Nơi giam giữ cái đầu sọ Nguyễn Huệ, Quang Bình nay ở đâu?

Chien-tranh-Tay-Son-Nguyen-.jpg
Theo tài liệu lịch sử, ghi chép, ngày 3.5 năm Tân Dậu (1801), đại đồn của Tây Sơn ở núi Linh Thái, bên cửa Tư Hiền (nay thuộc H.Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế), do phò mã Trị chỉ huy, bị tấn công trực diện, từ sáng đến chiều, bất phân thắng bại.

Đợi đêm đến, Tả quân Lê Văn Duyệt cho kỳ binh bí mật vác thuyền nhẹ và khí giới vượt qua các làng dọc bờ biển gần cửa Tư Hiền, vào phá Hà Trung, đánh bọc hậu, đại quân Tây Sơn phòng thủ ở núi Linh Thái bị thua, phò mã Trị bị bắt sống... Vua tôi Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản đang đưa quân rời thành Phú Xuân, về mặt đông để tiếp ứng, hoảng hốt chạy ra bắc, không kịp mang ấn An Nam quốc vương và nhiều ấn tín khác...

Sáng hôm sau, ngày 4.5 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh vào thành Phú Xuân, kinh đô nhà Tây Sơn chính thức thất thủ.

Trở lại Phú Xuân hỏi chuyện và chứng kiến cảnh lăng mộ các chúa Nguyễn bị Tây Sơn quật phá, vứt hài cốt xuống sông, trong đó có mộ của Nguyễn Phúc Luân (thân phụ của Nguyễn Vương), Nguyễn Vương càng đau lòng và căm hận Tây Sơn. Hầu như lăng mộ các chúa và các bà vợ của các chúa đều phải làm phép “chiêu hồn nhập xác” vào “hài cốt giả”, tạo bởi “gáo dừa, rễ dâu”. Chỉ có “hoa cái” của Nguyễn Phúc Luân là do cha con ông Nguyễn Ngọc Huyên, người làng Cư Hóa, vớt được và bí mật táng lại.

Cuoc-hanh-quan-khong-tuong-cua-100000-nghia-si-Tay-Son-quang-trung-01-1560757480-width500height330.jpg

Theo quốc sử triều Nguyễn như Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam thực lục chính biên, Quốc sử di biên…, việc trả thù nhà Tây Sơn của vua Gia Long diễn ra từ tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đến tháng 11 Nhâm Tuất (1802). Đặc biệt qua một nguồn sử liệu khác là thư của các nhân chứng phương Tây của giai đoạn ấy, như lá thư của Barisy gửi Marquini và Letondal ngày 16.7.1801 có thể biết được trong hơn một tháng kể từ ngày 2.5 năm Tân Dậu (12.6.1801) đến ngày 6.6 Tân Dậu (16.7.1801) Nguyễn Vương đã bắt giam một số tướng lĩnh Tây Sơn cùng thân nhân của họ.

Trong thư của Barisy có đoạn: “1801. Ngày 15.6 (4.5 Tân Dậu)… Người lại bảo tôi đi xem em gái của kẻ tiếm vị. Tôi đến đấy, các cô đều ở trong một phòng hẹp tối tăm chẳng lịch sự gì… Các phu nhân ấy gồm 5 vị: một người 16 tuổi mà theo tôi là rất đẹp, một cô nhỏ 12 tuổi là con gái của công chúa Bắc Hà nhan sắc tầm thường, 3 cô khác tuổi từ 16 đến 18 da hơi nâu nhưng khuôn mặt khả ái... Các tướng địch cấp bậc nhỏ hơn có từ 3.500 đến 4.000 người đều bị đóng gông…”.

Nguyễn Vương sau khi bắt giam tướng tá Tây Sơn cùng thân quyến đã cho quật mồ vợ chồng Nguyễn Huệ nhưng phải đợi đến tháng 11 năm Tân Dậu mới chính thức xử tội nhà Tây Sơn, thông cáo cho đại chúng, nhất là ở Gia Định, biết.

Sau vài ngày bị bêu, thi thể của hai vợ chồng vua Quang Trung lại bị giam giữ ở Nhà Đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) khoảng một năm mới đem trị tội tiếp trong lễ Hiến Phù.

Việc vua Gia Long trả thù nhà Tây Sơn và đưa “hoa cái” của 3 vị vua vào giam trong ngục thất được lý giải và mô tả qua bức thư của giáo sĩ Bissachèrre, như sau:
“Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn. Trước hết người ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ vua chết đã mười, mười hai năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần của vua đều bị quật lên. Người ta sắp các xương của Quang Trung, cha vua và các xương của mẹ vua... rồi người ta theo lệ bề ngoài chém cổ để làm sỉ nhục, và nhất là để các xương đó không còn sinh phúc cho con cháu, theo tục mê tín của người trong xứ. Rồi tất cả xương được dồn vào trong một cái giỏ lớn để binh sĩ đến tiểu tiện vào. Xong, người ta nghiền xương thành bột, bỏ vào một giỏ khác đặt trước vua trẻ Tây Sơn để làm cho vua đó đau khổ.
Bấy giờ người ta dọn cho vua một bữa tiệc khá long trọng, chiếu theo tục trong xứ đối với những kẻ sắp bị tử hình. Em vua (tức Quang Thiệu) can đảm hơn vua, thấy vua ăn thì trách và bởi vì mâm người ta dọn đồ ăn bưng tới đó có những đặc điểm có ý tôn trọng chức vua, nên ông nói: “Nhà mình thiếu gì mâm, cần gì phải ăn mâm mướn”.
Ăn xong, người ta nhét giẻ vào miệng vua và nhiều người khác để họ khỏi chửi mắng vua mới, đoạn trói chân tay vào bốn voi để cho voi xé. Một con voi đã kéo nát đùi và lòi gân vua ra, nhưng vua còn quay về cái giỏ chứa xương cha mẹ vua. Lý Hình dùng một con dao để phanh các phần còn dính lại với nhau ra làm bốn phần, cộng với cái đùi đã xé ra nữa là năm. Người ta đem bêu các phần đó lên, ở đầu một cái cọc cao, tại năm chợ đông người hơn trong đô thành. Các cọc đó được canh giữ ngày đêm và người ta dọa phạt nặng những ai làm mất đi; nhưng phải để vậy cho thối ra hoặc cho quạ ăn...”.
Theo chính sử, vua Gia Long sau khi có những thao tác “tận pháp trừng trị” lên hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và thân xác của Nguyễn Quang Toản, đã chừa lại ba “hoa cái” của 3 “tiếm vương” Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Toản, bỏ vào 3 cái vò (nên người ta quen gọi là Ông Vò), đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam vĩnh viễn tội phạm trong Nhà đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) vào tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802).



