Đền Samananamborihan thờ khai quốc công thần gốc Việt của Xiêm La

924975.jpg
Chúa Ánh được người Thái lập đền thờ tại đây là bởi Ông giúp vua Rama 1 đoạt được thiên hạ, sau đó dẫn quân đẩy lui được quân đội Myanmar hùng mạnh Đông Nam Á (4 lần đánh thắng nhà Thanh). Chúa Nguyễn Phúc Ánh được coi là khai quốc công thần của vương triều Chakri, triều đại vẫn đang cai trị Thái Lan ngày nay là RAMA 10


Nguyễn Ánh, vị vua sau này lấy niên hiệu Gia Long và sáng lập triều Nguyễn ở Việt Nam, từng trải qua một giai đoạn đầy gian truân khi phải lưu vong tại Xiêm La (tên gọi cũ của Thái Lan) trong cuộc chiến chống lại quân phản loạn Tây Sơn. Đây là một chương quan trọng trong hành trình khôi phục quyền lực của ông, đồng thời cũng phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam và Xiêm La dưới triều đại Chakri.

Mối quan hệ giữa chúa Ánh và đương kim vua Xiêm Taksin

Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh bại vào năm 1777, Nguyễn Ánh, khi đó mới 15 tuổi, buộc phải chạy trốn khỏi miền Nam Việt Nam. Ông trải qua nhiều năm bôn tẩu, từ Gia Định đến các đảo như Phú Quốc, Thổ Châu, và cuối cùng tìm đến Xiêm La để lánh nạn. Giai đoạn này, Xiêm La dưới sự cai trị của vua Taksin, một vị vua nổi tiếng với tài năng quân sự nhưng cũng đầy biến động chính trị. Nguyễn Ánh đến Xiêm lần đầu vào khoảng năm 1781, sau khi liên tục bị Tây Sơn truy đuổi và mất đi nhiều căn cứ quan trọng.

Tại Xiêm La, Nguyễn Ánh được triều đình tiếp đón và cho phép trú ngụ ở khu vực Samsen và Bangpho, gần kinh đô Vọng Các (Bangkok ngày nay). Tuy nhiên, mối quan hệ ban đầu giữa ông và vua Taksin không hoàn toàn suôn sẻ. Taksin từng nghi ngờ ý đồ của Nguyễn Ánh, đặc biệt khi ông từ chối lời đề nghị thông gia với hoàng gia Xiêm. Thậm chí, có thời điểm Taksin ra lệnh bắt giam một số người thân cận của Nguyễn Ánh, như Xuân Quận Công và gia đình Mạc Thiên Tứ, do nghi ngờ họ làm nội gián. Điều này khiến Nguyễn Ánh phải bí mật rời Xiêm về Phú Quốc vào năm 1787 để tránh nguy cơ bị Taksin thủ tiêu.

Mối quan hệ giữa chúa Ánh và tướng Chakri hay còn gọi vua Xiêm tương lai Rama 1

Nguyễn Ánh và Chakri của Xiêm “quen biết” qua việc giải hòa với nhau ở Campuchia, năm 1871. Triều đình Campuchia xảy ra lục đục, tranh giành ngôi báu, phe phe số 1 thì cầu cứu vua Xiêm, phe số 2 thì cầu cứu Nguyễn Ánh. Đây là cơ hội tốt để vua Xiêm, bấy giờ là Taksin đưa quân sang xâm lược.
Hai tướng tài giỏi của Xiêm là Chakri và Sunasin đem 2 vạn quân cùng hoàng tử Intarapitak, con trai Taksin, thẳng tiến tới U đông. Vua Taksin hy vọng sẽ thôn tính nước Campuchia và đưa con trai mình lên làm vua vùng Udon. Quân đội của Nguyễn Ánh do Nguyễn Hữu Thụy và Hà Văn Lân cũng đang có mặt ở Campuchia, từ tháng 3 – 1781, theo sự cầu cứu của Nhiếp chính vương Tslaha Mu. Sau một vài chiến thắng nhỏ với quân Campuchia, quân Xiêm chuẩn bị giao chiến với quân của Nguyễn Ánh thì nhận được tin triều đình Thônbure có biến.

