nước Đông Nam Á mà Khang Hi đế thừa biết rõ khu vực Nam Dương này có truyền thống cư trú, hoạt động lâu đời của hải tặc gồm cả dân Tàu dạt với Trần Tổ Nghĩa, Lâm Đạo Can, Lâm Phụng…là những hải tặc đã vượt biên thành công vốn cũng vì lần hải cấm 10 năm từ năm 1717 tới năm 1727 chủ đích cụ thể là cấm thương nhân Tàu đi thuyền tới Nam Dương buôn bán rồi nhảy tàu ở lại Đông Nam Á nên sử gọi đợt hải cấm là Nam Dương Hải cấm/南洋海禁.



Bài học xương máu từ việc cấm biển mù quáng dẫn đến phát sinh nạn hải tặc Uy khấu gồm cả những hải tặc nguỵ Uy khấu là những thương nhân gốc Hoa vì tham lợi ích ngoại thương sẵn sàng tổ chức hạm đội lớn công khai chống lại quan quân từ tiền triều nhà Minh đã buộc Ái Tân Giác La Dận Chân sau khi lên ngôi kế tục ông già Khang Hi đế của mình vào cuối năm 1722 đã phải chủ động bãi bỏ chính sách Hải Cấm do ông già thi hành đang tàn phá dần kinh tế duyên hải Trung Hoa vào năm 1727 vốn đối phó với những thương nhân Trung Hoa trốn ở lại Đông Nam Á thì Ung Chính đế đã cho áp dụng chính sách đối phó trực diện hơn là buộc những thương nhân Trung Hoa ở Nam Dương phải hồi hương trong vòng 3 năm sau khi xuất dương tới Đông Nam Á buôn bán hoặc không sẽ bị cấm hồi tịch/回籍 vĩnh viễn.



Việc bãi bỏ hải cấm cục bộ thương nhân người Hoa tới Đông Nam Á đã mang lại chút tín hiệu sáng sủa trong quan hệ thương mại với các nước phương Tây hiện diện tại Đông nam Á bấy giờ khi mà không chỉ trong cùng năm bãi bỏ Nam Dương Hải cấm thì Bồ đào Nha đã gửi sứ đoàn đầu tiên tới Bắc kinh chính thức giao thiệp với nhà thanh mà qua 2 năm sau đó là năm 1729 thì đối thủ thương mại của người Bồ một thời là Công ty Đông Ấn Hà Lan cũng đã chủ động mở thương điếm phục vụ hoạt động buôn bán ở Quảng Châu vốn sự kiện Công ty Đông Ấn Hà Lan mở cơ sở buôn bán ở Quảng Châu vào năm 1729 không chỉ đặt nền tảng cho việc Quảng Châu qua thời Càn Long đế trở thành cảng khẩu duy nhất Trung Hoa tàu buôn phương Tây được vào buôn bán mà nó còn bước đầu đặt nền tảng cho sự trỗi dậy sau đó của Quảng Châu trong thời Thanh với tư cách là thương cảng quốc tế duy nhất kết nối trực tiếp giữa các cường quốc phương Tây với Trung Hoa cũng như là tạo mục tiêu ràng buộc khu vực hoạt động cố định cho thế hệ hải tặc Trung Hoa tiếp theo hoạt động từ cuối thế kỷ 18 cho tới tận giữa - cuối thế kỷ 19 là hải tặc Hoa Nam a.k.a hải tặc vịnh Bắc Bộ, giặc Tàu Ô.



Gần 30 năm sau khi sự kiện Công ty Đông Ấn Hà Lan mở cơ sở buôn bán ở Quảng Châu vào năm 1729 thì vua Càn Long sau khi chuyến tuần du Giang Nam vào năm 1757 do nhận thấy sự đe doạ tiềm tàng từ các tàu buôn người Âu tới Trung Hoa buôn bán đã quyết định ra lệnh các hải quan khu vực Chiết Giang, Phúc Kiến chỉ giữ công việc buôn bán với các tàu đến từ khu vực Đông Á như Ryukyu vào Phúc Kiến buôn bán chứ không cho tàu Tây dương vào lẫn buộc các tàu buôn phương Tây phải tới buôn bán ở khu vực tự do thương mại duy nhất có dành riêng cho người Dương nhân là Quảng Châu vốn điều này đã không chỉ làm xuất hiện 1 nhóm gồm các hãng buôn do thương nhân Quảng Châu quản lý có quan hệ làm ăn, buôn bán trực tiếp với thương nhân phương Tây tới Quảng Châu buôn bán cũng như làm cả cầu nối trung gian giữa trung ương Thanh đình với các thương nhân châu Âu ở Quảng Châu là Quảng Châu Thập Tam hàng mà sự kiện Thanh triều vào năm 1757 ra lệnh dồn hết thuyền buôn châu Âu vào buôn bán tại Quảng Châu thay vì khắp vùng duyên hải đông nam xa tận Chiết Giang như trước cũng cho thấy phần nào sự biệt đãi của các vua Thanh gồm 3 đời ông cháu Càn Long đối với giới thương nhân Quảng Đông nói riêng.

Thậm chí thì ngay trước khi ra sắc lệnh dồn tàu buôn châu Âu vào Quảng Châu buôn bán thì vua Càn Long từng lệnh cho các hải quan khu vực Chiết Giang thu mức quan thuế cao gấp đôi vào các tàu châu Âu tới đây buôn bán nhằm buộc người phương Tây nhụt chí phải lui về Quảng Châu làm ăn vì Càn Long đế từng có 1 dạo bày tỏ công khai sự ủng hộ của cá nhân bản thân đối với riêng giới thương nhân Quảng Đông về việc mối lợi buôn bán với người Tây chỉ nên dành riêng cho người Quảng chính là “Nếu người ta cứ vào Chiết Giang buôn bán thì thương nhân Quảng Đông buôn bán với người Tây sẽ làm ăn thất bại” (lai chiết giả đa, tắc quảng đông dương thương thất lợi。/来浙者多,则广东洋商失利。) nhưng vì người phương Tây vẫn bất chấp mức thuế quan cao gấp đôi mới áp dụng tại cảng khẩu Chiết Giang để tiếp tục tới nơi này buôn bán, Càn Long sang năm 1757 đã buộc phải công khai ra lệnh mang tính thiên vị có lợi cho giới thương nhân người Quảng.



