Live Thủ tướng Singapore phân tích sâu sắc chứ không như lãnh đạo nào kia đề nghị, yêu cầu

TUG

Người phá đò sông Đà
Vatican-City
Ngày 8 tháng 4, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Singapore - ông Lawrence Wong – đã có bài phát biểu tại Nghị viện nước này về các mức thuế của Hoa Kỳ và tác động của chúng.
Nội dung phát biểu thể hiện quan điểm của Singapore, không nhất thiết trùng hợp với góc nhìn các nước khác, nhưng là tiếng nói đáng tham khảo của giới tinh hoa kỹ trị Quốc đảo Sư Tử về một trật tự thế giới mới đang hình thành.
Bài đáng đọc dù hơi dài.
--------------
Thưa Ngài Chủ tịch,
Chúng ta đã biết từ lâu rằng thế giới đang trong giai đoạn biến động. Những dấu mốc quen thuộc đang dần phai nhạt. Nhưng hình dáng của một hệ thống toàn cầu mới vẫn chưa định hình rõ ràng.
Vì vậy, chúng ta đang ở trong một giai đoạn chuyển giao – đầy bất định, không ổn định và ngày càng trở nên bất an.
Thông báo gần đây về các mức thuế “Ngày Giải phóng” của Hoa Kỳ đã khẳng định thực tế khắc nghiệt này: kỷ nguyên của toàn cầu hóa dựa trên luật lệ và thương mại tự do đã kết thúc.
Đây là một bước ngoặt sâu sắc. Chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới trong các vấn đề toàn cầu – một giai đoạn mang tính tùy tiện hơn, bảo hộ hơn và nguy hiểm hơn.
Trong gần 80 năm kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Hoa Kỳ đã là chỗ dựa cho các nền kinh tế thị trường tự do trên thế giới. Nước này đã thúc đẩy thương mại tự do và thị trường mở, đồng thời dẫn dắt các nỗ lực xây dựng một hệ thống thương mại đa phương.
Hệ thống WTO đã mở ra hàng thập kỷ tăng trưởng và ổn định toàn cầu. Nó cho phép thương mại phát triển mạnh mẽ và đưa hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo. Điều này mang lại lợi ích cho thế giới – và góp phần vào sức mạnh kinh tế của chính nước Mỹ.
Và xét một cách khách quan, Mỹ vẫn duy trì được vị thế kinh tế vượt trội chưa từng có. Thực tế, Mỹ đã phục hồi nhanh hơn các nền kinh tế tiên tiến khác sau đại dịch Covid; nước này đã vượt xa tất cả các đối thủ lớn trong thế giới công nghiệp phát triển.
Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều cảm nhận được điều này về nền kinh tế của họ. Có những thị trấn bị bỏ hoang ở khu vực từng là vành đai công nghiệp phồn thịnh của Mỹ. Có những công nhân mất việc làm, thu nhập đình trệ. Họ tin rằng nền kinh tế Mỹ về cơ bản đã suy yếu.
Sự bất mãn đã bắt đầu lộ rõ từ những năm 1990, khi những người biểu tình làm gián đoạn cuộc họp của WTO tại Seattle.
Nỗi thất vọng càng sâu sắc hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, và gần đây hơn, sau đại dịch Covid.
Nói rõ hơn: hệ thống kinh tế toàn cầu đang cần được cải cách.
Singapore và nhiều quốc gia khác đã kêu gọi thay đổi.
Chúng tôi cũng đã hợp tác với các quốc gia và đối tác có cùng chí hướng tại WTO để cải cách các quy trình của tổ chức này.
Một mối quan ngại lớn ở Mỹ là Trung Quốc – cảm giác rằng Mỹ đã nhượng bộ quá nhiều khi cho phép Trung Quốc gia nhập WTO; và rằng Trung Quốc cạnh tranh không công bằng, chẳng hạn như trợ cấp mạnh tay cho các công ty của mình, dựng lên các rào cản phi thuế quan, và hạn chế tiếp cận thị trường đối với các công ty Mỹ.
Những mối quan ngại này cần được giải quyết trong khuôn khổ của WTO.
Cụ thể, các thỏa thuận thương mại và nhượng bộ được thực hiện trong quá khứ khi Trung Quốc chỉ chiếm 5% nền kinh tế thế giới cần được cập nhật khi hiện nay Trung Quốc chiếm tới 15% GDP toàn cầu.