Vợ con của hai tướng tác chiến bỗng bị tống giam. Tình hình nguy cấp khiến các tướng quân Xiêm phải nghĩ cách cứu vãn tình thế. Tướng Chakri đã xin găp tướng quân nhà Nguyễn đề nghị giảng hòa chúa Ánh đồng thuận và cùng lui quân “Hữu Thụy đem vài mươi binh đi thẳng vào trại Xiêm. Binh Xiêm nhìn nhau sợ hãi, kinh ngạc. Chakri mời vào đãi đằng rất hậu rồi đem sự thật bày tỏ, rượu say, bẻ mũi tên cùng thề. Hữu Thụy nhân đó đem ba bảo khí là Cờ, Đao, Kiếm tặng rồi về

Tháng 5/1781, theo sự thỏa thuận và ăn thề giữa các tướng Chakri và Hữu Thụy, quân Xiêm và quân Nguyễn cùng rời khỏi Campuchia (4, 632). Tướng Xiêm về Thônburi lo dep loạn, còn quân Nguyễn về lo đối phó với quân Tây Sơn đang tấn công Gia Định. Vì thế Campuchia tạm tránh được nạn binh đao của quân xâm lược Nguyễn Ánh và Xiêm La. Về tới Thônburi, Chakri nhanh chóng dẹp được biến loạn, giết chết vua Taksin, cứu vợ con và giành lấy ngôi báu. Năm 1782, tướng Phìa Chakri lên ngôi vua, hiệu là Rama 1, tồn tại tới nay là vua Rama 10, Maha Vajiralongkorn
22a_MSKJ.jpg



Nguyễn Ánh qua Xiêm lần 2

Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh, phải bỏ chạy sang Xiêm, trong suốt hơn hai năm lưu vong lận đận ở Băng Kốc (1785 – 1787), được sự giúp đỡ của Rama I và cả khi đã về nước (1787).

Tình hình thay đổi lớn khi Xiêm La xảy ra chính biến vào năm 1782. Tướng Chao Phraya Chakri, sau này lên ngôi với danh hiệu Rama I, lật đổ Taksin và lập ra vương triều Chakri. Rama I, người từng có giao hảo với Nguyễn Ánh từ trước ở Campuchia, nên tỏ ra cởi mở hơn trong việc hỗ trợ vị chúa Nguyễn lưu vong.

Khi Nguyễn Ánh trở lại Xiêm vào năm 1785 sau trận thua ở Thổ Châu, ông được Rama I chào đón nồng hậu và cung cấp nơi trú ẩn như ân nhân. Tại đây, ông tập hợp lực lượng, nhận viện trợ từ Xiêm La, bao gồm quân lính, thuyền bè và vũ khí, để chuẩn bị cho cuộc phản công.
AL18g_TMeQDMyjLbxDOYCqM670hHZUJXsjkbFHs72TdXlzM2yAzQAHnKip-d7XPxNK5yipr-OYdr_EQ

Đỉnh cao của sự hợp tác này là năm 1784-1785, khi Rama I đồng ý gửi một đội quân lớn, ước tính khoảng 20.000 thủy lục quân, phối hợp với lực lượng của Nguyễn Ánh để tấn công quân Tây Sơn tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, chiến dịch này thất bại thảm hại trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút, khi liên quân Xiêm-Nguyễn bị Nguyễn Huệ 1 trận đánh tan, Chúa Ánh chạy 1 mình xui quá nhưng gặp may, bị sụt hố nằm dưới hố bị choáng nên xỉu ngất, cây cỏ phủ lên quân quan nhà Tây Sơn tìm không ra, đợi đêm xuống bò lên lại đi ra, lại thoát lại sống sót như nhiều chục lần trước đó.

Thất bại này không chỉ làm giảm uy tín của Nguyễn Ánh mà còn khiến Rama I thận trọng hơn trong việc can thiệp sâu vào Việt Nam. Dù vậy, mối quan hệ giữa hai bên vẫn được duy trì, với các hoạt động giao thiệp ngoại giao thường xuyên, Rama 1 vẫn nhớ ơn Chúa Ánh rất nhiều khi 4 lần chính chúa Ánh làm quân sư thắng trận chống Miến Điện quân đội mạnh nhất ĐNA thời đó xâm lăng. Quân Miên Điện đánh trận địa chiến thắng quân Thanh sòng phẳng chứ không đánh úp kiểu Nguyễn Huệ. Nên họ cực kỳ mạnh. Ánh vẫn lập mưu giúp Chakri thắng 4 lần.