Không ai biết rõ tại sao Càn Long lại có thái độ ưu ái thương nhân người Quảng tới mức sẵn sàng đem món lợi buôn bán với người Tây đem trao cho giới thương nhân người Quảng nắm độc quyền vốn có thể là vì giới thương nhân người Quảng rất biết điều ngoan ngoãn với Thanh đình khi theo các ghi chép sổ sách nhà Thanh thì trong quãng thời gian nắm độc quyền buôn bán với người Tây, giới thương nhân người Quảng của Quảng Châu Thập Tam hàng đã mỗi năm nộp ngân sách cho Thanh đình thông qua hải quan Quảng Đông những hơn 1,000,000 lạng bạc tiền thuế quan buôn bán với người phương Tây với 3/5 số tiền thuế quan mà nhóm Thập Tam Hàng đã nộp (tương đương khoảng 600,000 lạng bạc) thì được Thanh đình trực tiếp dùng làm chi phí trang trải của hoàng gia.



Bên cạnh đó thì giới thương nhân người Quảng của Quảng Châu Thập Tam hàng cũng thường xuyên đóng góp tiền cho nhà Thanh ném vào các cuộc chiến của triều đình như 300,000 lượng bạc đã được giới thương nhân người Quảng đem cúng cho nhà Thanh vào năm 1787 với mục đích dùng làm phí trang trải quân trang, quân nhu khi Thanh đình bình định cuộc nổi dậy phản Thanh của dân binh Chương Châu do thành viên Thiên Địa hội là Lâm Sảng Văn lãnh đạo ở Đài Loan hoặc là con số 3,500,000 lạng bạc từ năm 1788 tới năm 1820 được quyên góp cho các mục đích mừng thọ Càn Long, làm phí tổn cho cuộc chiến với Gurkha hay các đợt bình định phỉ khấu ở Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Hà Nam lẫn thậm chí là dùng để trị thuỷ, cải tạo sông Hoàng Hà…vốn đổi lại thì không chỉ những thương nhân Quảng được Thanh đình ban ơn mưa móc tập thể là cho đại diện thương nhân Trung Hoa giữ độc quyền ngoại thương với người phương Tây suốt từ năm 1757 tới năm 1842 (Anh nhân thắng lợi cuộc chiến thuốc Phiện lần 1 để buộc nhà Thanh đồng ý ký hiệp ước mở thêm 5 cảng biển khác tại Hoa Đông lẫn ngoài Quảng Châu để người Anh tự do lui tới buôn bán) hay năm 1856 (năm mà Anh - Pháp thông qua thắng lợi cuộc chiến Thuốc Phiện lần thứ 2 để buộc nhà Thanh ký hiệp ước cắt Sa Diện tại Quảng Châu làm tô giới nước ngoài mở cửa cho tư bản phương Tây trực tiếp đổ bộ vào Trung Hoa lập cơ sở buôn bán cạnh tranh với thương nhân Quảng) mà một số cá nhân thương nhân người Quảng cũng được Thanh triều tưởng thưởng bằng cách ban cho các tước vị Đại phu thuộc các trật nhị phẩm, tam phẩm…



Có lợi nhuận cũng phải có rủi ro kèm theo khi mà sự thịnh vượng của Quảng Châu khi được Thanh triều cho nắm độc quyền ngoại thương với thương nhân phương Tây đã biến vùng nước khu vực Lưỡng Quảng trở thành địa bàn hoạt động của lứa hải tặc có tổ chức cuối cùng trong lịch sử Trung Hoa nói chung, vùng biển đông nam Trung Hoa nói riêng với bản thân “những người có nhu cầu khai thác bằng vũ lực 1 cách trái phép nguồn lợi từ hoạt động ngoại thương” với người phương Tây của thương nhân Quảng Châu là Hoa Nam Hải tặc a.k.a giặc Tàu Ô, hải tặc vịnh Bắc Bộ thì phải 1 thời gian sau khi giới thương nhân người Quảng của Quảng Châu Thập Tam hàng được Thanh triều cho nắm độc quyền ngoại thương với thương nhân phương Tây mới xuất hiện.



Thời điểm cho sự xuất hiện của hải tặc Hoa Nam a.k.a hải tặc vịnh Bắc Bộ, hải tặc Tàu Ô tồn tại qua vài thế hệ vua Thanh từ thời Càn Long qua con trai Gia Khánh đế (9 tháng 2 năm 1796-2 tháng 9 năm 1820) Ái Tân Giác La Ngung Diễm (13 tháng 11 năm 1760-2 tháng 9 năm 1820), Đạo Quang đế (2 tháng 9 năm 1820 – 26 tháng 2 năm 1850) Ái Tân Giác La Miên Ninh (16 tháng 9 năm 1782 – 26 tháng 2 năm 1850) đến từ ngay trong thời trị vì của Càn Long khi mà sau gần 40 năm trị vì của mình thì nạn hải tặc lại một lần nữa xuất hiện ở 1 dải ven biển duyên hải Hoa Nam xa đến tận Phúc Kiến ở phía bắc vốn nguồn cơn tạo ra nạn cướp biển giai đoạn gần cuối thời Càn Long qua tận gần hết thời kỳ trị vì Quang Tự đế (1 tháng 6 năm 1875-14 tháng 11 năm 1908) Ái Tân Giác La Tải Điềm (14 tháng 8 năm 1871-14 tháng 11 năm 1908) là từ sự suy yếu dần của nhà Thanh từ cuối thời Càn Long trở đi.