Và nếu có bất đồng, chúng nên được giải quyết thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, vốn đang bị tê liệt và cần khẩn cấp được khôi phục cũng như cải cách.
Nhưng những gì Mỹ đang làm hiện nay không phải là cải cách. Đó là việc từ chối chính hệ thống mà họ đã tạo ra.
Mỹ đã áp dụng mức thuế chung 10% đối với hàng nhập khẩu từ hầu hết các quốc gia. Trên hết, họ còn áp thêm mức thuế cao hơn – lên tới 50% – đối với một số quốc gia, đặc biệt là những nước có thặng dư thương mại với Mỹ.
Theo chính quyền Mỹ, các mức thuế rộng khắp này là cần thiết để sửa chữa mất cân bằng thương mại của nước này. Nhưng việc có thâm hụt thương mại không phải là điều gì sai trái về bản chất. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là người tiêu dùng Mỹ đang mua nhiều hàng hóa từ thế giới hơn là thế giới mua từ Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ chỉ tập trung nhắm vào thương mại hàng hóa. Điều đó chỉ cho thấy một phần của bức tranh toàn cảnh. Thực tế, Mỹ có thặng dư với nhiều đối tác thương mại trong lĩnh vực dịch vụ – xuất khẩu dịch vụ phần mềm, giáo dục, giải trí, tài chính và kinh doanh. Nhưng sự thật này đã hoàn toàn bị bỏ qua.
Trong trường hợp của Singapore, chúng tôi có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Mỹ. Chúng tôi áp mức thuế 0% đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ, và thực tế chúng tôi có thâm hụt thương mại với Mỹ – nghĩa là chúng tôi mua nhiều từ họ hơn họ mua từ chúng tôi.
Nếu các mức thuế này thực sự mang tính tương hỗ, và nếu chúng chỉ nhằm vào những quốc gia có thặng dư thương mại, thì mức thuế áp lên Singapore đáng ra phải là 0%.
Nhưng chúng tôi vẫn phải chịu mức thuế 10%. Chúng tôi rất thất vọng với động thái của Mỹ, đặc biệt khi xét đến mối quan hệ hữu nghị sâu sắc và lâu dài giữa hai nước. Đây không phải là cách hành xử với một người bạn.
Châu Á đang phải gánh chịu phần lớn tác động từ việc Mỹ tăng thuế.
Trong khu vực, Trung Quốc là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất – phải đối mặt với mức thuế 34% trong đợt này. Và đây là mức thuế bổ sung trên mức tăng 20% đã áp dụng trong hai tháng qua, cùng với 20% từ thời chính quyền Trump đầu tiên. Tính tổng cộng, mức thuế trung bình của Mỹ áp lên sản phẩm Trung Quốc giờ đây vượt quá 60%.
Tại Đông Nam Á, các mức thuế dao động từ 10% đến 49%.
Những biện pháp này sẽ đẩy nhanh quá trình phân mảnh của nền kinh tế toàn cầu.
Thay vì vận hành dựa trên hiệu quả kinh tế, dòng vốn và thương mại sẽ ngày càng bị chuyển hướng dựa trên sự liên kết chính trị và các cân nhắc chiến lược.
Một số thành viên đã hỏi về tác động của các mức thuế này lên các ngành cụ thể tại Singapore. Chúng tôi đang đánh giá tình hình một cách cẩn thận. Nhưng mối lo ngại lớn hơn của chúng tôi không phải là tác động trực tiếp mà các doanh nghiệp này phải đối mặt. Đó là những hệ quả rộng lớn hơn đối với hệ thống thương mại toàn cầu và nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, hãy để tôi giải thích rõ hơn.
Thứ nhất, các mức thuế “tương hỗ” là một sự phủ nhận cơ bản đối với các quy tắc của WTO.
Một trong những nền tảng của hệ thống thương mại đa phương WTO là nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN). Tối huệ quốc nghe có vẻ như là trao đặc quyền đặc biệt, nhưng thực tế lại ngược lại: nó có nghĩa là mọi thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Nói cách khác, nếu một quốc gia áp dụng các điều khoản ưu đãi hơn hoặc thêm các hạn chế với một đối tác thương mại, thì quốc gia đó cũng phải áp dụng tương tự với tất cả các thành viên khác của WTO.