Đơn cử: “Tháng 2 ÂL năm 1786, trong lúc chúa Nguyễn Ánh cùng tướng sĩ còn nương náu ở thành Vọng Các thì được tin quân Miến Điện chia thành ba ngả tiến công vùng đất Sài Nặc của Xiêm. Vua Xiêm thân chinh cầm quân đánh giặc, trước khi đi đã tham khảo ý kiến chúa Nguyễn. Ông trả lời ' Miến Điện cất quân từ xa lại, chở lương đi hàng nghìn dặm, kể đã mệt rồi. Tôi xin giúp sức, đánh chóng hẳn được'. Sau đó Nguyễn Ánh cho quân ra trợ chiến vua Xiêm, cử Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa tấn công quân Miến Điện, gây cho đối phương nhiều thương vong, bắt được 500 tù binh, chiến công của chúa Ánh và tướng sĩ tòng vong khiến vua Xiêm Rama 1 vô cùng cảm kích, mang vàng lụa ra tạ ơn..."

Trong thời gian ở Xiêm, Nguyễn Ánh không chỉ tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự mà còn học hỏi kinh nghiệm từ vương triều Chakri, đặc biệt là cách tổ chức quân đội và chiến lược đối phó với kẻ thù sau này là Nguyễn Huệ. Những năm tháng lưu vong này rèn giũa ý chí của ông, giúp ông xây dựng lại lực lượng và cuối cùng trở về Gia Định, đánh bại Tây Sơn vào năm 1802 để lên ngôi hoàng đế.

Hành trình của Nguyễn Ánh tại Xiêm La là minh chứng cho sự kiên trì và khéo léo trong ngoại giao của ông. Dù phải đối mặt với nhiều thử thách, từ sự nghi kỵ ban đầu của Taksin đến thất bại quân sự dưới thời Rama I, ông vẫn tận dụng được sự hỗ trợ từ Xiêm La để đặt nền móng cho triều đại của mình. Giai đoạn này không chỉ là một câu chuyện về sự sống sót mà còn là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 18.
 
Sửa lần cuối:
dân việt trước khi dù nước nhỏ hay bị đô hộ nhưng khi sang nước ngoài đều cống hiến được lưu danh, Hồ Nguyên Trừng, Lý Long Tường, Nguyễn An...còn bọn ngạo nghễ bây giờ sang đó chỉ phá chỉ trộm cấp làm mất danh dự người vn
 
924975.jpg
Chúa Ánh được người Thái lập đền thờ tại đây là bởi Ông giúp vua Rama 1 đoạt được thiên hạ, sau đó dẫn quân đẩy lui được quân đội Myanmar hùng mạnh Đông Nam Á (4 lần đánh thắng nhà Thanh). Chúa Nguyễn Phúc Ánh được coi là khai quốc công thần của vương triều Chakri, triều đại vẫn đang cai trị Thái Lan ngày nay là RAMA 10


Nguyễn Ánh, vị vua sau này lấy niên hiệu Gia Long và sáng lập triều Nguyễn ở Việt Nam, từng trải qua một giai đoạn đầy gian truân khi phải lưu vong tại Xiêm La (tên gọi cũ của Thái Lan) trong cuộc chiến chống lại quân phản loạn Tây Sơn. Đây là một chương quan trọng trong hành trình khôi phục quyền lực của ông, đồng thời cũng phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa Việt Nam và Xiêm La dưới triều đại Chakri.

Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh bại vào năm 1777, Nguyễn Ánh, khi đó mới 15 tuổi, buộc phải chạy trốn khỏi miền Nam Việt Nam. Ông trải qua nhiều năm bôn tẩu, từ Gia Định đến các đảo như Phú Quốc, Thổ Châu, và cuối cùng tìm đến Xiêm La để lánh nạn. Giai đoạn này, Xiêm La dưới sự cai trị của vua Taksin, một vị vua nổi tiếng với tài năng quân sự nhưng cũng đầy biến động chính trị. Nguyễn Ánh đến Xiêm lần đầu vào khoảng năm 1781, sau khi liên tục bị Tây Sơn truy đuổi và mất đi nhiều căn cứ quan trọng.

Tại Xiêm La, Nguyễn Ánh được triều đình tiếp đón và cho phép trú ngụ ở khu vực Samsen và Bangpho, gần kinh đô Vọng Các (Bangkok ngày nay). Tuy nhiên, mối quan hệ ban đầu giữa ông và vua Taksin không hoàn toàn suôn sẻ. Taksin từng nghi ngờ ý đồ của Nguyễn Ánh, đặc biệt khi ông từ chối lời đề nghị thông gia với hoàng gia Xiêm. Thậm chí, có thời điểm Taksin ra lệnh bắt giam một số người thân cận của Nguyễn Ánh, như Xuân Quận Công và gia đình Mạc Thiên Tứ, do nghi ngờ họ làm nội gián. Điều này khiến Nguyễn Ánh phải bí mật rời Xiêm về Phú Quốc vào năm 1787 để tránh nguy cơ bị tiêu diệt.

