
Mình người miền Nam, nhưng phải công nhận miền Bắc quá giỏi trong mảng này | Viết bởi Mạc Thanh Hải
Nói thật với anh em, người miền Nam mình đúng là có cái chất riêng, cái hồn mà không lẫn vào đâu được. Từ cách sống thoải mái, phóng khoáng, đến cái tình người đậm đà như tô bún nước lèo – cứ chân thành, mộc mạc mà cuốn hút.

Nói thật với anh em, người miền Nam mình đúng là có cái chất riêng, cái hồn mà không lẫn vào đâu được. Từ cách sống thoải mái, phóng khoáng, đến cái tình người đậm đà như tô bún nước lèo – cứ chân thành, mộc mạc mà cuốn hút.
Nhưng mà, có một thứ phải công nhận, tay chơi nào cũng phải gật đầu: về khoản chữ nghĩa, thơ ca, thì miền Bắc đúng là “đỉnh của chóp” luôn.
Miền Nam mình, nói sao nhỉ, mạnh về cái tình hơn cái văn. Người ta hay bảo dân Nam sống “dễ”, nói chuyện cũng “dễ”, không câu nệ nhiều. Ví dụ nhé, anh em mình gặp nhau, hỏi “Ăn cơm chưa?” là đủ để mở màn một buổi nhậu lai rai, chả cần hoa mỹ gì nhiều.
Nhưng mà thử nhìn qua mấy ông thi sĩ miền Bắc xem, họ chơi chữ như làm xiếc, từng câu từng chữ cứ như vẽ tranh, nghe mà muốn nổi da gà.
Từ mấy cụ như Nguyễn Du với Truyện Kiều, rồi Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử – mà Hàn này tuy gốc miền Trung nhưng ảnh hưởng Bắc nhiều – đều là những tay tổ về thơ. Chữ của họ không chỉ đẹp, mà còn sâu, còn thấm, kiểu như ghim vào lòng người ta luôn.

Đại thi hào Nguyễn Du, tuy quê Hà Tĩnh, nhưng ảnh hưởng miền Bắc cũng rất nhiều
Miền Nam mình có nhạc, có cải lương, có cái duyên kể chuyện, nhưng thơ thì hiếm ai “đánh” lại được cái tinh tế của Bắc. Anh em mình hát hò thì sôi động, mà mấy ông Bắc làm thơ thì lại trầm, buồn, kiểu như mưa dầm dề thấm đất.
Ví dụ, đọc mấy câu của Tố Hữu hay Chế Lan Viên đi, nó không chỉ là chữ, mà là cả một trời cảm xúc, như kiểu mưa Hà Nội tí tách rơi ngoài hiên vậy. Mình nghe mà cứ phải thốt lên: “Ờ, cái này đỉnh thiệt!”

Thơ của Chế Lan Viên có khi còn được áp dụng vào thời điểm bây giờ vẫn hợp lý
Nhưng mà nói vậy không phải chê anh em mình đâu nha. Miền Nam mình mạnh cái khác, cái chất đời, chất thật. Thơ miền Nam, như của Phạm Thiên Thư hay mấy bài ca dao Nam Bộ, cũng có cái hay riêng, nhưng nó nghiêng về cái gần gũi, dễ hiểu, dễ thấm hơn là kiểu chơi chữ cao siêu.
Chẳng hạn, ca dao Nam Bộ kiểu “Cây khô chưa dễ mọc chồi/ Người đi chưa dễ ngày lòi thăm nhau” – mộc mạc, chân chất, đúng kiểu anh em mình nói chuyện. Còn Bắc thì “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” – nghe là biết trình độ “khác bọt” liền.
Và lí do vì sao miền Bắc lại giỏi? Phải công nhận một cái: miền Bắc có cái “nền” về văn hóa, lịch sử lâu đời hơn hẳn. Coi như là cái gốc rễ đi. Từ thời phong kiến, Thăng Long – Hà Nội đã là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước.

