tị nạn từ Voz
Lồn phải lá han

Khi người ta sống ở một đất nước mà không biết tiếng của nước đó là điều thiệt thòi lớn. Không những họ gặp khó khăn trong khi giải quyết những thủ tục hành chính và giao dịch hàng ngày với người bản địa mà thiệt thòi lớn hơn chính là không cảm nhận được tinh hoa văn hóa ở đất nước mình đang sống. Rất nhiều người trong chúng ta chủ yếu thu thập thông tin từ những nguồn đăng tải bằng tiếng Việt, mặc dù họ đang sống ở Đức. Cộng đồng chúng ta tồn tại song song với cộng đồng Đức, chứ không phải cùng chung sống trên tinh thần hội nhập.
„Sống ở Đức thì phải biết tiếng Đức chứ!“, nghe câu này người ta cho là một mệnh đề có lý, là một lẽ đương nhiên. Trên thực tế, việc học tiếng của người Việt ở đất này là một cuộc chiến đấu đầy hy sinh và dai dẳng.
Thế nào là một người biết tiếng Đức?
Khái niệm một người biết tiếng Đức không khác gì khái niệm một người biết đá bóng. Có nghĩa là anh ta có thể tài nghệ như Messi, Ronaldo nhưng cũng có thể chỉ là một cầu thủ trong đội bóng làng. Nước Đức trở thành nước nhập cư từ 2005 chỉ vì dân số Đức ngày càng giảm do sinh đẻ ít (một phụ nữ Đức trung bình chỉ đẻ 1,4 con) và tuổi thọ lại tăng do mức sống và chăm sóc y tế tốt hơn. Ngoài ra hàng năm có mấy chục nghìn người Đức đi định cư ở nước ngoài với những lý so khác nhau. Dù muốn hay không, chính phủ Đức phải thực hiện chính sách này để có người lao động và đóng thuế cho an sinh xã hội.
Chính phủ Liên bang đưa ra tiêu chí về vấn đề học tiếng của người nước ngoài rất ngắn gọn: „FÖRDERN UND FORDERN“. Có nghĩa là họ tạo điều kiện khuyến khích để người nước ngoài học tiếng, nhưng đồng thời họ cũng đòi hỏi phải có kết quả, vì đó là nền tảng để hội nhập. Họ chi tiền mở thêm các khóa học và hoan nghênh người tham gia, song song với các trường Bổ túc văn hóa (Volkshochschule) có sẵn.
Những người Việt mới sang Đức hoặc chưa được học chính quy bao giờ đều có nguyện vọng tham gia, nhưng rất ít người theo được đến hết khóa, vì lớp học được tổ chức trong những ngày làm việc, mà người Việt ưu tiên đi làm hơn. Nguyên nhân thứ hai là tốc độ dạy và học nhanh, nhiều từ mới và phải làm bài tập về nhà đều đặn. Thầy giáo giải thích một khái niệm trừu tượng có khi mất gần 10 phút thông qua những ví dụ, nhưng học sinh chỉ hiểu mờ mờ dẫn đến căng thẳng.
Sau một thời gian ngắn, họ bỏ dần. Vả lại động cơ học của họ là „học cho biết“ chứ không bị một sức ép nào, nên không học cũng không sao, mọi người đều thế chứ riêng gì mình!
Đi học ở các trường Đức, người Việt phải học chung với các bạn quốc tế khác. Rất nhiều nước có lợi thế hơn, vì ngôn ngữ của họ cũng đa âm, ngữ pháp và từ gần giống tiếng Đức. Có những nước dùng tiếng Anh nên việc học tiếng Đức dễ hơn nhiều. Các nước ở châu Á gặp khó khăn hơn vì ngôn ngữ đơn âm, cấu trúc ngữ pháp khác, từ vựng khác. Đó cũng là một lý do nữa cản trở việc học ngoại ngữ Đức của người Việt chúng ta.
