Nhân chiều thứ 6 rảnh rỗi sinh nông nổi, tôi một người ưa thích các trường phái triết học cổ điển Ấn Độ, có đọc qua một đoạn trích về sarvasat upanishad, Mong các bạn nào có chung niềm yêu thích có thể chia sẻ thêm.
Tôi không theo một trường phái tôn giáo nào cụ thể, như đã nhiều lần khẳng định: " tôi một người tin tưởng vào những lời dạy của Đức Phật, nhưng không vì tin tưởng vào ngài mà tôi ngừng việc học tập và nghiên cứu những trường phái khác, đây là điều mà tôi tự nghĩ là phải, là đúng đắn"
Văn trong bài viết này chủ yếu là mượn và có sự trợ giúp không nhỏ của công cụ AI, nhưng cũng hoàn toàn là dựa theo tri kiến của riêng tôi, mà có lẽ các bạn sẽ khó có thể tìm thấy ở đâu đó trong các tài liệu trên mạng.
Lần nữa tôi khẳng định, đây hoàn toàn là tri kiến của cá nhân, những điều dưới đây chắc chắn không phải là chân lý, không phải là sự thật, những mong bạn đọc nào đọc được mà cảm thấy không hợp thì xin bỏ qua,
Chúc các bạn đọc là các xammers nhiều sức khỏe, và thành công trong cuộc sống.
Chúc các xammers có một cuối tuần vui vẻ.
Tôi không theo một trường phái tôn giáo nào cụ thể, như đã nhiều lần khẳng định: " tôi một người tin tưởng vào những lời dạy của Đức Phật, nhưng không vì tin tưởng vào ngài mà tôi ngừng việc học tập và nghiên cứu những trường phái khác, đây là điều mà tôi tự nghĩ là phải, là đúng đắn"
Văn trong bài viết này chủ yếu là mượn và có sự trợ giúp không nhỏ của công cụ AI, nhưng cũng hoàn toàn là dựa theo tri kiến của riêng tôi, mà có lẽ các bạn sẽ khó có thể tìm thấy ở đâu đó trong các tài liệu trên mạng.
Lần nữa tôi khẳng định, đây hoàn toàn là tri kiến của cá nhân, những điều dưới đây chắc chắn không phải là chân lý, không phải là sự thật, những mong bạn đọc nào đọc được mà cảm thấy không hợp thì xin bỏ qua,
Chúc các bạn đọc là các xammers nhiều sức khỏe, và thành công trong cuộc sống.
Chúc các xammers có một cuối tuần vui vẻ.

trích đoạn:
Linh hồn là cả hai: Vũ trụ và cá nhân. Qua việc đồng nhất với thân thể, vốn là cái ta mà không phải là linh hồn, linh hồn trở nên bị sở hữu bằng cảm giác về bản ngã quanh thân thể. Cảm giác về bản ngã này là sự tù túng của cá nhân, linh hồn được hiện thân.
Khi cảm giác này về bản ngã dừng lại, thì nó được gọi là giải thoát. Cái cho sinh thành ra cảm giác về bản ngã này được gọi là aidya, việc biết giả, còn cái dẫn tới việc dừng của cảm giác bản ngã này được gọi là vidya, việc biết thật.
Trạng thái linh hồn có thể cảm nhận được những vật thô, như thính giác và xúc giác được gọi là jagrat, trạng thái thức của linh hồn. Những vật thô được cảm nhận qua mười bốn công cụ - tâm trí, trí tuệ, tâm trí tích lũy, bản ngã và mười giác quan (5 giác quan của cảm nhận, và 5 giác quan của hành động) - được mặt trời và các thần khác hỗ trợ.
Khi trong thiếu vắng của các vật thô, như thính giác và xúc giác, và do những ham muốn không được thỏa mãn và kéo dài của trạng thái thức, qua mười bốn công cụ linh hồn cảm nhận các vật thô đang có đó nhưng lại tạo ra những ham muốn này - trạng thái này được gọi là swapna, trạng thái mơ của linh hồn.
Khi có bất hoạt và nghỉ ngơi của mười bốn công cụ thì có thiếu cảm nhận, và các vật thô, như thính giác và xúc giác, không được kinh nghiệm. Trạng thái này được gọi là sushupti, trạng thái ngủ của linh hồn.
