Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Vì nó sợ bị réo tên cha mẹ đặt chửi chứ có mẹ gì?
Trịnh Khắc Mạnh
Thời xưa, ở Trung Quốc, tầng lớp quí tộc quan lại, ngoài họ tên chính thức do ông, bà, cha, mẹ đặt cho; khi lớn lên người ta thường đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu.
Sách Từ nguyên mục Danh tự giải thích: “古 代 貴 族 始 生 有 名, 二 十 歲 成 人, 行 冠 禮 又 加 字, 合 稱 名 字. 後 來 在 字 之 外, 又 有 號, 合 稱 名 號. 自 稱 用 名, 別 人 為 表 示 禮 敬, 用 自 或 號 相 稱. 參 閱 禮 檀 弓 上: “幼 名, 冠 字”. Phiên âm: Cổ đại quí tộc thủy sinh hữu danh, nhị thập tuế thành nhân, hành quán lễ hựu gia tự, hợp xưng danh tự. Hậu lai tại tự chi ngoại, hựu hữu hiệu, hợp xưng danh hiệu. Tự xưng dụng danh, biệt nhân vi biểu thị lễ kính, dụng tự hoặc hiệu tương xưng. Tham duyệt Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự”. Dịch nghĩa: Tầng lớp quí tộc thời xưa khi mới sinh thì đặt tên (danh), hai mươi tuổi trưởng thành thì làm lễ đội mũ và đặt thêm tên chữ (tự), gọi chung là danh tự. Về sau ngoài tên tự lại đặt hiệu, gọi chung là danh hiệu. Tên (danh) dùng để tự xưng, còn người khác muốn biểu thị sự tôn kính người mình gọi, thường gọi bằng tên tự hoặc tên hiệu. Xem Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự”). Và mục Tựgiải thích: “禮 曲 禮 上: “男 子 二 十 冠 而 字 ”. 儀 禮 士 冠 禮: “冠 而 字 之, 敬 其 名 也 ”. 禮 檀 弓 上 “幼 名, 冠 字, … 周 道 也”. 疏: “人 年 二 十, 有 為 人 父 之 道, 朋 友 等 類, 不 可 覆 呼 其 名, 故 冠 而 加 字 ”. (Phiên âm: Lễ, Khúc lễ thượng: “Nam tử nhị thập quán nhi tự”. Nghi lễ, Sĩ quan lễ: “Quán nhi tự chi, kính kỳ danh dã”. Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự… Chu đạo dã”. Sớ: “Nhân niên nhị thập, hữu vi nhân phụ chi đạo, bằng hữu đẳng loại, bất khả phúc hô kỳ danh, cố quán nhi gia tự”. Dịch nghĩa: Thiên Khúc lễ thượng sách Lễ ký chép: “Con trai hai mươi tuổi thì đội mũ và đặt tên tự”. Mục Sĩ quan lễ sách Nghi lễ chép: “Đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự, là để tỏ ý kính trọng đối với danh”. Thiên Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự… đó là phép của nhà Chu”. Giải thích thêm: “Con người khi đến hai mươi tuổi là đã có đủ tư cách làm cha, khi đó bạn bè cùng lứa, không được gọi bằng tên (danh) nữa, cho nên khi đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự”).
Như vậy, người đời xưa thường có tên (danh), có tên chữ (tự) và có tên hiệu (hiệu), có người lại có cả biệt hiệu nữa. Việc đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu ban đầu được sử dụng trong tầng lớp quí tộc; sau này được mở rộng, không chỉ có ở tầng lớp quí tộc mà cả các tầng lớp khác trong xã hội, như: quan lại, nho Sĩ, các bậc tao nhân mặc khách, v.v…
Tên (danh) là tên riêng do ông, bà, cha, mẹ đặt cho. Việc đặt tên cũng có những phép tắc nhất định, như thời nhà Chu, cách đặt tên của tầng lớp quí tộc được qui định: trẻ nhỏ thường phải sau khi sinh ra được 1 tháng hoặc 100 ngày mới được đặt tên (danh). Thời cổ đại, tên người (danh) thường được đặt đơn giản và người ta lấy can chi đặt làm danh, đó có thể là có liên quan đến sự coi trọng thời gian của người đương thời. Sau này, theo sự phát triển của văn hóa và ngôn ngữ văn tự, tên người ngày càng được đặt một cách phong phú hơn. Hoặc có người lại cố tình đặt cho con những tên xấu để cho phù hợp với sự quan niệm là dễ nuôi và không bị chết yểu.