Mặc dù Thanh triều thông qua sự cai trị sáng suốt của các vua Khang Hi, Ung Chính đã trở nên hùng cường nhưng sau khi Ái Tân Giác La Hoằng Lịch lên ngôi trở thành Càn Long đế thì nhà Thanh chỉ duy trì thêm sự hùng cường ấy thêm 1 thời gian có lẽ là cho tới cuộc bình định lần thứ 2 các bộ tộc người Tạng ở vùng lưu vực 2 sông Đại Kim Xuyên, Tiểu Kim Xuyên tại Amdo diễn ra từ năm 1771 tới năm 1776 vốn không chỉ cuộc chiến kéo dài 5 năm đã lấy của nhà Thanh 10,000 sinh mạng cùng hơn 70,000,000 lượng bạc mà các cuộc chiến sau đó cũng liên tiếp ngốn của nhà Thanh mỗi lần tối thiểu 1,000,000 lạng bạc gồm điều quân vào bắc bộ Việt Nam vào năm 1788 giúp nhà Hậu Lê đánh quân Tây Sơn chỉ để bị Tây Sơn phản công ở chiến dịch Tết Kỷ Dậu năm 1789 đã ngốn khoảng 1,000,000 lạng bạc, hơn 8,000,000 lạng bạc cho chiến dịch từ năm 1787 tới năm 1788 nhằm bình định cuộc nổi dậy tại Đài Loan của Thiên Địa Hội do Lâm Sảng Văn lãnh đạo, 2 lần đánh quân người Gurkha thuộc vương quốc Nepal xâm lược ngốn thêm 1,520,000 lạng bạc với riêng tổng chi phí tối thiểu của toàn bộ 10 đại chiến dịch lẻ tẻ Thập Toàn Võ công diễn ra từ năm 1747 tới năm 1792 mà Càn Long đế tự hào là nhà Thanh thông qua quân sự đã khuất phục các đối thủ khác gồm cả nhà Tây Sơn ở Việt Nam, các bộ tộc Tạng ở Kim Xuyên… đã lên tới hơn 151,000,000 lượng bạc.



Tuy 1 phần số chiến phí ấy của nhà Thanh đã được gánh vác bằng số tiền do giới thương nhân Quảng Đông của Quảng Châu Thập Tam Hàng quyên góp thường kỳ cho triều đình để đổi lấy ân sủng được cho giữ độc quyền mậu dịch buôn bán với thương nhân châu Âu, phần còn lại của số chiến phí ấy mà nhà Thanh phải tự chi trả là rất lớn và để làm trầm trọng thêm tình hình thì quan lại nhà Thanh từ cuối thời Càn Long trở đi đã bắt đầu hủ bại tha hoá tới mức không ngại biển thủ công quỹ giữa lúc địa chủ các địa phương thì lại kiêm tính ruộng đất người nghèo trong khi dân số Quảng Đông do bùng nổ quá đông nhưng không có đất cày nên một bộ phận dân phải đi ra biển đánh cá trước khi bản thân họ bắt đầu cải thiện đời sống bằng cách làm thêm nghề cướp bóc thuyền buôn nước ngoài tới Quảng Châu buôn bán.



Việc quan lại nhà Thanh với đầu bảng bóp nặn là đại thần Hoà Thân (1 tháng 7 năm 1750-22 tháng 2 năm 1799) ngoài công khai ăn hối lộ còn mạnh tay đục khoét công quỹ triều đình được thể hiện rõ qua 2 đại án tham ô bị điều tra thời Càn Long là Án tham nhũng của quan lại nhà Thanh tại Chiết Giang a.k.a Chiết Giang Tham ô Án thị/浙江贪污案是 bị điều tra vào năm 1782 cùng án bị điều tra trước đó vào năm 1781 nhưng ở quy mô lớn hơn lẫn có liên quan tới án Tham ô Chiết Giang là Án Giả mạo Cứu trợ tại Cam Túc/Cam Túc Mạo Chẩn án/甘肃冒赈案 a.k.a Vụ án gạo Cam Túc/Cam Túc mễ án/甘肃米案 với vụ án biển thủ gạo cứu trợ do các quan lại ở Cam Túc bắt đầu thực hiện từ năm 1774 tới khi bị phát hiện lẫn điều tra năm 1781 đã khiến toàn bộ đội ngũ quan lại tỉnh Cam Túc nhà Thanh bị liên đới do tổng cộng lòi ra được sau khi tra án những 173 quan các cấp ở địa phương tham gia biển thủ ở các mức khác nhau (10 người tham ô hơn 100,000 lạng bạc, 20 người tham ô ở mức từ 20,000 tới 100,000 lạng bạc, 11 người tham ô từ 10,000 tới 20,000 lạng bạc, 30 người tham ô mức từ 1000 tới 10,000 lạng bạc cùng 106 người tham ô ít hơn 1000 lượng bạc) dẫn đến không chỉ 56 người bị tử hình, 46 người bị lưu đày bên cạnh số đông khác bị bãi chức, phạt trượng hình…mà còn khiến kho gạo Cam Túc bị mất 1,000,000 thạch gạo cùng 2,915,600 lạng bạc bị biển thủ trong tổng số tiền 15,094,750 lạng bạc do 274,450 học sinh Cam Túc quyên góp cứu trợ được (sau vụ án tham ô Cam Túc thì Thanh đình thu hồi được số tiền bị biển thủ gần đủ với con số bị mất trên thực tế là hơn 2,810,000 lạng bạc).



Do việc bù đắp các khoản thiếu hụt gây ra do bởi nạn tham nhũng cùng phí tổn các cuộc chiến đều được nhà Thanh đổ lên đầu dân chúng nên nó cũng khiến một bộ phận dân chúng khu vực ven biển quay ra làm hải tặc với thời điểm xuất hiện sớm nhất những bang hải tặc Hoa Nam từ cuối thời Càn Long trở đi tuy không thể xác định 1 cách chắc chắn nhưng có lẽ là vào các thập niên từ 1750 tới 1770 với tên tuổi hải tặc Hoa Nam sớm nhất được nhắc đến là 2 hải tặc Lý Tài cùng Tập Đình a.k.a tên gốc là Lý A Tập với cả 2 người Lý Tài, Lý A Tập đều là những Hoa kiều nằm trong diện bị cấm hồi tịch/回籍 vĩnh viễn dựa theo chính sách phải quay về trong vòng 3 năm được vua Ung Chính áp dụng cho giới Hoa kiều tới Đông Nam Á buôn bán do là thương nhân Hoa xuống Đông Nam Á làm ăn nhưng rồi trốn ở lại lấy vợ bản địa (bản thân Lý A Tập được cho cũng là 1 người Tiều bắt đầu cư trú ở khu vực Nam Trung Bộ của Việt Nam đang do sứ quân họ Nguyễn Phúc quản lý từ năm 1759).
 