Có một số ngoại lệ và điều khoản miễn trừ đối với quy tắc MFN, chẳng hạn để cho phép các hiệp định thương mại tự do. Nhưng MFN từ lâu đã là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương. Nó đảm bảo một sân chơi công bằng, ngăn chặn sự phân biệt đối xử, và cho phép các quốc gia – dù lớn hay nhỏ – cạnh tranh công bằng trên thị trường toàn cầu. Điều này đã giúp tự do hóa thương mại giữa hơn một trăm thành viên WTO, mỗi quốc gia với những mối quan tâm kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau.
Chính sách thuế quan mới của Mỹ là một sự từ bỏ hoàn toàn nguyên tắc MFN. Nó mở ra cánh cửa cho các mối quan hệ thương mại chọn lọc theo từng quốc gia, dựa trên sở thích đơn phương.
Nếu các quốc gia khác cũng áp dụng cách tiếp cận tương tự như Mỹ, hệ thống thương mại dựa trên quy tắc sẽ sụp đổ. Điều này sẽ gây ra rắc rối cho tất cả các quốc gia. Nhưng các quốc gia nhỏ như Singapore sẽ phải đối mặt với áp lực lớn hơn. Bởi lẽ các quốc gia nhỏ có rất ít quyền thương lượng trong các cuộc đàm phán song phương trực tiếp. Do đó, các cường quốc lớn sẽ áp đặt các điều khoản, và chúng tôi có nguy cơ bị gạt ra bên lề và bị bỏ rơi.
Thứ hai, khả năng xảy ra một cuộc chiến thương mại toàn cầu toàn diện đang ngày càng tăng.
Singapore đã quyết định không áp đặt thuế trả đũa. Việc làm như vậy chỉ khiến chi phí cho người dân Singapore tăng lên. Nhưng các quốc gia khác có thể không cùng quan điểm và có những nhận thức hay cách nhìn khác biệt.
Trung Quốc đã áp thuế trả đũa lên hàng hóa Mỹ.
Những khu vực khác, như Liên minh châu Âu, đang cân nhắc các bước đi tiếp theo của mình.
Một số người cho rằng các mức thuế mới này là một chiến thuật đàm phán – một công cụ của Mỹ để ép buộc nhượng bộ trong các lĩnh vực khác. Đây là điều Tổng thống Richard Nixon đã làm vào năm 1971 – ông áp mức phụ phí 10% lên hàng nhập khẩu để gây áp lực buộc Đức và Nhật Bản phá giá tiền tệ của họ, và khi họ làm vậy, các mức thuế được dỡ bỏ.
Thật vậy, hiện tại có một khoảng thời gian ngắn để các quốc gia đàm phán và xin được giảm nhẹ từ Mỹ trước khi các mức thuế cao hơn có hiệu lực, và có thể một số mức thuế sẽ được giảm xuống.
Nhưng chúng ta phải thực tế. Một khi các rào cản thương mại được dựng lên, chúng thường tồn tại lâu dài. Việc gỡ bỏ chúng khó khăn hơn nhiều, ngay cả khi lý do ban đầu không còn áp dụng nữa.
Dù một số thỏa thuận tạm thời có thể được giải quyết, sự bất định do một động thái mạnh tay như vậy tạo ra sẽ làm giảm niềm tin và tăng trưởng toàn cầu. Việc khôi phục trạng thái trước đây sẽ rất khó khăn.
Đặc biệt, mức thuế chung 10% dường như không nằm trong diện thương lượng. Đây có vẻ là mức thuế tối thiểu cố định, bất kể cán cân thương mại của một quốc gia hay các thỏa thuận thương mại hiện có.
Hơn nữa, còn có những yếu tố khác có thể duy trì đà tăng thuế.
Cụ thể, nhiều quốc gia châu Âu đang muốn bảo vệ các ngành công nghiệp quan trọng của mình như xe điện, công nghệ xanh và chất bán dẫn khỏi sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Họ không muốn trở thành bãi chứa hàng xuất khẩu từ Trung Quốc hay các nước khác.
Ngoài ra, ở các nước phương Tây, ngày càng có xu hướng tăng cường năng lực sản xuất trong nước và giảm phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các ngành chiến lược.
Vì vậy, đợt tăng thuế này của Mỹ có thể chỉ là khởi đầu cho nhiều đợt tăng nữa trên toàn cầu. Và chúng ta đã từng chứng kiến điều này xảy ra trước đây.
Mỹ đã ban hành các đợt tăng thuế lớn qua Đạo luật Smoot-Hawley vào năm 1930.
Nhiều quốc gia phản đối, và một số đã trả đũa bằng các hạn chế và thuế quan thương mại của riêng họ.