Tâm thức chứng kiến một cách vĩnh hằng biết tới sự hiện diện hay vắng mặt của ba trạng thái, và bản thân Nó vượt ra ngoài sự hiện diện hay vắng mặt, là turiya. Đây là trạng thái thứ 4
Việc lắp ráp các tế bào do thức ăn tạo ra là thể vật lí. Khi mười bốn gió khác nhau, như gió prana, hoạt động trong thể vật lí, chúng tạo ra thể năng lượng.
Khi linh hồn, hợp tác với hai thể này, và qua trung gian của mười bốn công cụ, quan niệm các sự vật như lời, thì nó được gọi là thể trí.
Khi linh hồn hợp tác với ba thể này thì trở thành ý thức tới mọi cảm nhận, thì Nó được gọi là Nhận biết.
Khi linh hồn hợp tác với bốn thể này vãn còn trong sự hồn nhiên về nguyên nhân của nó, giống như hạt mầm của cây tre, thì được gọi là thể phúc lạc.
Tuy theo khuynh hướng của người ta về vui thích hay đau đớn, khi người ta tập trung hài lòng thì đó là tâm trí mang tính sướng, còn khi người ta tập trung vào không hài lòng thì đó là tâm trí mang tính khổ. Người làm là cái nảy sinh từ các hành động của linh hồn được hiện trong nỗ lực của nó để đạt tới sướng và tránh khổ.
Các giác quan - thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác, khứu giác đều là nguyên nhân cho cả sướng và khổ. Khi linh hồn bị đồng nhất với thân thể có được do nghiệp thì đây là linh hồn được hiện thân mắc bệnh.
Tâm trí, mạch sống, ham muốn, hiếu thảo và đức độ là năm nút cơ sở. Khi linh hồn được hiện thân bị đồng nhất với bản chất của 5 nút này, thì nó không thể tự do khỏi chúng mà không tự hiểu mình.
Vì 5 nỗi ưu phiền này linh hồn giống như bệnh tật tinh vi, nên linh hồn được biết tới như ling sharir, sự đồng nhất thân thể. Đây là nút trong tim. Cái chiếu sáng tại đó khi tâm thức là kshetragya , người biết.
Người biết việc sinh và sự tan biến của ngưòi biết, việc biết và đối tượng của việc biết, thì bản thân mình không có sinh hay tan biến, sự tự tỏa sáng này được gọi là sakshi, nhân chứng.
Cái cư ngụ trong tâm thức của mọi sinh linh sống, từ brah-ma vị thần sáng tọ, tới con sâu bọ nhỏ nhất, và cái còn lại ngay cả khi tất cả những thân thể thô và tinh không còn nữ, được gọi là Cái Không thể hủy diệt nổi.
Chỉ như một sợi chỉ xuyên qua từng hột của chuỗi hạt, linh hồn len vào từng tế bào của thân để để cho nó có thể trở nên nhận biết về bản tính đúng của mình từ trong các đặc trưng khác nhau. Cái này được gọi là antaryami, người biết về tất cả các ý nghĩ và cảm giác.
Linh hồn, Thực tại tối thượng, được gọi là twam, ngươi, khi tự do khỏi mọi tướng mạo - chân lí, trí tuệ, cái vô hạn, chỗ của phúc lạc - cũng như vàng khi tự do khỏi mọi hình dạng vòng đeo hay mũ miện.
Linh hồn vậy được hiển lộ trong tự tính riêng Nó,, cảm nhận và ý thức. Brah-man, thực tại tối thượng, là chân lí.
Chân lí là không thể bị hủy diệt được, cái không bị hủy diệt, ngay cả như trung gian của không gian, thời gian và sự vật bị phá hủy là avinashi, cái không thể bị hủy diệt nổi.
Tâm thức vĩnh hằng, ở bên kia sáng tạo và hủy diệt, được gọi là việc biết. Tâm thức tràn đầy và tràn ngập toàn thể vũ trụ - giống như đất sét trong những thứ được làm từ đất sét, giống như vàng trong những thứ được làm từ vàng, và giống như sợi chỉ trong mọi thứ được làm từ sợi chỉ - được gọi là Cái vô hạn.