Tên chữ (tự) thường là giải thích và bổ sung cho danh, giữa danh và tự có mối liên hệ chặt chẽ về ý nghĩa, biểu thị sự hô ứng và bổ sung cho danh, nên còn được gọi là biểu tự. Tên tự được đặt khi đã thành niên và thường do cha mẹ hoặc bề trên đặt cho, cũng có khi do chính bản thân tự đặt. Việc đặt tên tự là chứng tỏ người đó bắt đầu được mọi người trong xã hội công nhận và tôn trọng. Khi đặt tên tự, người ta thường căn cứ vào danh để chọn từ tương ứng mang ý nghĩa liên quan và phụ trợ cho danh, như: Gia Cát Lượng 諸 葛 亮 nhà Thục thời Tam quốc, tự là Khổng Minh 孔 明 (lượng là sáng còn khổng minh là rất sáng); Bao Chửng 包 拯 thời Bắc Tống, tự là Hy Nhân 希 仁 (chửng là cứu giúp còn hy nhân là mong làm điều nhân), v.v… Có trường hợp tự và danh được lấy câu chữ trong cổ thư, như Tào Tháo 曹 操 nhà Hán thời Tam quốc, tự là Mạnh Đức 孟 德 lấy từ câu trong Tuân Tử:“phù thị chi vị đức tháo” (dịch nghĩa: đó là phẩm hạnh của đức), v.v. Lại có người lấy tên tự ngược hẳn nghĩa với danh, như: Chu Hy 周 熹 đời Tống, tự là Nguyên Hối 元 晦 và Trọng Hối 重 晦, hiệu là Hối Am 晦 菴 (hy là sáng còn hối là tối), v.v. Ngoài ra, còn có tiểu tự, tức nhũ danh (tên gọi khi còn bú mẹ), như: Tào Tháo có tiểu tự là A Man, Lưu Thiện có tiểu tự là A Đẩu, v.v…
Danh và tự của người xưa còn được dùng để chỉ quan hệ thứ bậc trong gia tộc, biểu thị anh em trong gia đình, và người ta thường có thêm chữ bá (mạnh) là lớn, trọng là thứ hai, thúc là em, quý là út; như Bá Di 伯 夷, Thúc Tề 叔 齊, Trọng Hối 重 晦, Mạnh Đức 孟 德, v.v..
Tên hiệu (hiệu) là tên gọi được đặt khi người ta đã thực sự trưởng thành, các sĩ phu và văn nhân thời phong kiến thường có tên hiệu hoặc biệt hiệu của mình, như: Lý Bạch 李 白 thời Đường lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ 青 蓮 居 士, Đỗ Phủ 杜 甫 thời Đường lấy hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão 少 陵 野 老, Vương An Thạch 王 安 石 thời Tống lấy hiệu là Bán Sơn 半 山, v.v… Tên hiệu là do người sử dụng tự đặt, không hề bị chi phối bởi gia tộc, thứ bậc trong gia đình. Thông qua việc đặt tên hiệu, hoặc biệt hiệu, người ta có thể tự do gửi gắm tư tưởng và tình cảm, biểu lộ chí hướng và hoài bão, thể hiện sở thích của mình trong cuộc sống. Việc đặt tên hiệu hoặc biệt hiệu đôi khi còn để mang dấu ấn địa phương, quê hương bản quán của mình. Một người có thể thay đổi khá nhiều tên hiệu hoặc biệt hiệu, và thông qua sự thay đổi này có thể hiểu được quan niệm sống, tâm tư tình cảm và tư tưởng của người đó trong cuộc sống ở các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng có người chọn hiệu hoặc biệt hiệu chỉ là học đòi làm sang, chứ không hề phù hợp với thân thế và sự nghiệp của họ chút nào.
Nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Việt Nam vào thời kỳ phong kiến, các nhà Nho, nhà thơ, nhà văn, hàng ngũ quan lại, ngoài tên (danh) ra cũng đặt tên tự và tên hiệu hoặc biệt hiệu, dựa theo những nguyên tắc của Trung Hoa. Có thể kể như:
Ngô Tuấn 吳 俊 (1019-1105), người thành Thăng Long (nay là Tp. Hà Nội). Ông vốn họ Ngô, tự là Thường Kiệt 常 桀, sau được ban quốc tính họ Lý 李 nên thường được gọi là Lý Thường Kiệt 李 常 桀. Danh và tự của Lý Thường Kiệt hoàn toàn hỗ trợ cho nhau (tuấn là tài hoa hơn người còn kiệt là tài năng xuất chúng). Lý Thường Kiệt là vị anh hùng dân tộc có công trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt trong việc đánh quân Tống và bình quân Chiêm. Ông làm quan trải ba triều vua: Lý Thái Tông, Lý Anh Tông và Lý Nhân Tông. Vua Lý Nhân Tông ban cho ông hiệu “Thiên tử nghĩa đệ”.
Chu Văn An 朱 文 安 (1292- 1370), người xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội), ông thi đỗ Thái học sinh, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học và học trò theo ông rất đông. Đời vua Trần Minh Tông, ông mới ra nhận chức Tu nghiệp Quốc tử giám, dạy học cho Thái tử. Đời vua Trần Dụ Tông, nhà vua ăn chơi sa đọa, gian thần lộng quyền tham nhũng, tình hình chính trị xã hội sa sút. Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy tên lộng thần, nhưng nhà vua không nghe, ông liền xin từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Để nói lên đặc điểm nhân cách của mình, Chu Văn An đã lấy tự là Linh Triệt 靈 徹, lấy tên hiệu là Tiều ẩn 樵 隱 và Khang Tiết Tiên sinh 康 節 先 生.
Trần Nguyên Đán 陳 元 旦 (1325 -1390), người xã Tức Mặc, lộ Thiên Trường (nay thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định). Ông là cháu của Trần Quang Khải, là ông ngoại Nguyễn Trãi và từng được bổ nhiệm làm quan theo quy chế tập chức, vì thuộc dòng họ tôn thất nhà Trần. Đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), ông có công trong việc dẹp loạn Dương Nhật Lễ và được thăng chức Tư đồ phụ chính. Đời vua Trần Phế Đế (1377-1388), khi Hồ Quý Ly tiếm quyền ông xin về hưu ở ẩn tại núi Côn Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Trần Nguyên Đán đã lấy hiệu là Băng Hồ 冰 壺 để lấy ý trong câu thơ Đường “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (dịch nghĩa: một tấm lòng trong trắng trong bình ngọc) để thể hiện tấm lòng của mình đối với nhà Trần.
Nguyễn Trãi 阮 廌 (1380 – 1442), người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán và là con của Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất nhà Hồ (1400), từng giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi giặc Minh xâm lược nước ta ông cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh. Trong mười năm kháng chiến gian khổ, ông đã giúp Lê Lợi mưu kế về quân sự và ngoại giao. Chính ông đã thay Lê Lợi thảo những thư từ giao dịch với tướng nhà Minh, tập hợp thư từ ấy gọi là Quân trung từ mệnh. Lúc giặc Minh thua trận xin đầu hàng, ông lại thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tuyên bố với nhân dân trong cả nước biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh toàn thắng. Vì có công trong cuộc kháng chiến cứu nước, ông được vua Lê Thái Tổ cho theo họ Lê (vì thế còn gọi là Lê Trãi) và phong tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước, ông đã giúp vua Lê Thái Tổ xây dựng chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao…. Sau khi vua Lê Thái Tổ mất, ông bị các phe cánh trong triều dèm pha nên phải xin về nghỉ ở Côn Sơn. Sau ông được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan và tin dùng. Khi vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, Hải Dương, chẳng may mất ở Lệ Chi Viên (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), Nguyễn Trãi bị triều thần khép tội là đã sai nàng hầu (Nguyễn Thị Lộ) giết vua, nên ông và cả ba họ đều bị giết. Đến đời vua Lê Thánh Tông nỗi oan của ông mới được xét rõ, ông được truy phong quan tước cũ. Ông có hiệu là ức Trai 抑 齋.

Trịnh Khắc Mạnh
Thời xưa, ở Trung Quốc, tầng lớp quí tộc quan lại, ngoài họ tên chính thức do ông, bà, cha, mẹ đặt cho; khi lớn lên người ta thường đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu.