Điều này đã làm sâu sắc và kéo dài cuộc Đại Suy thoái.
Xét một số khía cạnh, rủi ro ngày nay có thể còn lớn hơn.
Các mức thuế mới của Mỹ, nếu được thực thi đầy đủ, sẽ cao hơn so với thời Smoot-Hawley.
Thương mại hiện nay chiếm một phần lớn hơn nhiều trong nền kinh tế Mỹ và toàn cầu so với thập niên 1930.
Chuỗi cung ứng cũng liên kết sâu sắc hơn so với thời điểm đó.
Bất kỳ sự gián đoạn nào đối với dòng chảy thương mại sẽ gây ra những tác động lan tỏa rộng lớn hơn trên thế giới.
Điều này dẫn tôi đến điểm thứ ba, đó là tác động lên nền kinh tế toàn cầu. Niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng đã bị ảnh hưởng bởi các mức thuế này. Thương mại và đầu tư quốc tế sẽ chịu thiệt hại. Các cơ quan kinh tế của chúng tôi đã liên hệ với một số doanh nghiệp đa quốc gia và công ty địa phương sau thông báo về thuế quan. Ngay cả những doanh nghiệp không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thuế cũng lo ngại về nhu cầu suy yếu từ khách hàng của họ. Một số đã tạm hoãn các dự án mới trong khi đánh giá toàn bộ tác động của các mức thuế.
Đây là phản ứng từ các công ty tại đây. Nhưng tôi chắc chắn rằng những cuộc thảo luận tương tự cũng đang diễn ra trong các phòng họp trên khắp thế giới.
Trong những ngày gần đây, chúng ta đã chứng kiến phản ứng tiêu cực mạnh mẽ trên các thị trường chứng khoán toàn cầu. Còn quá sớm để nói liệu tất cả những điều này có lan sang nền kinh tế thực hay không.
Nhưng rõ ràng rủi ro tiêu cực đang gia tăng.
Điều đáng lo ngại không chỉ là bản thân các mức thuế – vốn đã gây thiệt hại – mà còn là việc làn sóng bảo hộ mới này mang tính bất định và không ổn định. Bảo hộ đã tệ - bảo hộ không ổn định còn tệ hơn.
Các doanh nghiệp không biết phải mong đợi điều gì. Nhiều doanh nghiệp đang kìm lại, lo sợ rằng những thay đổi trong quy tắc sẽ khiến họ rơi vào tình trạng tài sản bị kẹt.


Sự khác biệt giữa có học và không học, giữa một nhà lãnh đạo kỹ trị và những nhà lãnh đạo mõm
 
P2:
Và tất cả những điều này tạo ra một môi trường đầy bất ổn sâu sắc – một môi trường có thể đẩy cả kinh tế Mỹ và toàn cầu vào suy thoái.
Hậu quả không chỉ dừng lại ở kinh tế.
Ngày càng có nhiều quốc gia quay lưng với hợp tác đôi bên cùng có lợi và hội nhập sâu hơn.
Thay vào đó, chúng ta thấy tư duy “tôi trước tiên”, thắng-thua ngày càng gia tăng – nơi mỗi quốc gia chỉ lo cho chính mình. Một số thậm chí sẵn sàng sử dụng các biện pháp hung hăng hoặc cưỡng chế để đạt được điều họ muốn, bất chấp thiệt hại cho người khác.
Trong khi đó, các thể chế toàn cầu đang suy yếu, và các chuẩn mực hợp tác lâu đời đang sụp đổ.
Một mối quan ngại lớn là mối quan hệ Mỹ-Trung. Mỹ xem Trung Quốc là đối thủ chiến lược và mối đe dọa, cần phải xử lý ngay bây giờ khi Mỹ vẫn còn lợi thế. Trung Quốc tuyên bố họ sẵn sàng cho một cuộc chiến thuế quan, chiến tranh thương mại, hoặc bất kỳ loại chiến tranh nào khác. Mỹ hiện đã đe dọa áp thêm 50% thuế lên Trung Quốc, và Trung Quốc nói sẽ chiến đấu đến cùng. Các kênh đối thoại – vốn có thể đóng vai trò như rào chắn để quản lý mối quan hệ – đang ngày càng ít đi. Vì vậy, nếu tranh chấp leo thang và làm mất ổn định quan hệ Mỹ-Trung, hậu quả đối với thế giới sẽ là thảm họa.