Dù rằng trong giai đoạn từ sau khi chính quyền họ Trịnh ở Đài Loan bị nhà Thanh của Khang Hi đế xoá sổ năm 1683 cho tới giai đoạn Thanh đình của Càn Long đế tổ chức 10 chiến dịch quân sự quy mô lớn (Thập Toàn Võ công) để chống lại nổi dậy nội địa lẫn xâm lược lân bang được bắt đầu ở mốc thời điểm năm 1747 – năm mà Càn Long đế bắt đầu mở màn chuỗi 10 đại chiến dịch thời trị vì của mình khi cử quân lần đầu tiên đi bình định tộc Gia Nhung/Gyalrong/嘉绒人 thuộc đại tộc Tạng bấy giờ đang nổi dậy tại Kim Xuyên huyện thuộc Châu tự trị Tạng - Khương A Bá của tỉnh Tứ Xuyên cho tới năm 1792 khi cuộc chiến quy mô lớn cuối cùng thuộc Càn Long Thập toàn Võ công là cuộc chiến lần thứ 2 với vương quốc Nepal của tộc Gurkha kết thúc với cả Nepal lẫn Tây Tạng đều phải chấp nhận quyền tôn chủ của Thanh triều lẫn phải vào triều cống cứ mỗi 5 năm một lần thì 2 người Lý A Tập a.k.a Tập Đình, Lý Tài không phải là các hải tặc duy nhất hoạt động tại các vùng biển Nam Trung Hoa được nhắc tên khi mà trong ngay từ thời Ung Chính đế trị vì từ năm 1722 tới năm 1735, Lưỡng Quảng Tổng đốc từ năm 1716 tới năm 1723 là Dương Lâm đã từng dâng sớ tấu lên rằng “hải tặc ngoại quốc” (Dương đạo/洋盗) thường xuyên hoành hành tại Quảng Đông nhưng vì danh xưng “Dương đạo/洋盗” Dương Lâm viết trong tấu sớ tâu lên Ung Chính đế có nghĩa là hải tặc ngoại quốc nên vinh dự những tên tuổi hải tặc người gốc Hoa nổi trội hoạt động giai đoạn từ năm 1683 tới năm 1747 thuộc về 2 người Lý A Tập a.k.a Tập Đình, Lý Tài.



Lý A Tập cùng Lý Tài không phải là những thương nhân Hoa kiều duy nhất ở khu vực Nam Trung bộ của Việt Nam khi đó do bởi còn có cả 2 thương nhân Hoa kiều khác cũng đang buôn bán ở Nam Trung bộ là Lưu Á Mi, Tôn Á Hiển vốn 2 người này đã tôn Lý A Tập làm thủ lĩnh nhóm để bảo vệ quyền lợi buôn bán của Hoa kiều tại Nam Trung bộ.



Tuy không rõ thời gian ở Việt Nam trước khi gia nhập lực lượng khởi nghĩa Tây Sơn do 3 anh em Tây Sơn Tam Kiệt gồm Nguyễn Nhạc (1743-1793) về sau trở thành vua Thái Đức đế (1778-1788) khai lập triều Tây Sơn (1778-1802), Nguyễn Huệ (1753-1792) về sau trở thành vua Quang Trung (22 tháng 12 năm 1788-16 tháng 9 năm 1792), Nguyễn Lữ (1754-1787) về sau trở thành Đông Định vương (1786-1787) của nhà Tây Sơn có nhiệm vụ trấn giữ đất Nam bộ của Việt Nam thì Tập Đình, Lý Tài đã làm những gì nhưng có lẽ cũng là hoạt động cướp bóc duyên hải Trung bộ của họ Nguyễn Phúc cho tới sau khi anh em Tây Sơn Tam kiệt chính thức đứng lên phát động phong trào khởi nghĩa Tây Sơn chống lại chính quyền cát cứ họ Nguyễn Phúc dưới danh nghĩa ủng hộ 1 thành viên có quyền kế vị hợp pháp trong gia tộc Nguyễn Phúc chống lại quyền thần khác họ đang lũng đoạn chính trị họ Nguyễn Phúc vào năm 1771, Tập Đình đã cùng Lý Tài đem các lực lượng hải tặc bản bộ đã chiêu mộ được từ trước gồm những nhân sự người Hoa gốc Minh Hương (thế hệ những người Hoa di cư xuống Việt Nam định cư vào cuối thế kỷ 17 do tư tưởng của họ chỉ trung thành với mỗi cựu vương triều nhà Minh của người Hán khi ấy đã bị tân triều nhà Thanh của ngoại tộc Mãn ở đông bắc Trung Quốc tiêu diệt), thương nhân người Quảng Đông xuống nam buôn bán rồi trốn ở lại Đông Nam Á kể từ sau khi Minh Trịnh diệt vong cùng hậu duệ lai người bản địa của họ thuộc diện cấm hồi tỵ về Trung Hoa do ở lại Đông Nam Á quá 3 năm sau thời hậu Nam Dương Hải cấm/南洋海禁 lẫn cả người phạm tội gốc Hoa bỏ trốn tới Nam Trung bộ Việt Nam gia nhập nghĩa quân Tây Sơn vốn sau khi gia nhập thì 2 bang hải tặc Lý Tài, Tập Đình đã được tái tổ chức thành 2 đạo quân đánh thuê hải tặc người Hoa dưới quyền Tây Sơn là Hoà Nghĩa quân do Lý Tài chỉ huy cùng Trung Nghĩa quân do chính Tập Đình chỉ huy.