Sách Từ nguyên mục Danh tự giải thích: “古 代 貴 族 始 生 有 名, 二 十 歲 成 人, 行 冠 禮 又 加 字, 合 稱 名 字. 後 來 在 字 之 外, 又 有 號, 合 稱 名 號. 自 稱 用 名, 別 人 為 表 示 禮 敬, 用 自 或 號 相 稱. 參 閱 禮 檀 弓 上: “幼 名, 冠 字”. Phiên âm: Cổ đại quí tộc thủy sinh hữu danh, nhị thập tuế thành nhân, hành quán lễ hựu gia tự, hợp xưng danh tự. Hậu lai tại tự chi ngoại, hựu hữu hiệu, hợp xưng danh hiệu. Tự xưng dụng danh, biệt nhân vi biểu thị lễ kính, dụng tự hoặc hiệu tương xưng. Tham duyệt Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự”. Dịch nghĩa: Tầng lớp quí tộc thời xưa khi mới sinh thì đặt tên (danh), hai mươi tuổi trưởng thành thì làm lễ đội mũ và đặt thêm tên chữ (tự), gọi chung là danh tự. Về sau ngoài tên tự lại đặt hiệu, gọi chung là danh hiệu. Tên (danh) dùng để tự xưng, còn người khác muốn biểu thị sự tôn kính người mình gọi, thường gọi bằng tên tự hoặc tên hiệu. Xem Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự”). Và mục Tựgiải thích: “禮 曲 禮 上: “男 子 二 十 冠 而 字 ”. 儀 禮 士 冠 禮: “冠 而 字 之, 敬 其 名 也 ”. 禮 檀 弓 上 “幼 名, 冠 字, … 周 道 也”. 疏: “人 年 二 十, 有 為 人 父 之 道, 朋 友 等 類, 不 可 覆 呼 其 名, 故 冠 而 加 字 ”. (Phiên âm: Lễ, Khúc lễ thượng: “Nam tử nhị thập quán nhi tự”. Nghi lễ, Sĩ quan lễ: “Quán nhi tự chi, kính kỳ danh dã”. Lễ, Đàn cung thượng: “Ấu danh, quán tự… Chu đạo dã”. Sớ: “Nhân niên nhị thập, hữu vi nhân phụ chi đạo, bằng hữu đẳng loại, bất khả phúc hô kỳ danh, cố quán nhi gia tự”. Dịch nghĩa: Thiên Khúc lễ thượng sách Lễ ký chép: “Con trai hai mươi tuổi thì đội mũ và đặt tên tự”. Mục Sĩ quan lễ sách Nghi lễ chép: “Đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự, là để tỏ ý kính trọng đối với danh”. Thiên Đàn cung thượng sách Lễ ký chép: “Khi còn nhỏ thì đặt tên (danh), khi đến tuổi đội mũ thì đặt tự… đó là phép của nhà Chu”. Giải thích thêm: “Con người khi đến hai mươi tuổi là đã có đủ tư cách làm cha, khi đó bạn bè cùng lứa, không được gọi bằng tên (danh) nữa, cho nên khi đến tuổi đội mũ thì đặt tên tự”).
Như vậy, người đời xưa thường có tên (danh), có tên chữ (tự) và có tên hiệu (hiệu), có người lại có cả biệt hiệu nữa. Việc đặt tên tự, tên hiệu và biệt hiệu ban đầu được sử dụng trong tầng lớp quí tộc; sau này được mở rộng, không chỉ có ở tầng lớp quí tộc mà cả các tầng lớp khác trong xã hội, như: quan lại, nho Sĩ, các bậc tao nhân mặc khách, v.v…
Tên (danh) là tên riêng do ông, bà, cha, mẹ đặt cho. Việc đặt tên cũng có những phép tắc nhất định, như thời nhà Chu, cách đặt tên của tầng lớp quí tộc được qui định: trẻ nhỏ thường phải sau khi sinh ra được 1 tháng hoặc 100 ngày mới được đặt tên (danh). Thời cổ đại, tên người (danh) thường được đặt đơn giản và người ta lấy can chi đặt làm danh, đó có thể là có liên quan đến sự coi trọng thời gian của người đương thời. Sau này, theo sự phát triển của văn hóa và ngôn ngữ văn tự, tên người ngày càng được đặt một cách phong phú hơn. Hoặc có người lại cố tình đặt cho con những tên xấu để cho phù hợp với sự quan niệm là dễ nuôi và không bị chết yểu.