Cũng như muốn trị bệnh có hiệu quả, người ta dùng nhiều loại thuốc, muốn học tiếng Đức tốt cũng cần học đủ các môn: Nghe, đọc, dịch, viết, hội thoại, tóm tắt, diễn giải. Học viên cũng cần học đều đặn, học từ mới trong câu, và mạnh dạn nói chuyện với người Đức, xem TV Đức.
Tôi đã được một nhóm phóng viên hỏi về việc học tiếng Đức của người Việt. Tiện đây tôi trích đoạn hội thảo đó để người đọc tham khảo.
HỎI: Theo ông tiếng Đức có khó không?
ĐÁP: Người ta hay nói: “die deutsche Sprache ist eine schwere Sprache”, nhưng tôi nghĩ rằng, các ngôn ngữ đều có những đặc điểm giống nhau. Tức là học để giao dịch hàng ngày thì không khó, nhưng để thể hiện nhận xét, đánh giá và cảm xúc, thì ngôn ngữ nào cũng có cái khó của nó. Có thể nói rằng, tiếng Đức không khó, nhưng vượt qua chính mình để học nó là rất khó.
HỎI: Ông có thể nói cụ thể hơn một chút?
ĐÁP: Trước khi học tiếng Đức người ta phải xác định mục đích và đầu tư thời gian bao nhiêu để học, vì học tiếng Đức là học cả đời vẫn không đủ. Khi bạn đã xác định được mục đích học thì việc học đều đặn, ngày nào cũng học rất quan trọng, giống như bạn phải mở cửa hàng. Đó là điều rất khó thực hiện, vì học viên hay có lý do chính đáng (hôm nay mệt, hôm nay có khách, hôm nay có bóng đá…). Đó là cái khó của chuyện vượt qua chính mình.
HỎI: Giả sử có một người muốn học tiếng Đức từ đầu và có quyết tâm học thì anh ta phải bắt đầu như thế nào?
ĐÁP: Chúng ta không bàn chuyện học viên đăng ký học ở một trường người Đức tổ chức. Chúng ta chỉ bàn đến việc học của người muốn tự học, vì đa số người Việt phải tự đi làm kiếm sống trong giờ hành chính, ít có điều kiện tham gia học tiếng Đức đều đặn.
Gọi là tự học nhưng vẫn phải có thầy, ít nhất trong sáu tháng đầu. Người thầy sẽ dạy cách phát âm, sự khác nhau hai ngôn ngữ, phương pháp học…
Phải học đồng thời đọc, nghe, viết, nói, dịch. Tức là mắt nhìn, miệng đọc, tay viết. Học viên phải coi việc đọc chuẩn là quan trọng nhất, đây là cái yếu của người Việt (hay người châu Á nói chung). Người học phải có nhận xét về cấu trúc câu và giải thích được nó.
Chỉ có chép bài nhiều lần mới nhớ được từ và phải học từ trong một câu hoàn chỉnh chứ không nên học từ rời, khi lắp vào lại gặp khó khăn. Khi hiểu rồi, học thuộc lòng được thì tốt.
HỎI: Ông có thể hướng dẫn đọc tiếng Đức như thế nào cho đúng?
ĐÁP: Nói chung tiếng Đức viết thế nào thì đọc thế, ít trường hợp ngoại lệ. Cần phải tách ra từng âm tiết cho dễ đọc. Từ điển Đức – Đức (Deutsches Wörterbuch, Duden) có tách âm tiết giúp người đọc phát âm đúng, ví dụ fra-gen. Ge-sund-heit. Đọc „fra“ nghỉ một chút rồi mới đến „gen“. Những từ có một âm tiết dễ hơn: rot, blau, Ohr, Mond. Sau một thời gian, học viên sẽ quen và sẽ đọc đúng. Đối với người bắt đầu, việc dùng từ điển cũng không đơn giản, nên giai đoạn đầu họ nên dùng sổ từ (Glossar).