Tuy thời gian đầu ở trong nghĩa quân Tây Sơn thì 2 đạo quân đánh thuê hải tặc người Hoa Hoà Nghĩa quân của Lý Tài chỉ huy cùng Trung Nghĩa quân của Tập Đình chỉ huy đã đóng góp không ít công lao cho sự phát triển phong trào khởi nghĩa Tây Sơn của người Việt do bởi sức chiến đấu của hải tặc người Hoa 2 đạo quân Hoà Nghĩa của Lý Tài, Trung Nghĩa quân của Tập Đình quá vượt trội so với quan quân Nguyễn Phúc trấn áp họ nhưng khi họ Trịnh lũng đoạn chính quyền Hậu Lê ở Đàng Ngoài tại miền bắc nghe tin về cuộc nổi dậy Tây Sơn ở hậu phương Nam Trung bộ đã làm suy yếu quân đội kình địch Nguyễn Phúc đối đầu mình hơn 100 năm để chủ động điều quân đánh từ phía bắc vào cuối năm 1774 xuống đánh trực diện vào tuyến phòng thủ Luỹ Thầy sứ quân Nguyễn Phúc trước kia dùng chống lại quân đội xâm lược họ Trịnh một cách hiệu quả nhằm mục đích lấn cướp thêm đất họ Nguyễn Phúc thì mọi thứ bắt đầu thay đổi.

Sau khi đè bẹp được cả hệ thống phòng thủ Luỹ Thầy cùng các toán quân Nguyễn Phúc ra chặn đường đón đánh rồi kéo vào kinh thành Phú Xuân của họ Nguyễn Phúc để cướp bóc sau khi họ Nguyễn Phúc khiếp nhược bỏ thành chạy xuống hậu phương Nam bộ tại đầu kia lãnh thổ Đàng Trong bằng đường biển thì quân họ Trịnh đã tiếp tục tiến xuống phía nam truy kích họ Nguyễn Phúc cho đến khi va chạm phải lực lượng khởi nghĩa Tây Sơn từ căn cứ Quy Nhơn ở Bình Định đánh ngược ra bắc tại Quảng Nam dẫn đến nổ ra trận chiến Cẩm Sa vào tháng 4 năm 1775.




Ngay cả khi ở trận Cẩm Sa thì các hải tặc người Hoa 2 đạo quân Hoà Nghĩa của Lý Tài, Trung Nghĩa quân của Tập Đình bên phía Tây Sơn đã lăn xả chiến đấu với quân Trịnh dữ dội tới mức giết được cả 1 tướng bên Trịnh là Quế Vũ bá lẫn gây khó khăn cho tiền quân Trịnh đang giao chiến với họ song sau khi bị 2 tướng bên Trịnh là Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh đánh mạnh mở đường cho chủ lực quân Trịnh tràn lên tổng tấn công, đại binh Tây Sơn ở Cẩm Sa không chỉ bị thua nặng phải bỏ chạy mà biệt quân hải tặc người Hoa ở 2 đạo quân Hoà Nghĩa của Lý Tài, Trung Nghĩa quân của Tập Đình cũng bị tan rã với trong khi Lý Tài dẫn đạo quân Hoà Nghĩa của mình rút theo quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc về Bản Tân, Trung Nghĩa quân của Tập Đình bị tan rã tới mức bản thân Tập đình đã phải dẫn tàn binh lên thuyền bỏ trốn về lại Quảng Đông hoạt động cướp phá duyên hải khu vực này trước khi bị uan lại nhà Thanh ở Quảng Đông bắt giết.

Hậu quả sau đó của trận Cẩm Sa là bên cạnh việc phía Tây Sơn phải chủ động giảng hoà ở cửa dưới với quân Trịnh để tập trung đánh Nguyễn Phúc thì còn xảy ra cả việc chia rẽ nội bộ lực lượng khai quốc do bởi sau khi bị thua trận Cẩm Sa trước quân Trịnh với bản thân Tập Đình tự ý dẫn tàn quân bản bộ Trung Nghĩa quân về Quảng Đông rồi bị quan lại nhà Thanh bắt giết, Nguyễn Nhạc do thiếu tướng đắc lực đã phải chủ động bổ sung lần lượt các em trai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ chưa từng tham gia các trận chiến trước đó của mình vào đảm nhận các vị trí chỉ huy trong quân đội Tây Sơn vốn điều này đã làm người từng xông pha đánh đông dẹp bắc ở tuyến đầu bên cạnh thủ lĩnh Nguyễn Nhạc từ những ngày đầu như Lý Tài bất mãn tới mức qua năm 1775 đã đem thành Phú Yên đang trấn giữ quay giáo sang đầu hàng Nguyễn Phúc.



Phía Tây Sơn sang đầu năm 1776 đã cử Nguyễn Lữ đem quân đi đường thuỷ tập kích Gia Định lần đầu tiên buộc chúa Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777) của họ Nuyễn Phúc phải tạm bỏ chạy về dinh Trấn Biên ở Biên Hoà chỉ để sau đó chạy trốn tiếp về Biên Hoà trốn vào nhà 1 giáo sĩ sau khi quân Tây Sơn vào Gia Định lẫn đánh nống cả xuống Dinh Long Hồ bắt tướng Nguyễn Phúc trấn giữ ở đây cũng như tiến lên Trấn Biên truy kích theo Nguyễn Phúc Thuần vốn Nguyễn Phúc Thuần sau đó đã phải cho hạ chiếu tới các nơi gọi quân tới cứu giá với lực lượng Đông Sơn quân do 1 trong Gia Định Tam hùng là Đỗ Thanh Nhơn lập ra ở Ba Giồng thuộc khu vực từ Tân An của Long An xuống Cai Lậy của Tiền Giang tuy đã buộc quân Tây Sơn do Nguyễn Lữ chỉ huy phải rút lui về lại Quy Nhơn để trở thành cánh quân Nguyễn Phúc đầu tiên vào tái chiếm Gia Định song sau khi cánh quân Nguyễn Phúc từ Phú Yên do Tống Phước Hiệp chỉ huy có Hoà Nghĩa quân của Lý Tài đi theo vào hội họp ở Gia Định, Đỗ Thanh Nhơn cậy công đã quay ra không chỉ khinh miệt Lý Tài mà còn phản đối việc trọng dụng Lý Tài cùng Hoà Nghĩa quân dưới quyền dẫn tới 2 người Lý - Đỗ vì vậy phát sinh mâu thuẫn.