Tên chữ (tự) thường là giải thích và bổ sung cho danh, giữa danh và tự có mối liên hệ chặt chẽ về ý nghĩa, biểu thị sự hô ứng và bổ sung cho danh, nên còn được gọi là biểu tự. Tên tự được đặt khi đã thành niên và thường do cha mẹ hoặc bề trên đặt cho, cũng có khi do chính bản thân tự đặt. Việc đặt tên tự là chứng tỏ người đó bắt đầu được mọi người trong xã hội công nhận và tôn trọng. Khi đặt tên tự, người ta thường căn cứ vào danh để chọn từ tương ứng mang ý nghĩa liên quan và phụ trợ cho danh, như: Gia Cát Lượng 諸 葛 亮 nhà Thục thời Tam quốc, tự là Khổng Minh 孔 明 (lượng là sáng còn khổng minh là rất sáng); Bao Chửng 包 拯 thời Bắc Tống, tự là Hy Nhân 希 仁 (chửng là cứu giúp còn hy nhân là mong làm điều nhân), v.v… Có trường hợp tự và danh được lấy câu chữ trong cổ thư, như Tào Tháo 曹 操 nhà Hán thời Tam quốc, tự là Mạnh Đức 孟 德 lấy từ câu trong Tuân Tử:“phù thị chi vị đức tháo” (dịch nghĩa: đó là phẩm hạnh của đức), v.v. Lại có người lấy tên tự ngược hẳn nghĩa với danh, như: Chu Hy 周 熹 đời Tống, tự là Nguyên Hối 元 晦 và Trọng Hối 重 晦, hiệu là Hối Am 晦 菴 (hy là sáng còn hối là tối), v.v. Ngoài ra, còn có tiểu tự, tức nhũ danh (tên gọi khi còn bú mẹ), như: Tào Tháo có tiểu tự là A Man, Lưu Thiện có tiểu tự là A Đẩu, v.v…
Danh và tự của người xưa còn được dùng để chỉ quan hệ thứ bậc trong gia tộc, biểu thị anh em trong gia đình, và người ta thường có thêm chữ bá (mạnh) là lớn, trọng là thứ hai, thúc là em, quý là út; như Bá Di 伯 夷, Thúc Tề 叔 齊, Trọng Hối 重 晦, Mạnh Đức 孟 德, v.v..
Tên hiệu (hiệu) là tên gọi được đặt khi người ta đã thực sự trưởng thành, các sĩ phu và văn nhân thời phong kiến thường có tên hiệu hoặc biệt hiệu của mình, như: Lý Bạch 李 白 thời Đường lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ 青 蓮 居 士, Đỗ Phủ 杜 甫 thời Đường lấy hiệu là Thiếu Lăng Dã Lão 少 陵 野 老, Vương An Thạch 王 安 石 thời Tống lấy hiệu là Bán Sơn 半 山, v.v… Tên hiệu là do người sử dụng tự đặt, không hề bị chi phối bởi gia tộc, thứ bậc trong gia đình. Thông qua việc đặt tên hiệu, hoặc biệt hiệu, người ta có thể tự do gửi gắm tư tưởng và tình cảm, biểu lộ chí hướng và hoài bão, thể hiện sở thích của mình trong cuộc sống. Việc đặt tên hiệu hoặc biệt hiệu đôi khi còn để mang dấu ấn địa phương, quê hương bản quán của mình. Một người có thể thay đổi khá nhiều tên hiệu hoặc biệt hiệu, và thông qua sự thay đổi này có thể hiểu được quan niệm sống, tâm tư tình cảm và tư tưởng của người đó trong cuộc sống ở các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng có người chọn hiệu hoặc biệt hiệu chỉ là học đòi làm sang, chứ không hề phù hợp với thân thế và sự nghiệp của họ chút nào.
Nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Việt Nam vào thời kỳ phong kiến, các nhà Nho, nhà thơ, nhà văn, hàng ngũ quan lại, ngoài tên (danh) ra cũng đặt tên tự và tên hiệu hoặc biệt hiệu, dựa theo những nguyên tắc của Trung Hoa. Có thể kể như:
Ngô Tuấn 吳 俊 (1019-1105), người thành Thăng Long (nay là Tp. Hà Nội). Ông vốn họ Ngô, tự là Thường Kiệt 常 桀, sau được ban quốc tính họ Lý 李 nên thường được gọi là Lý Thường Kiệt 李 常 桀. Danh và tự của Lý Thường Kiệt hoàn toàn hỗ trợ cho nhau (tuấn là tài hoa hơn người còn kiệt là tài năng xuất chúng). Lý Thường Kiệt là vị anh hùng dân tộc có công trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt trong việc đánh quân Tống và bình quân Chiêm. Ông làm quan trải ba triều vua: Lý Thái Tông, Lý Anh Tông và Lý Nhân Tông. Vua Lý Nhân Tông ban cho ông hiệu “Thiên tử nghĩa đệ”.
Chu Văn An 朱 文 安 (1292- 1370), người xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Tp. Hà Nội), ông thi đỗ Thái học sinh, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học và học trò theo ông rất đông. Đời vua Trần Minh Tông, ông mới ra nhận chức Tu nghiệp Quốc tử giám, dạy học cho Thái tử. Đời vua Trần Dụ Tông, nhà vua ăn chơi sa đọa, gian thần lộng quyền tham nhũng, tình hình chính trị xã hội sa sút. Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy tên lộng thần, nhưng nhà vua không nghe, ông liền xin từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Để nói lên đặc điểm nhân cách của mình, Chu Văn An đã lấy tự là Linh Triệt 靈 徹, lấy tên hiệu là Tiều ẩn 樵 隱 và Khang Tiết Tiên sinh 康 節 先 生.
Trần Nguyên Đán 陳 元 旦 (1325 -1390), người xã Tức Mặc, lộ Thiên Trường (nay thuộc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định). Ông là cháu của Trần Quang Khải, là ông ngoại Nguyễn Trãi và từng được bổ nhiệm làm quan theo quy chế tập chức, vì thuộc dòng họ tôn thất nhà Trần. Đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), ông có công trong việc dẹp loạn Dương Nhật Lễ và được thăng chức Tư đồ phụ chính. Đời vua Trần Phế Đế (1377-1388), khi Hồ Quý Ly tiếm quyền ông xin về hưu ở ẩn tại núi Côn Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Trần Nguyên Đán đã lấy hiệu là Băng Hồ 冰 壺 để lấy ý trong câu thơ Đường “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (dịch nghĩa: một tấm lòng trong trắng trong bình ngọc) để thể hiện tấm lòng của mình đối với nhà Trần.
Nguyễn Trãi 阮 廌 (1380 – 1442), người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán và là con của Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất nhà Hồ (1400), từng giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi giặc Minh xâm lược nước ta ông cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh. Trong mười năm kháng chiến gian khổ, ông đã giúp Lê Lợi mưu kế về quân sự và ngoại giao. Chính ông đã thay Lê Lợi thảo những thư từ giao dịch với tướng nhà Minh, tập hợp thư từ ấy gọi là Quân trung từ mệnh. Lúc giặc Minh thua trận xin đầu hàng, ông lại thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo tuyên bố với nhân dân trong cả nước biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh toàn thắng. Vì có công trong cuộc kháng chiến cứu nước, ông được vua Lê Thái Tổ cho theo họ Lê (vì thế còn gọi là Lê Trãi) và phong tước Quan phục hầu. Trong công cuộc xây dựng đất nước, ông đã giúp vua Lê Thái Tổ xây dựng chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao…. Sau khi vua Lê Thái Tổ mất, ông bị các phe cánh trong triều dèm pha nên phải xin về nghỉ ở Côn Sơn. Sau ông được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan và tin dùng. Khi vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, Hải Dương, chẳng may mất ở Lệ Chi Viên (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), Nguyễn Trãi bị triều thần khép tội là đã sai nàng hầu (Nguyễn Thị Lộ) giết vua, nên ông và cả ba họ đều bị giết. Đến đời vua Lê Thánh Tông nỗi oan của ông mới được xét rõ, ông được truy phong quan tước cũ. Ông có hiệu là ức Trai 抑 齋.