HỎI: Sự khác nhau giữa từ điển (Wörterbuch) và Sổ từ (Glossar) là ở chỗ nào?
ĐÁP: Glossar liên quan đến bài học cụ thể, cho biết nghĩa của từ này trong bài học đó chứ không mở rộng ra các văn cảnh khác. Còn trong từ điển phải tổng hợp tất cả các nghĩa của nó (có thể có minh họa bằng ví dụ). Trong nhiều tài liệu giáo khoa, sau mỗi chương có liệt kê từ mới. Đó là một phần Glossar.
HỎI: Nhiều người nói rằng, họ biết hết các từ trong câu nhưng không hiểu câu đó nói gì. Vấn đề nằm ở chỗ nào?
ĐÁP: Tiếng Đức cũng là một ngôn ngữ giàu hình ảnh, người viết thường dùng những thành ngữ để thể hiện quan điểm của mình. Ví dụ: Er möchte mit ihr tanzen, aber sie hat ihm einen Korb gegeben (Anh ta muốn nhảy với cô ấy, nhưng cô ta đã từ chối thẳng thừng), chứ không phải „Cô ta đã đưa cho anh này một cái giỏ“. Học viên phải làm quen với việc một từ có nhiều nghĩa phù hợp với văn cảnh.
Ví dụ từ die Leistung:
Der Motor hat eine Leistung von 2 KW. (Leistung: công suất)
Er bekommt Leistungen von Jobcenter. (Leistung: trợ cấp)
Note 2 ist seine gute Leistung bis jetzt. (Leistung: thành tích)
Die Leistungen von AOK sind… (Leistung: dịch vụ)
HỎI: Ông đánh giá như thế nào về việc học tiếng Đức của người Việt ở Đức?
ĐÁP: Tâm lý chung là ai cũng muốn mình biết và khá tiếng Đức. Sau thời gian đầu học họ nhận ra rằng, khó đạt quá, đầu tư nhiều thời gian quá mà chẳng biết có kết quả không. Vả lại họ thấy những người xung quanh có mấy ai bàn về đề tài này đâu, dần dần ý chí bị phai nhạt. Thỉnh thoảng cũng có những người đăng ký học tại các cơ sở của Volkhochschule nhưng không mấy ai theo đến cùng vì họ dạy nhanh và đòi hỏi về nhà phải dành vài tiếng cho việc học bài. Điều này quá sức đối với nhiều người Việt. Nhiều người thiếu kiên nhẫn, mới thấy hai buổi không hiểu là bỏ cuộc nên ít người có chứng chỉ. Nói tóm lại, đối với người Việt, việc học tiếng Đức là một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức.
HỎI: Được biết ông cũng tham gia vào việc dạy tiếng Đức cho người Việt. Ông có thể cho chúng tôi biết cụ thể hơn một chút không ạ?
ĐÁP: Tôi sang Đức từ năm 1988 và sống ở Sachsen hơn 20 năm. Tôi đã mở các lớp tiếng Đức cho người Việt Nam vào những ngày cuối tuần, vì họ không có điều kiện đi học ở trường Đức. Đặc điểm của các lớp học này là:
HỎI: Thế rồi ông đã tổ chức như thế nào?
ĐÁP: Trước hết là giáo trình. Nếu dùng giáo trình chính quy của Đức thì nhiều người cảm thấy khó, nên tôi soạn lại, chọn đề tài dạy cho phù hợp với tư duy của người Việt. Diễn giải ngữ pháp dùng cả hình ảnh cho dễ hiểu. Vì không có điều kiện luyện phát âm cho từng người, nên cả lớp đọc đồng thanh những câu đơn giản. Soạn những câu ví dụ tiêu biểu gần với sinh hoạt và làm việc của người Việt rồi khuyên họ học thuộc lòng, chép lại nhiều lần. Kinh nghiệm cho thấy, ai theo học đều đặn chừng một năm, người đó tạm hài lòng với vốn tiếng Đức của mình.
