thandieuhieplu11@
Bò lái xe
Chương I. Một vấn đề danh dự “Tôi rất tiếc câu trả lời là không”
Người Mỹ không còn dám nhìn thẳng vào mắt tôi nữa, tôi biết rằng thế là hết rồi. Chúng tôi ngồi trong nhà của tôi ở Tân Sơn Nhứt, căn cứ không quân Sài Gòn nằm ở ngoại ô, cách thành phố một vài dặm. Mặc dù lúc bấy giờ là một dân thường, tôi vẫn còn giữ cấp bậc thiếu tướng không quân và vẫn có quyền ở trong “khu gia đình”. Đêm 22-4-1975, tôi đang ngồi tại đó, đối diện với Erich Von Moarbod, một trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Mỹ và hai cố vấn quân sự dường như là Stevenson và Smith.
Căn phòng được trang bị đơn giản với ghế bành êm và những chiếc bàn. Các cửa sổ căn phòng nhìn ra khu vực rộn rịp của căn cứ, nơi mà tôi đã từng thực hiện hàng trăm chuyến bay chống lại quân địch. Hôm ấy trời nóng. Những chiếc cửa sổ mở không làm sao chặn được tiếng nổ của súng cối hay tiếng nổ to hơn của trọng pháo thỉnh thoảng vang lên, lúc lúc bị tiếng chuông hoặc tiếng còi hụ của một xe cứu thương hay xe chữa cháy cắt ngang.
Bầu trời đen tối bị nhuộm một màu đỏ bầm, giống như một bức tranh tầm thường vẽ một cảnh mặt trời lặn. Nhưng mặt trời đã lặn từ lâu rồi trên nhiều mặt chứ không phải chỉ trên một mặt, vì những vết đỏ xuất phát từ những trận pháo bao quanh ngoại ô Sài Gòn đã chẳng khác gì một giàn hoả táng cho Nam Việt Nam, cho một cuộc thất trận của một quốc gia lớn nhất trên giới cùng với nước bạn nhỏ hơn cùng đứng trong hàng ngũ chiến đấu với họ.
Ngay trong lúc đó, nhìn qua cửa sổ, tôi đã cố bám vào một hy vọng mỏng manh cuối cùng là dù thế nào đi nữa cũng có thể cứu vãn được danh dự khỏi cuộc hủy diệt này, nói một cách khác, là tôi có thể lao vào lửa để cứu lấy danh dự như người ta cứu lấy một ngọn cờ trận quý báu vậy. Nhiều tuần qua tôi đã tìm cách thuyết phục người Mỹ loại bỏ tổng thống Thiệu rồi ủng hộ tôi trong một cuộc đấu tranh một mất một còn đó có thể, dù không đem lại được chiến thắng nhưng ít ra cũng cho chúng tôi có cơ hội để thảo luận về những điều kiện hoà bình sau này, trên một tư thế mạnh nào đó.
Đó là lý do tại sao Von Marbod đã đến nhà tôi. Ông đại sứ Mỹ, Graham Martin đã từng ngồi trên chiếc ghế này, lạnh lùng và lặng lẽ như đá cẩm thạch lát ở nhà mồ.
Một người hầu rót thêm trà xanh và rượu Napoleon. Trong nhà chỉ còn có một chai rượu. Thế là tôi quay sang nói với Von Marbod, “ông biết kế hoạch của tôi rồi chứ. Ông biết rằng tôi đã giải thích cho ông Martin là chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu ở vùng châu thổ sông Cửu Long như thế nào rồi chứ. Tôi biết rồi có thể tổ chức cuộc kháng chiến và duy trì được, có lẽ là trong một vài tháng cuối cùng. Liệu chính phủ Mỹ sẽ có yểm trợ cho chúng tôi không? Không phải bằng người, mà bằng vũ khí. Chúng tôi chỉ yêu cầu bấy nhiêu đó thôi”.
Sự im lặng dường như chẳng bao giờ chấm dứt. Thế rồi chỉ một câu ngắn ngủi đã làm tan vỡ sự im lặng đó. Von Marbod nói, “Tôi rất tiếc, câu trả lời là “không”.
Ông ta nói với một giọng tẻ nhạt, yếu đuối, không dám nhìn thẳng vào tôi. Tôi tự hỏi giọng nói đó, một giọng nói chẳng hề có âm điệu, đã muốn nói lên điều gì. Thất vọng chăng? Nhẫn nhục chăng? Hay là tủi nhục?
Von Marbod ngó lên và nói một giọng bình thản, “Khi rôi rời Việt Nam, thưa tht, ngài sẽ đi với tôi chăng?” Rồi ông nói thêm với một vẻ hào phóng đặc biệt: “ngài nên cho gia đình đi ngay đi. Và đừng lo ngại gì, Nếu trường hợp xấu nhất xảy ra, ngài có thể đi Mỹ và sinh sống ở đó”.
Có thể Hoa Kỳ đã chẳng bao giờ thắng được cuộc chiến. Nhưng dù cho người ta không chiến thắng được đi nữa thì điều người ta có thể lựa chọn được đâu nhất thiết phải là nỗi nhục nhã của cuộc đầu hàng hèn hạ.
Người chiến thắng thu chiến lợi phẩm. Nhưng đối với kẻ chiến bại thì vẫn còn có thể giữ được danh dự. Khi Von Marbod bước ra xe díp và chạy dọc theo con đường loang lổ vì đạn phái đi đến đại sứ quán Mỹ, tôi biết rằng ngay cả điều đó giờ đây chúng tôi cũng bị khước từ.