Tâm thức vui sướng, phúc lạc đại dương không giới hạn, cái vốn là bản chất tinh túy của mọi niềm vui, là phúc lạc.
Cái là chân lí, việc biết, vô hạn và phúc lạc, là cái không đổi qua trung gian của thời gian, không gian và vật chất là Tat
Cái đó hay pramatta, cái Ta vũ trụ. Cái tách biệt khỏi người và cái đó, là tinh tế như bầu trời, bản chất duy nhất của Nó chỉ là hiện hữu, điều này chúng ta gọi là param brahman, Thực tại tối thượng.
Giới thiệu sơ qua về đoạn trích
Sarvasara Upanishad là một tác phẩm triết học Ấn Độ giáo quan trọng, nằm trong nhóm Muktika Upanishad, nhằm khám phá các khía cạnh sâu sắc của linh hồn, thực tại, và giải thoát. Upanishad này đưa ra một cách nhìn thấu đáo về bản chất của linh hồn và mối quan hệ của nó với thân thể, các trạng thái tâm thức, và thực tại tối thượng.
Sarvasara Upanishad bắt đầu bằng cách phân biệt rõ ràng giữa linh hồn (Atman) và thân thể vật lý. Linh hồn là bản chất cốt lõi, vượt ra ngoài mọi hình tướng và đặc điểm vật lý. Khi linh hồn đồng nhất với thân thể, nó phát sinh cảm giác về bản ngã (ahamkara), dẫn đến sự ràng buộc và đau khổ. Giải thoát (moksha) đạt được khi linh hồn vượt qua được sự đồng nhất này, nhận thức rõ ràng về bản chất thật của mình.
Upanishad tiếp tục mô tả các trạng thái của linh hồn: Jagrat (thức), Swapna (mơ), Sushupti (ngủ sâu), và Turiya (trạng thái thứ tư). Trong trạng thái Jagrat, linh hồn nhận thức được thế giới vật lý thông qua các giác quan và tâm trí. Swapna là trạng thái mơ, nơi những ham muốn không được thỏa mãn trong trạng thái thức được tiếp tục trong các giấc mơ. Sushupti là trạng thái ngủ sâu, nơi mọi hoạt động của giác quan và tâm trí dừng lại. Turiya, trạng thái thứ tư, vượt ra ngoài ba trạng thái trên, là trạng thái nhận thức thuần túy, không bị ảnh hưởng bởi những phân biệt và đối lập của thế gian.
Sarvasara Upanishad cũng giới thiệu khái niệm về các thể (koshas) của con người: thể vật lý (Annamaya Kosha), thể năng lượng (Pranamaya Kosha), thể trí (Manomaya Kosha), và thể phúc lạc (Anandamaya Kosha). Mỗi thể tương ứng với các mức độ khác nhau của nhận thức và năng lượng, và cùng hợp nhất để tạo ra bản thể con người toàn diện. Khi linh hồn nhận thức được bản chất thật của mình thông qua sự hợp nhất của các thể này, nó đạt được trạng thái nhận biết thuần túy (Vijnanamaya Kosha).
Một phần quan trọng của Upanishad là khái niệm về Sakshi (Nhân chứng), một thực thể bất biến, chứng kiến mọi hoạt động của tâm trí và thân thể mà không bị ảnh hưởng. Sakshi là biểu hiện của sự tỉnh thức, một trạng thái vượt qua sinh tử, và là chìa khóa để hiểu về bản chất vô thường và vô ngã của mọi hiện tượng.
Cuối cùng, Sarvasara Upanishad bàn về khái niệm Brahman, thực tại tối thượng. Brahman là bản chất thật của linh hồn, vượt qua mọi hình dạng và tính chất vật lý. Khi linh hồn nhận thức được sự hợp nhất với Brahman, nó đạt đến trạng thái tối thượng của phúc lạc và giải thoát. Brahman được mô tả là chân lý, trí tuệ, vô hạn và phúc lạc (Sat-Chit-Ananda).