Chúng ta phải chuẩn bị tinh thần. Trật tự dựa trên quy tắc và dễ dự đoán mà chúng ta từng biết đang dần tan biến. Kỷ nguyên mới sẽ biến động hơn, với những cú sốc thường xuyên và khó lường hơn. Chúng ta phải sẵn sàng đứng vững và bảo vệ lợi ích của mình, bất kể những cơn gió bên ngoài có thể thổi mạnh đến đâu.
Tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với Singapore?
Trong ngắn hạn, chúng ta dự kiến tăng trưởng toàn cầu sẽ suy yếu, điều đó có nghĩa là nhu cầu bên ngoài đối với hàng hóa và dịch vụ của chúng ta sẽ giảm.
Các lĩnh vực hướng ngoại của nền kinh tế chúng ta sẽ chịu tác động lớn nhất. Chúng bao gồm sản xuất, đặc biệt là các phân khúc như điện tử và chất bán dẫn; khoa học y sinh, vốn có mức độ tiếp xúc xuất khẩu cao hơn với Mỹ. Thương mại bán buôn và vận tải cũng sẽ bị ảnh hưởng. Sự bất ổn toàn cầu và tâm lý suy giảm cũng sẽ tác động đến một số ngành dịch vụ, bao gồm tài chính và bảo hiểm.
Singapore có thể hoặc không rơi vào suy thoái trong năm nay. Nhưng tôi không nghi ngờ rằng tăng trưởng của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Chúng ta ban đầu dự báo tăng trưởng GDP từ 1 đến 3% cho năm 2025. Bộ Công Thương (MTI) đang đánh giá lại dự báo tăng trưởng và có khả năng sẽ điều chỉnh giảm.
Tăng trưởng chậm lại sẽ đồng nghĩa với ít cơ hội việc làm hơn và mức tăng lương nhỏ hơn cho người lao động. Và nếu nhiều công ty gặp khó khăn hoặc chuyển hoạt động trở lại Mỹ, sẽ có thêm nhiều trường hợp sa thải và mất việc làm.
Hiện tại, các biện pháp được công bố trong Ngân sách năm nay sẽ hỗ trợ giảm bớt căng thẳng ngắn hạn.
Chúng ta có một gói biện pháp toàn diện cho các hộ gia đình và cá nhân.
Họ sẽ nhận được phiếu mua hàng CDC, phiếu SG60 và giảm giá U-Save để giúp trang trải chi phí sinh hoạt. Ngoài ra còn có các biện pháp nhắm đến các nhóm dễ bị tổn thương hơn như tăng cường hỗ trợ ComCare.
Chúng ta cũng đang hỗ trợ người lao động thông qua đầu tư vào SkillsFuture. Những người bị mất việc ngoài ý muốn sẽ nhận được sự giúp đỡ để đứng dậy trở lại thông qua chương trình Hỗ trợ Người Tìm việc SkillsFuture, bắt đầu từ cuối tháng này.
Chúng ta cũng đã triển khai các biện pháp trong Ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp – có các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cũng như các chương trình để nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và chuyển hướng sang các thị trường mới. Các cơ quan kinh tế của chúng ta cũng đang làm việc với các công ty bị ảnh hưởng bởi thuế quan để hiểu rõ hơn phản ứng của họ, đồng thời xem xét cách hỗ trợ và giải quyết các vấn đề cụ thể mà họ đối mặt.
Dẫu vậy, tình hình đang biến động và có thể thay đổi nhanh chóng.
Do đó, chúng ta sẽ thành lập một Lực lượng Đặc nhiệm do Phó Thủ tướng Gan Kim Yong đứng đầu để giúp doanh nghiệp và người lao động đối phó với những bất định trước mắt, tăng cường khả năng phục hồi và thích nghi tốt hơn với môi trường kinh tế mới.
Ngoài các cơ quan kinh tế, lực lượng đặc nhiệm sẽ bao gồm Liên đoàn Doanh nghiệp Singapore, Liên đoàn Nhà tuyển dụng Quốc gia Singapore và NTUC.
Chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi sát sao các diễn biến. Chính phủ sẵn sàng làm nhiều hơn nếu cần thiết và khi cần thiết. Chúng ta có nguồn lực để làm điều đó nhờ vào kỷ luật tài chính và sự thận trọng mà chúng ta đã duy trì qua nhiều thập kỷ.
Trong môi trường mới này, Singapore phải tăng gấp đôi nỗ lực để vẫn là một nút giao quan trọng trong dòng chảy toàn cầu và một trung tâm kinh doanh đáng tin cậy.