- Rất cám ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện này!
- Không có gì!
„Sống ở Đức thì phải biết tiếng Đức chứ!“, nghe câu này người ta cho là một mệnh đề có lý, là một lẽ đương nhiên. Trên thực tế, việc học tiếng của người Việt ở đất này là một cuộc chiến đấu đầy hy sinh và dai dẳng.
Thế nào là một người biết tiếng Đức?
Khái niệm một người biết tiếng Đức không khác gì khái niệm một người biết đá bóng. Có nghĩa là anh ta có thể tài nghệ như Messi, Ronaldo nhưng cũng có thể chỉ là một cầu thủ trong đội bóng làng. Nước Đức trở thành nước nhập cư từ 2005 chỉ vì dân số Đức ngày càng giảm do sinh đẻ ít (một phụ nữ Đức trung bình chỉ đẻ 1,4 con) và tuổi thọ lại tăng do mức sống và chăm sóc y tế tốt hơn. Ngoài ra hàng năm có mấy chục nghìn người Đức đi định cư ở nước ngoài với những lý so khác nhau. Dù muốn hay không, chính phủ Đức phải thực hiện chính sách này để có người lao động và đóng thuế cho an sinh xã hội.
Chính phủ Liên bang đưa ra tiêu chí về vấn đề học tiếng của người nước ngoài rất ngắn gọn: „FÖRDERN UND FORDERN“. Có nghĩa là họ tạo điều kiện khuyến khích để người nước ngoài học tiếng, nhưng đồng thời họ cũng đòi hỏi phải có kết quả, vì đó là nền tảng để hội nhập. Họ chi tiền mở thêm các khóa học và hoan nghênh người tham gia, song song với các trường Bổ túc văn hóa (Volkshochschule) có sẵn.
Những người Việt mới sang Đức hoặc chưa được học chính quy bao giờ đều có nguyện vọng tham gia, nhưng rất ít người theo được đến hết khóa, vì lớp học được tổ chức trong những ngày làm việc, mà người Việt ưu tiên đi làm hơn. Nguyên nhân thứ hai là tốc độ dạy và học nhanh, nhiều từ mới và phải làm bài tập về nhà đều đặn. Thầy giáo giải thích một khái niệm trừu tượng có khi mất gần 10 phút thông qua những ví dụ, nhưng học sinh chỉ hiểu mờ mờ dẫn đến căng thẳng.
Sau một thời gian ngắn, họ bỏ dần. Vả lại động cơ học của họ là „học cho biết“ chứ không bị một sức ép nào, nên không học cũng không sao, mọi người đều thế chứ riêng gì mình!
Đi học ở các trường Đức, người Việt phải học chung với các bạn quốc tế khác. Rất nhiều nước có lợi thế hơn, vì ngôn ngữ của họ cũng đa âm, ngữ pháp và từ gần giống tiếng Đức. Có những nước dùng tiếng Anh nên việc học tiếng Đức dễ hơn nhiều. Các nước ở châu Á gặp khó khăn hơn vì ngôn ngữ đơn âm, cấu trúc ngữ pháp khác, từ vựng khác. Đó cũng là một lý do nữa cản trở việc học ngoại ngữ Đức của người Việt chúng ta.
Cũng như muốn trị bệnh có hiệu quả, người ta dùng nhiều loại thuốc, muốn học tiếng Đức tốt cũng cần học đủ các môn: Nghe, đọc, dịch, viết, hội thoại, tóm tắt, diễn giải. Học viên cũng cần học đều đặn, học từ mới trong câu, và mạnh dạn nói chuyện với người Đức, xem TV Đức.
Tôi đã được một nhóm phóng viên hỏi về việc học tiếng Đức của người Việt. Tiện đây tôi trích đoạn hội thảo đó để người đọc tham khảo.
HỎI: Theo ông tiếng Đức có khó không?