Ban đầu thì do Tống Phúc Hiệp còn sống nên Lý Tài tạm thời bị kiềm chế nhưng tới sau khi Tống Phước Hiệp qua đời vào tháng 6 Âm lịch năm 1776, Lý Tài không chỉ đem Hoà Nghĩa quân gốc hải tặc của mình tới đóng ở núi Châu Thới tại Dĩ An thuộc tỉnh Bình Dương gần với cả sông Đồng Nai lẫn 1 trong các khu định cư đầu tiên ở Nam bộ do người Hoa thế hệ Minh Hương lập ra hơn 100 năm trước đó là Cù lao Phố a.k.a Nông Nại Đại Phố ở thành phố Biên Hoà mà còn chủ động cho quân đánh úp Đông Sơn quân của Đỗ Thanh Nhơn buộc Đỗ Thanh Nhơn phải cho quân đắp luỹ phòng giữ chạy dài từ sông Sài Gòn tới Bến Than ở Củ Chi.



Trong lúc 2 người Đỗ, Lý đang đánh nhau ở Gia Định thì con tin Nguyễn Phúc Dương phía Tây Sơn trước đó sử dụng danh nghĩa ủng lập để có thể danh chính ngôn thuận chiếm đất từ tay họ Nguyễn Phúc đã bí mật trốn về Gia Định vào cuối năm 1776 cho tới sau khi hay tin Lý Tài đánh nhau với Đỗ Thanh Nhơn thì do từng có thiện cảm với Lý Tài khi còn làm con tin ở bên Tây Sơn, Nguyễn Phúc Dương sau đó đã chủ động đích thân đi chiêu an Lý Tài vốn Lý Tài khi được Nguyễn Phúc Dương chiêu an đã giành lấy quyền hộ tống xa giá Nguyễn Phúc Dương trước khi sang ngày 14 tháng 12 năm 1776 thì ép Nguyễn Phúc Thuần chủ động tổ chức lễ thoái vị nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương để bản thân lên làm Thái Thượng vương

Nguyễn Phúc Thuần không cam tâm chịu sự sắp xếp cưỡng ép của Lý Tài nên sau đó đã định nghe theo lời cháu trai Nguyễn Phúc Ánh a.k.a Ong Chiang Su (8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) là định đến ở căn cứ Ba Giồng của Đỗ Thanh Nhơn chỉ để sau khi Lý Tài biết được đã chủ động cấm cố phe Nguyễn Phúc Thuần tại Gia Định với sự chia rẽ nội bộ Nguyễn Phúc thành 2 phe Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Ánh, Đỗ Thanh Nhơn với Nguyễn Phúc Dương - Lý Tài tại Gia Định đã tạo cơ hội cho phía Tây Sơn lần nữa cử binh vào đánh Gia Định lần thứ hai năm 1777 vốn quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã liên tiếp đánh bại hải tặc người Hoa trong Hoà Nghĩa quân của Lý Tài khiến cho Lý Tài không chỉ phải bỏ thành chạy về Hóc Môn mà sau đó là còn phải lui tiếp về khu vực Ba Giồng là lãnh địa của Đỗ Thanh Nhơn dẫn đến bị quân Đông Sơn đổ ra đánh giết Lý Tài cùng Hoà Nghĩa quân.



Cái chết của chủ tướng Lý Tài dưới tay quân Đông Sơn không có nghĩa là toàn bộ Hoà Nghĩa quân đều bị Đông Sơn quân của Đỗ Thanh Nhơn tận diệt do bởi vẫn còn một số binh sỹ Hoà Nghĩa quân sống sót sau sự kiện năm 1777 vốn trong cùng năm thì cả 2 chú cháu Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương đều bị chém sau khi bị rơi vào tay quân Tây Sơn chỉ còn sót mỗi Nguyễn Phúc Ánh là người sau đó trở thành tân chủ của sứ quân họ Nguyễn Phúc tại Đàng Trong.



Nguyễn Phúc Ánh sau 1 thời gian vừa lẩn trốn khắp khu vực Tây Nam bộ vừa bí mật chiêu mộ binh mã đã bất ngờ quay lại tái chiếm dinh Long Hồ trước khi giành lại nốt Gia Định thành từ tay quân Tây Sơn vào cuối năm 1777 dẫn đến phía Tây Sơn qua tháng 2 năm 1778 đã lại cử quân đi đường biển vào công đánh Gia Định chỉ để bị Nguyễn Phúc Ánh đẩy lui khỏi Nam bộ.



Mặc dù để giữ địa bàn đất Nam bộ trong vài năm thì phía Nguyễn Ánh không thể thiếu sự hỗ trợ lực lượng từ 2 thế lực bán độc lập khác ở Nam bộ là họ Mạc tại Hà Tiên trấn cùng Đông Sơn quân của Đỗ Thanh Nhơn tại Ba Giồng nhưng không chỉ từ sau khi trị sở Hà Tiên trấn bị vua Taksin của vương quốc Thonburi phá huỷ vào cuối năm 1771 thì thế lực họ Mạc cai trị Hà Tiên trấn bị suy yếu đi nhiều mà sau 2 chúa Nguyễn Phúc bị Tây Sơn bắt giết năm 1777 thì tàn dư Mạc thị gồm đương chủ Mạc Thiên Tứ cùng con cái lẫn 1 vài người của họ Nguyễn Phúc đã trốn tới Xiêm vốn dù ban đầu quốc chủ Taksin của Thonburi đối xử họ rất tử tế vì muốn xoá bỏ ân oán quá khứ nhưng mọi thứ trở nên xấu đi sau khi phía Nguyễn Phúc chủ động gây hấn với Xiêm bằng các sự kiện cử quân sang Chân Lạp lật đổ quốc chủ do phía Xiêm lập để lập lên ngai vàng nước này bằng 1 ứng viên thân Việt vào năm 1779 trước khi sang đầu năm 1780 thì 1 tàu buôn Xiêm chất đầy hàng sau khi tới Quảng Đông buôn bán đã bị tàu chiến quân Việt chặn đường cướp giết dẫn đến Taksin vì vậy quay ra thù hằn với họ Nguyễn Phúc.