Người Mỹ không còn dám nhìn thẳng vào mắt tôi nữa, tôi biết rằng thế là hết rồi. Chúng tôi ngồi trong nhà của tôi ở Tân Sơn Nhứt, căn cứ không quân Sài Gòn nằm ở ngoại ô, cách thành phố một vài dặm. Mặc dù lúc bấy giờ là một dân thường, tôi vẫn còn giữ cấp bậc thiếu tướng không quân và vẫn có quyền ở trong “khu gia đình”. Đêm 22-4-1975, tôi đang ngồi tại đó, đối diện với Erich Von Moarbod, một trợ lý Bộ trưởng quốc phòng Mỹ và hai cố vấn quân sự dường như là Stevenson và Smith.
Căn phòng được trang bị đơn giản với ghế bành êm và những chiếc bàn. Các cửa sổ căn phòng nhìn ra khu vực rộn rịp của căn cứ, nơi mà tôi đã từng thực hiện hàng trăm chuyến bay chống lại quân địch. Hôm ấy trời nóng. Những chiếc cửa sổ mở không làm sao chặn được tiếng nổ của súng cối hay tiếng nổ to hơn của trọng pháo thỉnh thoảng vang lên, lúc lúc bị tiếng chuông hoặc tiếng còi hụ của một xe cứu thương hay xe chữa cháy cắt ngang.
Bầu trời đen tối bị nhuộm một màu đỏ bầm, giống như một bức tranh tầm thường vẽ một cảnh mặt trời lặn. Nhưng mặt trời đã lặn từ lâu rồi trên nhiều mặt chứ không phải chỉ trên một mặt, vì những vết đỏ xuất phát từ những trận pháo bao quanh ngoại ô Sài Gòn đã chẳng khác gì một giàn hoả táng cho Nam Việt Nam, cho một cuộc thất trận của một quốc gia lớn nhất trên giới cùng với nước bạn nhỏ hơn cùng đứng trong hàng ngũ chiến đấu với họ.
Ngay trong lúc đó, nhìn qua cửa sổ, tôi đã cố bám vào một hy vọng mỏng manh cuối cùng là dù thế nào đi nữa cũng có thể cứu vãn được danh dự khỏi cuộc hủy diệt này, nói một cách khác, là tôi có thể lao vào lửa để cứu lấy danh dự như người ta cứu lấy một ngọn cờ trận quý báu vậy. Nhiều tuần qua tôi đã tìm cách thuyết phục người Mỹ loại bỏ tổng thống Thiệu rồi ủng hộ tôi trong một cuộc đấu tranh một mất một còn đó có thể, dù không đem lại được chiến thắng nhưng ít ra cũng cho chúng tôi có cơ hội để thảo luận về những điều kiện hoà bình sau này, trên một tư thế mạnh nào đó.
Đó là lý do tại sao Von Marbod đã đến nhà tôi. Ông đại sứ Mỹ, Graham Martin đã từng ngồi trên chiếc ghế này, lạnh lùng và lặng lẽ như đá cẩm thạch lát ở nhà mồ.
Một người hầu rót thêm trà xanh và rượu Napoleon. Trong nhà chỉ còn có một chai rượu. Thế là tôi quay sang nói với Von Marbod, “ông biết kế hoạch của tôi rồi chứ. Ông biết rằng tôi đã giải thích cho ông Martin là chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu ở vùng châu thổ sông Cửu Long như thế nào rồi chứ. Tôi biết rồi có thể tổ chức cuộc kháng chiến và duy trì được, có lẽ là trong một vài tháng cuối cùng. Liệu chính phủ Mỹ sẽ có yểm trợ cho chúng tôi không? Không phải bằng người, mà bằng vũ khí. Chúng tôi chỉ yêu cầu bấy nhiêu đó thôi”.
Sự im lặng dường như chẳng bao giờ chấm dứt. Thế rồi chỉ một câu ngắn ngủi đã làm tan vỡ sự im lặng đó. Von Marbod nói, “Tôi rất tiếc, câu trả lời là “không”.
Ông ta nói với một giọng tẻ nhạt, yếu đuối, không dám nhìn thẳng vào tôi. Tôi tự hỏi giọng nói đó, một giọng nói chẳng hề có âm điệu, đã muốn nói lên điều gì. Thất vọng chăng? Nhẫn nhục chăng? Hay là tủi nhục?
Von Marbod ngó lên và nói một giọng bình thản, “Khi rôi rời Việt Nam, thưa tht, ngài sẽ đi với tôi chăng?” Rồi ông nói thêm với một vẻ hào phóng đặc biệt: “ngài nên cho gia đình đi ngay đi. Và đừng lo ngại gì, Nếu trường hợp xấu nhất xảy ra, ngài có thể đi Mỹ và sinh sống ở đó”.
Có thể Hoa Kỳ đã chẳng bao giờ thắng được cuộc chiến. Nhưng dù cho người ta không chiến thắng được đi nữa thì điều người ta có thể lựa chọn được đâu nhất thiết phải là nỗi nhục nhã của cuộc đầu hàng hèn hạ.
Người chiến thắng thu chiến lợi phẩm. Nhưng đối với kẻ chiến bại thì vẫn còn có thể giữ được danh dự. Khi Von Marbod bước ra xe díp và chạy dọc theo con đường loang lổ vì đạn phái đi đến đại sứ quán Mỹ, tôi biết rằng ngay cả điều đó giờ đây chúng tôi cũng bị khước từ.