So sánh với Phật giáo
Sarvasara Upanishad và triết lý Phật giáo, hai hệ thống triết học cổ điển của Ấn Độ, tuy có những sự khác biệt đáng kể về khái niệm và mục tiêu cuối cùng, nhưng lại chia sẻ nhiều điểm tương đồng trong việc nhấn mạnh vào sự vượt qua ảo tưởng về bản ngã và thế giới vật chất để đạt đến trạng thái giải thoát. Cả hai đều tìm kiếm sự giải phóng tâm thức khỏi những ràng buộc và khổ đau, và điều này được thể hiện rõ ràng qua cách tiếp cận và thực hành tâm linh của chúng.
Sarvasara Upanishad tập trung vào khái niệm Atman (linh hồn) và Brahman (thực tại tối thượng). Atman được coi là bản chất thật của mỗi cá nhân, vượt qua mọi hình tướng và tính chất vật lý. Brahman, thực tại tối thượng, là bản chất vô hạn và không thay đổi, mà mọi linh hồn đều hướng đến hợp nhất. Sự giải thoát (moksha) trong Upanishad này đạt được khi linh hồn nhận ra sự đồng nhất với Brahman, vượt qua mọi ảo tưởng về bản ngã và thế giới vật chất. Điều này đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc và nhận thức rõ ràng về các trạng thái tâm thức khác nhau (Jagrat, Swapna, Sushupti, và Turiya) và các thể của con người (Annamaya, Pranamaya, Manomaya, và Anandamaya Kosha). Qua sự tự nhận thức này, cá nhân có thể nhận ra chân lý tối thượng và đạt đến trạng thái an lạc và giải thoát.
Trong khi đó, Phật giáo không chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất biến (Atman) hay một thực tại tối thượng (Brahman). Thay vào đó, Phật giáo nhấn mạnh vào khái niệm vô ngã (Anatta) và tính vô thường (Anicca) của mọi hiện tượng. Theo Phật giáo, mọi thứ đều là duyên sinh (Pratītyasamutpāda), nghĩa là chúng tồn tại phụ thuộc vào những điều kiện và yếu tố khác nhau. Không có thực thể cố định hay bất biến trong con người hay vũ trụ. Giải thoát (Nirvana) trong Phật giáo đạt được khi cá nhân vượt qua được tham, sân, si (Tam độc), nhận thức rõ ràng về tính vô ngã và vô thường của mọi hiện tượng, và chấm dứt mọi khổ đau (Dukkha).
Điểm tương đồng đáng chú ý giữa Sarvasara Upanishad và Phật giáo là cả hai đều công nhận sự quan trọng của việc nhận thức và hiểu biết sâu sắc để đạt tới giải thoát. Sarvasara Upanishad nhấn mạnh vào sự nhận thức về linh hồn và thực tại tối thượng, trong khi Phật giáo nhấn mạnh vào việc nhìn thấy sự thật về bản chất vô thường và duyên sinh của mọi sự vật. Cả hai đều khuyến khích việc thực hành tâm linh để đạt tới trạng thái cao nhất của sự giác ngộ. Sarvasara Upanishad đề cao khái niệm Sakshi (Nhân chứng), một thực thể bất biến chứng kiến mọi hoạt động của tâm trí và thân thể mà không bị ảnh hưởng. Sakshi biểu hiện cho sự tỉnh thức và sự nhận thức thuần túy, vượt qua mọi sinh tử. Tương tự, Phật giáo cũng nhấn mạnh vào sự tỉnh thức (Sati) và sự nhận biết, nhưng không chấp nhận một thực thể bất biến như Sakshi. Thay vào đó, Phật giáo coi sự tỉnh thức là một trạng thái tâm lý cần được phát triển thông qua thực hành thiền định và tu tập.
Cả hai hệ thống triết học đều hướng đến việc giúp con người tìm kiếm sự thật về bản chất của mình và đạt tới trạng thái giải thoát khỏi khổ đau. Chúng cung cấp những hướng dẫn quý giá cho những ai muốn khám phá sâu hơn về tâm linh và triết lý. Sarvasara Upanishad và Phật giáo đều khuyến khích việc tự nhận thức và thực hành tâm linh để vượt qua những ảo tưởng về bản ngã và vật chất, và cả hai đều coi trọng sự tỉnh thức như một yếu tố then chốt để đạt đến giải thoát. Qua những điểm tương đồng này, ta thấy rằng mặc dù xuất phát từ những nền tảng triết học khác nhau, cả hai đều hướng đến mục tiêu chung là sự giải thoát và an lạc cho con người.