Tình hình thay đổi lớn khi Xiêm La xảy ra chính biến vào năm 1782. Tướng Chao Phraya Chakri, sau này lên ngôi với danh hiệu Rama I, lật đổ Taksin và lập ra vương triều Chakri. Rama I, người từng có giao hảo với Nguyễn Ánh từ trước, tỏ ra cởi mở hơn trong việc hỗ trợ vị chúa Nguyễn lưu vong. Khi Nguyễn Ánh trở lại Xiêm vào năm 1785 sau trận thua ở Thổ Châu, ông được Rama I chào đón nồng hậu và cung cấp nơi trú ẩn. Tại đây, ông tập hợp lực lượng, nhận viện trợ từ Xiêm La, bao gồm quân lính, thuyền bè và vũ khí, để chuẩn bị cho cuộc phản công.

Đỉnh cao của sự hợp tác này là năm 1784-1785, khi Rama I đồng ý gửi một đội quân lớn, ước tính khoảng 20.000 thủy lục quân, phối hợp với lực lượng của Nguyễn Ánh để tấn công quân Tây Sơn tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, chiến dịch này thất bại thảm hại trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút, khi liên quân Xiêm-Nguyễn bị Nguyễn Huệ đánh tan. Thất bại này không chỉ làm giảm uy tín của Nguyễn Ánh mà còn khiến Rama I thận trọng hơn trong việc can thiệp sâu vào Việt Nam. Dù vậy, mối quan hệ giữa hai bên vẫn được duy trì, với các hoạt động giao thiệp ngoại giao thường xuyên, Rama 1 vẫn nhớ ơn Chúa Ánh rất nhiều khi 4 lần chính chúa Ánh làm quân sư thắng trận chống Miến Điện quân đội mạnh nhất ĐNA thời đó xâm lăng. Quân Miên Điện đánh trận địa chiến thắng quân Thanh sòng phẳng chứ không đánh úp kiểu Nguyễn Huệ. Nên họ cực kỳ mạnh. Ánh vẫn lập mưu giúp Chakri thắng 4 lần.

Đơn cử: “Tháng 2 ÂL năm 1786, trong lúc chúa Nguyễn Ánh cùng tướng sĩ còn nương náu ở thành Vọng Các thì được tin quân Miến Điện chia thành ba ngả tiến công vùng đất Sài Nặc của Xiêm. Vua Xiêm thân chinh cầm quân đánh giặc, trước khi đi đã tham khảo ý kiến chúa Nguyễn. Ông trả lời ' Miến Điện cất quân từ xa lại, chở lương đi hàng nghìn dặm, kể đã mệt rồi. Tôi xin giúp sức, đánh chóng hẳn được'. Sau đó Nguyễn Ánh cho quân ra trợ chiến vua Xiêm, cử Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa tấn công quân Miến Điện, gây cho đối phương nhiều thương vong, bắt được 500 tù binh, chiến công của chúa Ánh và tướng sĩ tòng vong khiến vua Xiêm Rama 1 vô cùng cảm kích, mang vàng lụa ra tạ ơn..."

Trong thời gian ở Xiêm, Nguyễn Ánh không chỉ tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự mà còn học hỏi kinh nghiệm từ vương triều Chakri, đặc biệt là cách tổ chức quân đội và chiến lược đối phó với kẻ thù sau này là Nguyễn Huệ. Những năm tháng lưu vong này rèn giũa ý chí của ông, giúp ông xây dựng lại lực lượng và cuối cùng trở về Gia Định, đánh bại Tây Sơn vào năm 1802 để lên ngôi hoàng đế.

Hành trình của Nguyễn Ánh tại Xiêm La là minh chứng cho sự kiên trì và khéo léo trong ngoại giao của ông. Dù phải đối mặt với nhiều thử thách, từ sự nghi kỵ ban đầu của Taksin đến thất bại quân sự dưới thời Rama I, ông vẫn tận dụng được sự hỗ trợ từ Xiêm La để đặt nền móng cho triều đại của mình. Giai đoạn này không chỉ là một câu chuyện về sự sống sót mà còn là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 18.
Chuyện này đúng thật giờ tao mới biết. Ánh đúng chân mệnh thiên tử cmnr :vozvn (53):
 

Có thể bạn quan tâm

Top