Vậy Vũ Khố ở đâu? Đại Nam nhất thống chí chép: “Vũ Khố. Ở địa phần phường Liêm Năng về phía tây kinh thành. Phía trước có một công trường và một sở chi thu, phía sau có 10 kho. Lệ đặt một viên thị lang trông coi, thuộc viên có lang trung, viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ và thơ lại thuộc ty. Trước gọi là Ngoại đồ gia, năm Minh Mệnh thứ 1 đổi tên hiện nay; phía bắc là sở Vũ Khố đốc công, quan chức có viên giám đốc; từ viên ngoại lang trở xuống thì do bộ Công thống lãnh”.
Theo những mô tả trong sử sách thì địa điểm Vũ Khố nay thuộc khuôn viên Trường đại học Nông Lâm, Đại học Huế. Di vật của Vũ Khố chỉ còn cái giếng cổ ở trung tâm của trường, dưới gốc cổ thụ và một viên đá kê cột nằm trước cổng trường.
 
Dời “Ông Vò” vào Khám đường

Ba cái vò giam ba “hoa cái” của ba tiếm vương, cùng với mộc chủ, bị giam ở Vũ Khố (tiền thân là Nhà đồ ngoại) từ năm 1802 - 1822. Mãi đến năm 1822 vua Minh Mạng mới ra lệnh đưa 3 cái vò (thường gọi là “Ông Vò”) vào giam ở Khám đường.

Theo linh mục Pháp J.B.Roux, Giáo sư Nguyễn Đình Hòe, nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì khám đường nay ở P.Tây Lộc (TP.Huế), góc tây nam của phòng thành Huế. Thời Gia Long, nó được gọi là Ngục Thất. Chính vua Minh Mạng, vào năm trị vì thứ 6 (1825), đã đổi tên Ngục Thất (nhà tạm giam) thành Khám đường (phòng xét xử) và tên chính thức trở thành Khám đường Ngục Thất.


Xưa P.Tây Lộc là nơi có đồng ruộng, ao hồ, đầm lầy, chuyên sản xuất nông nghiệp, phục vụ một phần lương thực cho triều đình và cư dân sống trong phòng thành, để đề phòng khi xảy ra chiến tranh, phòng thành bị vây hãm. Khu vực này hình vuông, trong đó có 3 góc là góc tây nam của phòng thành, cửa An Hòa, cửa Chánh Tây. Khám đường ở giữa vùng này, hồ bao bọc chung quanh, chỉ một cửa để ra vào. Khám đường có một số dãy nhà để giam tội nhân, đặc biệt có phòng giam ba cái vò đựng ba “sọ đầu” của nhà Tây Sơn. Chủ ngục, lính canh ngục và các tù nhân đã bí mật lập bàn thờ để thờ ba “Ông Vò”, nhằm cầu đảo khi gặp tai ương… Từ năm 1822 - 1885, hằng tháng đều có ban kiểm tra của triều đình đến Khám đường để kiểm soát ba cái vò nói trên. Hiện nay phần đất của Khám đường đã dựng Trường tiểu học Tây Lộc. Di vật của Khám đường là vài viên đá kê cột lộ thiên, trong đó một viên đá kê cột to, còn hai viên đá kê cột nhỏ.

Các nhà nghiên cứu cho rằng Khám đường có từ thời Gia Long, lúc vua quy hoạch ranh giới cho phòng thành Huế, nghĩa là từ năm 1804. Tuy nhiên, qua kiểu thức và chất liệu của hai viên đá kê cột, gạch bìa... của Khám đường mới phát hiện, có thể thấy Ngục Thất này được xây dựng từ thời chúa Nguyễn. Triều Nguyễn sử dụng Khám đường cho tới khoảng năm 1900. Vào đầu năm 1899, vẫn còn một số tù nhân ở đó.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Hòe, Phan Thuận An, Đỗ Bang, Phan Quán… qua những công trình đã công bố từ 1975 - 1988 cho biết đêm 22 rạng 23.5 năm Ất Dậu (1885) trong biến cố thất thủ kinh đô, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành… có người mang 2 trong 3 “Ông Vò” theo đoàn quân. Riêng một “Ông Vò” (“hoa cái” vua Quang Trung) được một ông quan võ, trông coi Khám đường, “giải cứu” và mang đi. Tuy nhiên, người quan võ có ân tình bí mật đưa “hoa cái” vua Quang Trung ra khỏi Khám đường ấy đã đi đâu và cất giấu “Ông Vò” ở đâu vẫn là một bí ẩn.
 

Có thể bạn quan tâm

Top