Chúng ta sẽ củng cố mối liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác cùng chí hướng, những người chia sẻ cam kết của chúng ta đối với thương mại tự do và cởi mở.
Mỹ có thể đã quyết định chuyển sang bảo hộ. Nhưng phần còn lại của thế giới không nhất thiết phải đi theo con đường đó. Chúng ta sẽ tìm kiếm các đối tác khác để cùng hợp tác và vượt qua điều này – để đảm bảo khả năng phục hồi và duy trì các phần quan trọng của hệ thống đa phương, đồng thời đặt nền móng cho một hệ thống toàn cầu mới, khác biệt, có thể đạt được trong tương lai.
Và đó là lý do tôi đã nỗ lực gặp gỡ và thăm các đồng nghiệp ở các quốc gia khác. Hôm qua, tôi đã trao đổi với Thủ tướng Anh Keir Starmer và có thêm vài cuộc trò chuyện khác được sắp xếp trong vài tuần tới. Tất cả họ đều mong muốn hợp tác nhiều hơn với Singapore, mở rộng hợp tác kinh tế, bao gồm cả trong các lĩnh vực mới như kinh tế số và kinh tế xanh.
Đặc biệt, chúng ta sẽ tăng cường hợp tác và hội nhập trong ASEAN.
Thứ Sáu tuần trước, tôi đã nói chuyện với Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim. Malaysia cũng là Chủ tịch ASEAN năm nay. Chúng tôi đồng ý đẩy nhanh nỗ lực hội nhập của ASEAN để làm cho khu vực của chúng ta hấp dẫn và cạnh tranh hơn.
Một cuộc họp đặc biệt của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức vào cuối tuần này. Họ sẽ thảo luận thêm về cách ASEAN có thể hợp tác để tăng cường thương mại nội khối ASEAN và gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ về cam kết của ASEAN đối với hội nhập kinh tế khu vực.
Với tư cách là một khối, ASEAN cũng sẽ tiếp tục củng cố mối liên kết với các đối tác cùng chí hướng trong các lĩnh vực có lợi ích chung.
Thưa Ngài Chủ tịch, chúng ta đang bước vào một thế giới đã thay đổi. Cách duy nhất để Singapore vượt qua cơn bão đang tụ lại là đoàn kết – tập hợp nguồn lực, khả năng phục hồi và quyết tâm của chúng ta.
Chính phủ sẽ làm mọi điều có thể để dẫn dắt Singapore vượt qua những con sóng dữ, và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Chúng ta sẽ giữ nền kinh tế cởi mở, xã hội gắn kết và các thể chế vững mạnh.
Chúng ta sẽ tạo ra những giá trị mới cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Chúng ta sẽ hành động mạnh mẽ và quyết đoán khi cần thiết, để đảm bảo Singapore tiếp tục thành công.
Trên hết, chúng ta sẽ đặt lợi ích của Singapore và người dân Singapore làm trung tâm trong mọi việc chúng ta làm.
Con đường phía trước sẽ khó khăn hơn. Những nguy cơ là có thật. Nhưng quyết tâm của chúng ta cũng vậy. Theo nhiều cách, chúng ta đang ở vị thế tốt hơn so với sáu mươi năm trước khi giành độc lập.
Chúng ta đã xây dựng được nguồn dự trữ sâu rộng như một tấm đệm chiến lược.
Chúng ta đã tạo nên một sự gắn kết mạnh mẽ, dựa trên tinh thần đoàn kết và niềm tin lẫn nhau.
Và trên hết, chúng ta có sự sáng tạo và trí thông minh, sự kiên cường và dũng khí – một tinh thần không bao giờ bỏ cuộc đã giúp chúng ta vượt qua mọi khủng hoảng, và sẽ đưa chúng ta vượt qua những thử thách sắp tới.
Vì vậy, thưa Ngài Chủ tịch, tôi xin nói với Nghị viện và đồng bào Singapore – đừng sợ hãi. Giờ đây, hơn bao giờ hết, chúng ta sẽ kiên định và đoàn kết. Chấm đỏ nhỏ bé của chúng ta sẽ tiếp tục tỏa sáng. Trong một thế giới u tối và bất ổn, Singapore sẽ giữ vững vị thế như một ngọn hải đăng của sự ổn định, mục tiêu và hy vọng.
Xin cảm ơn Ngài.
 

Có thể bạn quan tâm

Top