Giọt nước tràn ly mang án tử cho họ Mạc gốc Quảng Đông đang tị nạn ở Xiêm sau cùng cũng tới ngay trong năm 1780 khi lá thư viết bởi Đỗ Thanh Nhơn bấy giờ đang nắm đại quyền tại Nam bộ có nội dung yêu cầu Mạc Thiên Tứ với chú của Nguyễn Phúc Ánh đang ở tại Xiêm cùng họ Mạc là Tôn Thất Xuân cùng nhau làm nội ứng phối hợp với Đỗ Thanh Nhơn cùng nhau lật đổ Taksin lại xui xẻo rơi vào tay Taksin vốn tới tháng 11 năm 1780, Taksin không chỉ bức tử Mạc Thiên Tứ mà sau đó còn giết gần hết người họ Mạc cùng các quan thần Nguyễn Phúc ở tại Xiêm như Tôn Thất Xuân rồi cất binh đi đánh Chân Lạp nhằm lật đổ vua do người Việt trước đó lập lên hồi năm 1779.



Sang tháng 3 năm 1781 thì tới lượt Đỗ Thanh Nhơn đã bị chính Nguyễn Phúc Ánh gọi vào chầu rồi cho phục binh giết đi do Nguyễn Phúc Ánh lúc này coi Đỗ Thanh Nhơn quá chuyên quyền chỉ để hành động tự chặt nốt cánh tay lành lặn còn lại này của Nguyễn Phúc Ánh đã không chỉ gây bất mãn cho quân lính Đông Sơn dưới quyền Đỗ Thanh Nhơn tới mức họ nổi dậy chống lại họ Nguyễn Phúc mà chỉ 1 năm sau đó là vào năm 1782, phía Tây Sơn vào tháng 3 năm này đã lại cử Nguyễn Huệ đem quân vào Nam bộ không chỉ huỷ diệt hạm đội Nguyễn Phúc tại trận thuỷ chiến Thất Kỳ giang quy mô lớn ở sông Ngã Bảy tại cửa Cần Giờ mà còn buộc Nguyễn Phúc Ánh lần nữa phải bỏ trốn.
 
Dù vậy thì do cánh quân trên bộ của Tây Sơn truy kích theo Nguyễn Phúc Ánh khi tới cầu Tham Lương đã bị trúng phục binh của quan quân Nguyễn Phúc dẫn đến chỉ huy đạo quân là Phạm Ngạn vốn cũng là em vợ của Thái Đức đế Nguyễn Nhạc bị tướng Trần Công Chương của Hoà Nghĩa quân giết đổi lấy việc bên quân Nguyễn Phúc bị chết tướng Hồ Công Siêu.



Sự liên quan giữa Hoà Nghĩa quân mà Trần Công Chương thuộc về với Hoà Nghĩa quân của Lý Tài ở chỗ Trần Công Chương cùng những binh sỹ khác trong đạo Hoà Nghĩa tham gia phục kích cánh bộ binh Tây Sơn ở cầu Tham Lương năm 1782 có thể là cựu tàn quân hải tặc Hoà Nghĩa quân còn sống sót sau khi chủ lực Hoà Nghĩa quân cùng chủ tướng Lý Tài bị giết bởi quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn trước đó 5 năm đã dẫn đến phía Tây Sơn vì cho rằng Hoa kiều khu vực Gia Định, Trấn Biên có liên quan tới cuộc phục kích ở cầu Tham Lương do chỉ 5 năm trước đó thì chủ soái Lý Tài của hải tặc Hoà Nghĩa quân từng dẫn dắt người Hoa theo Nguyễn Phúc chống lại Tây Sơn nên đã cho thảm sát diện rộng Hoa kiều các khu vực Gia Định, Trấn Biên khiến cho Hoa kiều sống sót ở Nam bộ vì vậy chỉ muốn theo Nguyễn Phúc nhiều hơn.



Đội quân Hoà Nghĩa thành lập từ hải tặc gốc Hoa ở Nam Trung bộ bởi Lý Tài trước kia vẫn tiếp tục tồn tại thêm 1 thời gian trong quân đội Nguyễn Phúc sau trận phục kích cầu Tham Lương năm 1782 làm vạ lây sinh mạng hàng ngàn Hoa kiều tại Gia Định, Trấn Biên dù rằng thông tin về lực lượng chiến đấu người Hoa gốc gác ban đầu là hải tặc này sau đó trở nên ít dần đi trong các thư tịch mãi qua năm 1783 thì có lẽ cái tên quân Hoà Nghĩa lần cuối được nói tới.



Do trong năm 1783 thì Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn lại cử 2 em trai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang hạm đội lại vào nam đánh chiếm Gia Định đã bị tái chiếm trước đó bởi quân Nguyễn Phúc Ánh khiến Nguyễn Phúc Ánh phải tiếp tục trốn ra ở vịnh Thái Lan để lẩn trốn như mọi khi vốn Nguyễn Phúc Ánh bên cạnh chạy ra hải đảo trốn thì cũng cho tướng quân Hoà Nghĩa quân là Trần Đĩnh đi theo Tôn Thất Cốc tới cửa biển Cần Giờ thám thính tình hình chỉ để sau khi Tôn Thất Cốc vì phát sinh mâu thuẫn nên chủ động ra tay sát hại Trần Đĩnh, 2 thuộc cấp trong Hoà Nghĩa quân của Trần Đĩnh là Trần Hưng, Lâm Húc đã nổi dậy chiếm lấy trấn Hà Tiên chống lại Nguyễn Phúc Ánh.



Sau khi tạm bị Nguyễn Phúc Ánh cử người đuổi khỏi Hà Tiên trấn thì Trần Hưng sau đó đã quay lại đánh úp Hà Tiên trấn và giết những người Nguyễn Phúc Ánh cử tới quản lý Hà Tiên trấn gồm cả cô của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Phúc Ngọc Thụ/Nguyễn Phúc Ngọc Đảo lo việc quân nhu buộc Nguyễn Phúc Ánh mang quân từ Phú Quốc đánh vào Hà Tiên trấn khiến Trần Hưng phải thua chạy vốn tới đây thì do không còn thông tin nào về Hoà Nghĩa quân nên có thể là quân Hoà Nghĩa do thế lực hải tặc Hoa kiều tại Nam Trung bộ là Lý Tài lập ra lẫn tồn tại từ năm đầu khởi nghĩa Tây Sơn (năm 1771) tới đây đã hoàn toàn biến mất khỏi lịch sử với lý do là bị chính Nguyễn Phúc thị xoá sổ.