ĐÁP: Người ta hay nói: “die deutsche Sprache ist eine schwere Sprache”, nhưng tôi nghĩ rằng, các ngôn ngữ đều có những đặc điểm giống nhau. Tức là học để giao dịch hàng ngày thì không khó, nhưng để thể hiện nhận xét, đánh giá và cảm xúc, thì ngôn ngữ nào cũng có cái khó của nó. Có thể nói rằng, tiếng Đức không khó, nhưng vượt qua chính mình để học nó là rất khó.
HỎI: Ông có thể nói cụ thể hơn một chút?
ĐÁP: Trước khi học tiếng Đức người ta phải xác định mục đích và đầu tư thời gian bao nhiêu để học, vì học tiếng Đức là học cả đời vẫn không đủ. Khi bạn đã xác định được mục đích học thì việc học đều đặn, ngày nào cũng học rất quan trọng, giống như bạn phải mở cửa hàng. Đó là điều rất khó thực hiện, vì học viên hay có lý do chính đáng (hôm nay mệt, hôm nay có khách, hôm nay có bóng đá…). Đó là cái khó của chuyện vượt qua chính mình.
HỎI: Giả sử có một người muốn học tiếng Đức từ đầu và có quyết tâm học thì anh ta phải bắt đầu như thế nào?
ĐÁP: Chúng ta không bàn chuyện học viên đăng ký học ở một trường người Đức tổ chức. Chúng ta chỉ bàn đến việc học của người muốn tự học, vì đa số người Việt phải tự đi làm kiếm sống trong giờ hành chính, ít có điều kiện tham gia học tiếng Đức đều đặn.
Gọi là tự học nhưng vẫn phải có thầy, ít nhất trong sáu tháng đầu. Người thầy sẽ dạy cách phát âm, sự khác nhau hai ngôn ngữ, phương pháp học…
Phải học đồng thời đọc, nghe, viết, nói, dịch. Tức là mắt nhìn, miệng đọc, tay viết. Học viên phải coi việc đọc chuẩn là quan trọng nhất, đây là cái yếu của người Việt (hay người châu Á nói chung). Người học phải có nhận xét về cấu trúc câu và giải thích được nó.
Chỉ có chép bài nhiều lần mới nhớ được từ và phải học từ trong một câu hoàn chỉnh chứ không nên học từ rời, khi lắp vào lại gặp khó khăn. Khi hiểu rồi, học thuộc lòng được thì tốt.
HỎI: Ông có thể hướng dẫn đọc tiếng Đức như thế nào cho đúng?
ĐÁP: Nói chung tiếng Đức viết thế nào thì đọc thế, ít trường hợp ngoại lệ. Cần phải tách ra từng âm tiết cho dễ đọc. Từ điển Đức – Đức (Deutsches Wörterbuch, Duden) có tách âm tiết giúp người đọc phát âm đúng, ví dụ fra-gen. Ge-sund-heit. Đọc „fra“ nghỉ một chút rồi mới đến „gen“. Những từ có một âm tiết dễ hơn: rot, blau, Ohr, Mond. Sau một thời gian, học viên sẽ quen và sẽ đọc đúng. Đối với người bắt đầu, việc dùng từ điển cũng không đơn giản, nên giai đoạn đầu họ nên dùng sổ từ (Glossar).
HỎI: Sự khác nhau giữa từ điển (Wörterbuch) và Sổ từ (Glossar) là ở chỗ nào?
ĐÁP: Glossar liên quan đến bài học cụ thể, cho biết nghĩa của từ này trong bài học đó chứ không mở rộng ra các văn cảnh khác. Còn trong từ điển phải tổng hợp tất cả các nghĩa của nó (có thể có minh họa bằng ví dụ). Trong nhiều tài liệu giáo khoa, sau mỗi chương có liệt kê từ mới. Đó là một phần Glossar.
HỎI: Nhiều người nói rằng, họ biết hết các từ trong câu nhưng không hiểu câu đó nói gì. Vấn đề nằm ở chỗ nào?
