Tại sao những chuyện ấy không xảy ra cho Việt Nam? Khác với Nam Chiếu ở Vân Nam, và các quốc gia thiểu số bên lề đế quốc Trung Hoa khác, dân Lạc Việt ngay từ đầu đã tập trung mạnh mẽ tại các vùng đồng bằng với một nền kinh tế căn bản dựa trên việc trồng cây lúa nước. Ngoài ra khác với vùng Ba Thục, quê hương của các dân Ba và dân Thục nay chỉ còn lại một thiểu số rất nhỏ, vùng đất của dân ta nằm cách xa trung tâm quyền lực và dân cư của Trung Quốc.
Kiểm tra nhân hộ khẩu do nhà Hán thực hiện cho thấy dân cư quận Giao Chỉ đông nhất trong bẩy quận của Giao Châu thời đó, nhiều gấp 7 lần số dân tại Quảng Đông hiện nay. Bảng kiểm tra nhân hộ khẩu tại Giao Châu dưới hai thời Tây Hán và Đông Hán dưới đây cho thấy rõ tình hình dân số giữa Việt Nam hiện nay và vùng Nam Hoa trong thế kỷ thứ nhất và những biến động trong dân số này do di dân tạo ra:
Quận | Tiền Hán (kiểm tra năm CN 2) | | Hậu Hán (kiểm tra năm CN140) | |
Tại Hoa Nam | Hộ | Nhân Khẩu | Hộ | Nhân Khẩu |
Nam Hải | 19.613 | 94.253 | 71.477 | 250.282 |
Thương Ngô | 24.379 | 148.160 | 111.395 | 466.975 |
Uất Lâm | 12.415 | 71.162 | ... | ... |
Hợp Phố | 15.398 | 78.980 | 23.121 | 86.617 |
Tổng cộng | 71.805 | 390.555 | | |
Tại Việt Nam | | | | |
Giao Chỉ | 92.440 | 746.237 | ... | .... |
Cửu Chân | 35.743 | 166.013 | 46.513 | 209.894 |
Nhật Nam | 18.263 | 100.676 | | |
Tổng Cộng | 143.643 | 981.755 | | |
(Số liệu:
Hán Thư và Hậu Hán Thư - Quận Quốc Chí)
So sánh hai cuộc kiểm kê nhân hộ khẩu cách nhau trên một trăm năm trên, ta có thể thấy ngay mức độ gia tăng dân số tại những quận thuộc vùng Hoa Nam là dựa trên di dân rất nhiều. Trong vòng trên một trăm năm, số nhân khẩu tại Nam Hải (khu vực Quảng Châu hiện nay) tăng 2,5 lần trong khi sô hộ tăng hơn ba lần. Điều này chứng tỏ rằng có một phong trào di cư từ miền Bắc xuống với số người di cư phần lớn là những hộ trẻ chưa có con cái hoặc là những người độc thân. Tương tự như vậy, quận Thương Ngô (khu vực Quế Lâm hiện nay) đã gia tăng số nhân khẩu lên hơn gấp ba, trong khi số hộ tăng hơn bốn lần. Mặc dầu vậy, so với Giao Chỉ thì ngay cả sau một trăm năm di dân hai quận Nam Hải và Thương Ngô họp lại vẫn còn ít dân hơn.
Tại những quận ở Việt Nam, tuy rằng ta không có con số cho quận Giao Chỉ trong cuộc kiểm kê năm 140, nhưng dựa vào những số liệu cho các quận Nhật Nam và Cửu Chân, ta có thể thấy dân số tại hai quận này phần chính là gia tăng một cách tự nhiên. Coi số liệu cho hai quận Nhật Nam và Cửu Chân như là tiêu biểu cho toàn thể vùng sinh sống của người Việt, ta thấy số gia tăng nhân khẩu là 31 phần trăm trong khi số gia tăng hộ khẩu là 27 phần trăm, Như vậy trái với tại các quận phương bắc, số nhân khẩu trong một hộ nhiều hơn một chút, phù hợp với việc gia tăng dân số một cách tự nhiên.
Điều này không có nghĩa là các quận của Việt Nam không có những người Hán di cư tới. Tình trạng rối loạn cuối đời Tây Hán trong những năm từ CN9 cho đến CN23 khi Vương Mãng tiếm ngôi nhà Hán đã đẩy một số đông người Hán từ Bắc chạy xuống Nam. Hầu hết những người này chắc hẳn định cư tại các quận phương Bắc, nhưng chắc hẳn cũng có một số di cư xa hơn xuống định cư tại các vùng thuộc Việt Nam hiện nay, nhưng con số này chắc chắn không đủ lớn để chi phối về văn hoá xã hội dân Lạc. Hầu hết những người nhập cư này vì vậy dần dà đã bị hấp thụ vào trong xã hội bản xứ và trở thành "người Nam".
Tiến trình này tiếp tục diễn ra trong những thế kỷ sau đó, Căn cứ vào những dữ liệu của các cuộc kiểm tra nhân hộ khẩu của các triều đại sau đó, ta thấy, nếu vào đời Hán, con số hộ tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hiện nay của Trung Quốc chỉ bằng một nửa số hộ tại Việt Nam thì đến thế kỷ thứ 4, số hộ tại hai tỉnh này đã hơn gấp rưỡi số hộ tại Việt Nam (1,68 lần). Sang thế kỷ thứ năm, số hộ tại Lưỡng Quảng đã tăng lên gần gấp năm lần (4,85 lần) và đến thế kỷ thứ 8 thì hơn gấp năm lần (5,36 lần).
Những con số này tuy rằng không phản ảnh dân số thực sự tại Việt Nam cũng như tại Lưỡng Quảng nhưng nó cũng cho thấy sự khác biệt trong áp lực đồng hóa tại vùng Hoa Nam so với Việt Nam. Nó đã giải thích rõ tại sao sau này, vùng Hoa Nam đã trở thành một bộ phận cơ bản của lãnh thổ Trung Quốc. Sang thế kỷ thứ 9 với vùng Hoa Nam bắt đầu được định cư khá dầy đặc, số lượng người Hoa di cư sang Việt Nam có thể đông hơn, nếu sự thống trị của các chính quyền phương Bắc vẫn đuợc duy trì trong những thế kỷ tới; nhưng đây lại là vào lúc gần cuối thời kỳ cai trị của Trung Quốc. Dân Việt đã trưởng thành hơn và đã đủ lực lượng để có thể đứng ra tự chủ.