Thăng Long - cái tên gắn liền với ngàn năm Văn Hiến của Việt Nam
Vua chúa, quan lại, sĩ tử tụ họp ở đó, mà mấy ông này thì toàn dân học cao hiểu rộng, chữ nghĩa đầy mình. Thành ra, cái không khí học thuật, văn chương nó thấm vào máu thịt luôn. Anh em mình thử nghĩ, thời đó sĩ tử miền Bắc đi thi Hương, thi Hội, đỗ đạt làm quan, họ phải “múa bút” giỏi lắm mới nổi được. Chữ nghĩa không chỉ là công cụ, mà còn là cái để khoe tài, để khẳng định vị thế. Cái này khác với miền Nam mình, nơi mà đất mới khai phá, người ta lo làm ăn, đánh cá, trồng lúa nhiều hơn là ngồi gọt giũa câu chữ.
Rồi thêm cái nữa, khí hậu miền Bắc nó cũng góp phần. Nghe lạ tai hả? Nhưng thiệt đó! Miền Bắc mưa nhiều, lạnh, mùa đông thì gió rét cắt da cắt thịt. Người ta ở nhà nhiều, ít ra ngoài, thế là có thời gian ngồi nghĩ ngợi, viết lách. Mưa dầm dề, gió heo may, tự nhiên nó gợi buồn, gợi cảm xúc, mà thơ thì hay đi với nỗi buồn, cái sâu lắng.

Thời tiết giá rét nên việc ở nhà và làm thơ thường xuyên cũng rất hợp lý
Anh em mình ở Nam, nắng ấm quanh năm, sông nước mênh mông, tính tình cũng phóng khoáng, ít khi ngồi “đào sâu” tâm hồn kiểu đó. Thành ra, thơ Bắc nó hay có cái chất trầm, cái gì đó day dứt, như “Tràng giang” của Huy Cận: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” – vừa đẹp, vừa buồn, vừa “đã” cái đầu.
Cái thứ ba là truyền thống giáo dục. Miền Bắc có làng khoa bảng, có trường Quốc Tử Giám từ thời Lý, rồi mấy thế kỷ sau vẫn giữ cái nề nếp học hành nghiêm túc. Người ta coi trọng chữ thánh hiền, coi văn chương là cái để đời.

Văn miếu Quốc Tử Giám - “Đại học” đầu tiên ở Việt Nam
Mấy ông nhà nho ngày xưa, dù nghèo rớt mồng tơi, vẫn cắm cúi làm thơ, viết văn, để lại cho đời. Trong khi đó, miền Nam mình thời khai hoang, dân đa phần là người lao động, ít ai có điều kiện học chữ nghĩa cao siêu. Văn chương Nam Bộ vì thế thiên về lời nói, ca dao, cải lương – gần gũi, dễ nhớ, chứ không “đánh đố” như thơ Bắc.
Cuối cùng, phải kể đến cái “gu” chơi chữ của người Bắc. Họ thích cái gì tinh tế, ẩn ý, phải động não mới hiểu hết. Thơ miền Bắc thường dùng điển tích, điển cố, lấy từ sách Tàu, sách nho, rồi biến tấu khéo léo lắm.

Táo Quân - hay được mọi người đề cao vì sự “chê bai” khéo léo, ẩn dụ của các Táo khi trình báo cho Ngọc Hoàng
Ví dụ như Nguyễn Du trong Truyện Kiều, câu nào cũng như tranh, mà câu nào cũng có tầng ý nghĩa sâu xa. Trong khi đó, anh em mình ở Nam thích cái gì thẳng thắn, rõ ràng, ít vòng vo. Chẳng hạn, ca dao Nam Bộ kiểu “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ em bán rượu, nhớ bà bán che” – nghe là hiểu liền, không cần giải thích dài dòng. Nhưng chính vì cái tinh tế, cầu kỳ đó mà thơ Bắc nó “đẳng cấp” hơn, khó bắt chước hơn.
Suy cho cùng, chữ nghĩa với thơ ca miền Bắc giỏi là nhờ cái gốc lịch sử, khí hậu gợi cảm hứng, truyền thống học hành, và cả cái gu chơi chữ “cao tay”. Miền Nam mình thì mạnh cái tình, cái đời, nhưng về khoản sâu sắc, trau chuốt thì phải nghiêng mình kính nể mấy ông Bắc thật. Cái này phải thừa nhận!

Các cuộc thi về văn thơ, chữ nghĩa vẫn còn được giữ gìn ở miền Bắc cho tới ngày nay