Mặc dù các thế lực hải tặc người Hoa đầu tiên hoạt động ở khu vực phía nam Trung Hoa từ thời Càn Long trở đi với căn cứ đặt tại vùng đất Đàng Trong từ Quy Nhơn ở Bình Định vào nam bộ của họ Nguyễn Phúc gồm Trung Nghĩa quân của Tập Đình, Hoà Nghĩa quân của Lý Tài cho tới năm 1782 đều biến mất do bị tan rã trong cuộc chiến giữa Tây Sơn với Nguyễn Phúc dưới thân phận là các lực lượng đánh thuê ngoại tộc như Hoà Nghĩa quân của Lý Tài hay là với họ Trịnh như Trung Nghĩa quân của Tập Đình với chính phía Tây Sơn cùng họ Nguyễn Phúc từng chiêu mộ họ cũng có đóng góp không ít trong việc phá huỷ các lực lượng đánh thuê của hải tặc người Hoa ở khu vực Đàng Trong ấy do lập trường chính trị bất ổn định của mấy cánh quân hải tặc Hoa kiều đánh thuê này nhưng không vì vậy mà cả Tây Sơn lẫn đối thủ Nguyễn Phúc đều phủ nhận giá trị, vai trò không nhỏ do từ các lực lượng thuỷ quân cùng hạm đội đánh thuê ngoại tộc chủ yếu do các hải tặc người Hoa vận hành.



Do vậy mà suốt giai đoạn sau đó của cuộc chiến giữa 2 bên thì cả nhà Tây Sơn với họ Nguyễn Phúc đều chạy đua tìm cách chiêu mộ các bang hải tặc người Hoa hoạt động một dải từ vùng nước Hoa Nam duyên hải 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây trở xuống tới vịnh Thái Lan với trong khi phía Nguyễn Phúc chiêu mộ các nhóm hải tặc người Hoa bỏ chạy ra xa khỏi Trung Hoa như đảng của Hà Hỉ Văn gốc Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh, bên Tây Sơn ngược lại khi chủ động chiêu mộ các lực lượng hải tặc vẫn còn quỹ đạo hoạt động cướp bóc duyên hải Nam Trung Hoa trong khu vực vịnh Bắc bộ của biển lớn Hoa Nam.



Nói về gốc gác thì những hải tặc Hoa Nam hoạt động cướp bóc duyên hải Nam Trung Hoa trong khu vực vịnh Bắc bộ của biển lớn Hoa Nam phía Tây Sơn chiêu mộ ở giai đoạn sau nếu dựa theo các chi tiết về tiểu sử họ ghi chép trong các thư tịch thì có phần không giống các toán hải tặc đánh thuê ban đầu của 2 bên Tây Sơn, Nguyễn Phúc là Hoà Nghĩa quân của Lý Tài, Trung Nghĩa quân của Tập Đình vì gốc gác 2 lực lượng hải tặc đánh thuê người Hoa từ thời điểm trước khi Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lần thứ nhất vào năm 1786 này cũng như các thế lực hải tặc người Hoa khác hoạt động trong khu vực vịnh Thái Lan không do Tây Sơn hay Nguyễn Phúc kiểm soát chính là việc những hải tặc người Hoa hoạt động ở phạm vi xa hơn phía nam ở ngoài vịnh Bắc bộ đều đa phần do thương nhân Hoa kiều xuống Nam Dương buôn bán xong nhảy tàu ở lại rồi chiêu mộ những lưu dân Hoa kiều khác cùng cảnh ngộ di cư trốn khỏi Trung Hoa xuống sống ở Đông Nam Á xa khỏi phạm vi quản lý nhà Thanh hợp thành trong khi bản thân các lực lượng hải tặc người Hoa ở vịnh Bắc bộ do nhà Tây Sơn chiêu mộ từ sau khi thời điểm thảm sát mạnh tay Hoa kiều tại Đông Nam bộ vào năm 1682 lại không chỉ có nguồn gốc ban đầu ngoài những thương nhân còn có cả ngư dân mà phạm vi hoạt động của các toán hải tặc này là vùng nước vịnh Bắc bộ a.k.a vịnh Đông Kinh nằm giữa Bắc bộ Việt Nam - Trung Hoa với gốc gác các toán hải tặc này đều toàn là người Quảng Đông nói phương ngữ tiếng Quảng phổ biến ở khu vực đồng bằng Châu Giang ở phía tây Quảng Đông hơn là gốc gác lưỡng hợp Quảng - Tiều hay mỗi người Tiều đến từ đồng bằng Triều Sán ở đông bộ Quảng Đông nói phương ngữ Triều/Tiều Châu gần gũi với phương ngữ Mân Nam của người Phúc Kiến của các toán hải tặc Hoa kiều người Hoa hoạt động khu vực giữa - nam biển Đông.



Hơn nữa thì 1 điểm chung khác các toán hải tặc người Hoa gốc Quảng ở vịnh Bắc bộ do nhà Tây Sơn chiêu mộ từ sau năm 1786 đều có chính là việc những toán hải tặc gốc Quảng ở vịnh Bắc bộ này do đều bị ràng buộc mạnh mẽ với bản quán Lưỡng Quảng của họ nên phạm vi hoạt động các toán hải tặc gốc Quảng này đều ở gần với khu vực bản quán tại Trung Hoa của họ hơn là viễn dương phạm vi xa tới mức gần như không còn mối liên hệ nào với bản quán vì bản thân đã chủ động đồng hoá vào cộng đồng bản địa giống khối hải tặc Hoa kiều gốc Tiều hay hỗn hợp Tiều - Quảng hoạt động khu vực giữa - nam biển Đông như 2 lực lượng Hoà Nghĩa quân của Lý Tài, Trung Nghĩa quân của Tập Đình từng hoạt động từ năm 1782 trở về trước.
 

Có thể bạn quan tâm

Top