ĐÁP: Tiếng Đức cũng là một ngôn ngữ giàu hình ảnh, người viết thường dùng những thành ngữ để thể hiện quan điểm của mình. Ví dụ: Er möchte mit ihr tanzen, aber sie hat ihm einen Korb gegeben (Anh ta muốn nhảy với cô ấy, nhưng cô ta đã từ chối thẳng thừng), chứ không phải „Cô ta đã đưa cho anh này một cái giỏ“. Học viên phải làm quen với việc một từ có nhiều nghĩa phù hợp với văn cảnh.
Ví dụ từ die Leistung:
Der Motor hat eine Leistung von 2 KW. (Leistung: công suất)
Er bekommt Leistungen von Jobcenter. (Leistung: trợ cấp)
Note 2 ist seine gute Leistung bis jetzt. (Leistung: thành tích)
Die Leistungen von AOK sind… (Leistung: dịch vụ)
HỎI: Ông đánh giá như thế nào về việc học tiếng Đức của người Việt ở Đức?
ĐÁP: Tâm lý chung là ai cũng muốn mình biết và khá tiếng Đức. Sau thời gian đầu học họ nhận ra rằng, khó đạt quá, đầu tư nhiều thời gian quá mà chẳng biết có kết quả không. Vả lại họ thấy những người xung quanh có mấy ai bàn về đề tài này đâu, dần dần ý chí bị phai nhạt. Thỉnh thoảng cũng có những người đăng ký học tại các cơ sở của Volkhochschule nhưng không mấy ai theo đến cùng vì họ dạy nhanh và đòi hỏi về nhà phải dành vài tiếng cho việc học bài. Điều này quá sức đối với nhiều người Việt. Nhiều người thiếu kiên nhẫn, mới thấy hai buổi không hiểu là bỏ cuộc nên ít người có chứng chỉ. Nói tóm lại, đối với người Việt, việc học tiếng Đức là một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức.
HỎI: Được biết ông cũng tham gia vào việc dạy tiếng Đức cho người Việt. Ông có thể cho chúng tôi biết cụ thể hơn một chút không ạ?
ĐÁP: Tôi sang Đức từ năm 1988 và sống ở Sachsen hơn 20 năm. Tôi đã mở các lớp tiếng Đức cho người Việt Nam vào những ngày cuối tuần, vì họ không có điều kiện đi học ở trường Đức. Đặc điểm của các lớp học này là:
a) Lứa tuổi rất khác nhau, tức là hai thế hệ cùng học với nhau.
b) Trình độ khác nhau: Có người đã tốt nghiệp đại học, có người mới học hết lớp 9 ở VN.
c) Trình độ ngôn ngữ của học viên cũng khác nhau: có người đã khá tiếng Anh, có người viết một tờ trình đơn giản nhưng vẫn gặp khó khăn.
d) Có người đã sống ở Đức lâu, có người mới sang. Đi học đều đặn cũng là một vấn đề cần nói.
Đó là những thách thức rất lớn đối với thày giáo và học viên.HỎI: Thế rồi ông đã tổ chức như thế nào?
ĐÁP: Trước hết là giáo trình. Nếu dùng giáo trình chính quy của Đức thì nhiều người cảm thấy khó, nên tôi soạn lại, chọn đề tài dạy cho phù hợp với tư duy của người Việt. Diễn giải ngữ pháp dùng cả hình ảnh cho dễ hiểu. Vì không có điều kiện luyện phát âm cho từng người, nên cả lớp đọc đồng thanh những câu đơn giản. Soạn những câu ví dụ tiêu biểu gần với sinh hoạt và làm việc của người Việt rồi khuyên họ học thuộc lòng, chép lại nhiều lần. Kinh nghiệm cho thấy, ai theo học đều đặn chừng một năm, người đó tạm hài lòng với vốn tiếng Đức của mình.
- Rất cám ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện này!
- Không có gì!
-Nguyễn Thế Tuyền-

