

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Tháng 11/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton được người dân chào đón tại TP HCM, nơi ngày trước là đô thành Sài Gòn từng chứng kiến cuộc sơ tán trong hoảng loạn của người Mỹ vào tháng 4/1975
- Tác giả,Zachery Tayler
- Vai trò,Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Ohio, Hoa Kỳ
- 5 giờ trước
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam bước vào một giai đoạn mới. Cả hai bên đều mong muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhưng lại đưa ra những điều kiện tiên quyết khiến tiến trình này trở nên khó khăn. Việt Nam kỳ vọng Hoa Kỳ sẽ bồi thường 3,25 tỷ đô la để giúp hàn gắn những vết thương chiến tranh.
Lý do là vì sau chiến tranh, Việt Nam rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, với đất nước bị tàn phá nghiêm trọng trên nhiều phương diện. Hàng trăm ngàn cựu quan chức của Việt Nam Cộng hòa bị đưa vào các trại cải tạo. Tình trạng kinh tế càng thêm kiệt quệ do lệnh cấm vận từ phía Mỹ và mô hình kinh tế chỉ huy cứng nhắc. Trong bối cảnh đó, Việt Nam rất cần viện trợ kinh tế và kỳ vọng Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò trong việc hỗ trợ phục hồi quốc gia.
Tại Hoa Kỳ, nhiều người muốn quên đi cuộc chiến ở Việt Nam - cuộc chiến đầu tiên mà Mỹ đã thất bại. Tuy vậy, Tổng thống Gerald Ford vẫn kỳ vọng Việt Nam sẽ hợp tác trong các vấn đề nhân đạo, đặc biệt là việc tìm kiếm binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA).
Từ khi chiến tranh kết thúc cho đến tháng 1 năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ gặp nhau đúng một lần để thảo luận về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Cuộc gặp này diễn ra vào tháng 11 năm 1976, sau khi Jimmy Carter đánh bại Gerald Ford trong cuộc bầu cử tổng thống. Tuy nhiên, cuộc họp không đạt kết quả do cả hai bên đều giữ nguyên các điều kiện tiên quyết để cải thiện quan hệ. Hà Nội hy vọng tổng thống kế nhiệm sẽ có lập trường cởi mở hơn đối với yêu cầu viện trợ của mình.
Những cơ hội bị bỏ lỡ: Việt Nam vào cuối thập niên 1970

Nguồn hình ảnh,AFP/Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền (bìa phải) gặp Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương Richard Holbrooke (trái, áo sáng) trong cuộc họp vào ngày 19/12/1977 tại Sài Gòn nhằm tìm giải pháp thiết lập quan hệ ngoại giao
Tổng thống Jimmy Carter đã không làm điều đó. Tuy nhiên, không giống như Tổng thống Ford, ông Carter ủng hộ việc nhanh chóng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Vào tháng 3 năm 1977, ông đã cử một phái đoàn đến Hà Nội, do Leonard Woodcock dẫn đầu, để thảo luận về việc bình thường hóa quan hệ và vấn đề binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh. Cuộc họp diễn ra thuận lợi, với việc Woodcock báo cáo rằng giới lãnh đạo Hà Nội hiểu rằng họ sẽ không nhận được khoản 3,25 tỷ đô la để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ. Dù ban đầu có vẻ lạc quan, nhưng không bao lâu sau tình hình cho thấy rõ Việt Nam sẽ không từ bỏ yêu cầu viện trợ của mình.
Trong những năm ngay sau chiến tranh, Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Một trong số đó là cuộc khủng hoảng người tỵ nạn Đông Dương. Việc bị giam giữ cưỡng bức trong các trại cải tạo và tình trạng thiếu thốn cơ hội kinh tế đã khiến hàng trăm ngàn người Việt Nam buộc phải rời bỏ quê hương. Nhiều người liều mình vượt biển trên những con thuyền mong manh, không chịu nổi sóng gió.
Một số may mắn đến được các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, như Thái Lan hoặc Malaysia, rồi tiếp tục đến Mỹ, Canada hoặc châu Âu. Cuối cùng, các cơ quan của Liên Hợp Quốc, bao gồm Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tỵ nạn, đã hợp tác với Việt Nam để thiết lập Chương trình Ra đi Có trật tự (ODP) vào năm 1979, nhằm hỗ trợ những người Việt muốn rời khỏi đất nước bằng con đường an toàn và hợp pháp. Trong hai thập niên tiếp theo, hơn 1,2 triệu người Việt Nam đã được tái định cư trên toàn thế giới.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Một chiếc thuyền chở người Việt Nam vượt biên vào năm 1978, giữa lúc cuộc khủng hoảng tỵ nạn đang ở đỉnh điểm
Với việc Việt Nam thiếu hụt cơ sở công nghiệp sau chiến tranh và cuộc khủng hoảng người tỵ nạn buộc nhiều người phải rời bỏ đất nước, giới lãnh đạo Hà Nội – đứng đầu là Lê Duẩn – rất cần sự hỗ trợ từ nước ngoài để khôi phục nền kinh tế. Quan hệ giữa Việt Nam với đồng minh lâu năm ở phương Bắc, Trung Quốc, đã trở nên căng thẳng.
Trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam cuối cùng đã ngả về phía Liên Xô trong cuộc xung đột kéo dài giữa Trung Quốc và Liên Xô. Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng ngăn Hà Nội tiến quá gần với Moscow, Hà Nội khi ấy rất cần sự hỗ trợ tài chính và quân sự từ Liên Xô. Các chính sách trấn áp người Hoa tại Việt Nam càng khiến tình hình thêm căng thẳng, góp phần làm rạn nứt quan hệ với Bắc Kinh.
Một yếu tố quan trọng khác trong quan hệ Việt-Trung là vấn đề Campuchia. Dù từng ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc cách mạng giành quyền lực tại Campuchia, mối quan hệ giữa hai nước đã nhanh chóng xấu đi. Pol Pot, lãnh đạo của Campuchia Dân chủ, đã ra lệnh cho quân đội nhiều lần tấn công các tỉnh biên giới của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho dân thường.
Trước tình thế kinh tế kiệt quệ và áp lực từ các đối thủ ở cả phía bắc lẫn phía tây nam, Việt Nam buộc phải dựa vào Liên Xô như là nguồn hỗ trợ chính. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn hy vọng có thể nhận được sự hỗ trợ kinh tế từ Hoa Kỳ và thực sự mong muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Nhưng cơ hội quý báu ấy đã bị bỏ lỡ ngay trong năm đầu tiên nhiệm kỳ của Tổng thống Carter.
Các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao đã diễn ra ba lần sau chuyến thăm Hà Nội của phái đoàn do Leonard Woodcock dẫn đầu vào tháng 3 năm 1977. Các vòng đàm phán tiếp theo diễn ra vào các tháng 5, 6 và 12 cùng năm. Trong mỗi cuộc gặp, phái đoàn Việt Nam, thường do Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, đều đề nghị Mỹ cung cấp viện trợ kinh tế để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ. Tuy nhiên, phía Mỹ, do Trợ lý Ngoại trưởng Richard Holbrooke dẫn đầu, đều từ chối đề nghị này.
Bằng chứng cho thấy đã có những bất đồng trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam. Lãnh đạo Hà Nội dần thất vọng vì tiến trình ngoại giao với Mỹ không đạt được kết quả như mong muốn. Một số thành viên, trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, cho rằng Việt Nam nên tiến hành bình thường hóa trước, rồi sau đó mới tính đến chuyện nhận viện trợ kinh tế từ Mỹ. Ngược lại, phe cứng rắn hơn, đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn và được Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh ủng hộ, khăng khăng rằng viện trợ phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ bước tiến ngoại giao nào với Washington.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Tổng Bí thư Lê Duẩn được cho là kiên quyết bảo vệ lập trường rằng viện trợ phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ bước tiến ngoại giao nào với Washington
Dù hai bên chưa thể thống nhất về việc bình thường hóa quan hệ, song vẫn có những bước tiến rõ rệt ở các lĩnh vực khác. Chính phủ Việt Nam, đang đối mặt với nhiều khó khăn và nguồn lực hạn chế, vẫn nỗ lực hợp tác với Mỹ trong việc tìm kiếm và xác minh hài cốt của các binh sĩ Mỹ mất tích trong chiến tranh.
Các cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ đã bị đình chỉ vào năm 1978. Trong suốt năm đó, căng thẳng Chiến tranh Lạnh gia tăng nhanh chóng, khi Mỹ siết chặt quan hệ với Trung Quốc nhằm làm đối trọng với liên minh Xô-Việt. Khi hai bên gặp lại vào tháng 9 năm 1978 để tiếp tục thảo luận, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi đáng kể. Cuộc họp tháng 9 trở thành một cơ hội bị bỏ lỡ khác, dù Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc ấy đã chấp nhận từ bỏ yêu cầu viện trợ kinh tế như một điều kiện tiên quyết.
Đáng tiếc là giữa tháng 10, Tổng thống Jimmy Carter ra quyết định đình chỉ tiến trình bình thường hóa với Việt Nam cho đến khi Washington hoàn tất việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Phái đoàn Việt Nam đã ở lại New York nhiều tháng trời, nhưng phía Mỹ không còn phản hồi. Một lý do khác khiến chính quyền Carter tạm ngưng đối thoại là cuộc khủng hoảng người tỵ nạn Đông Dương đang diễn ra, vốn đã gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh quốc tế của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng này lên đến đỉnh điểm vào cuối thập niên 1970, khi bạo lực và xung đột giữa các quốc gia trong khu vực Đông Dương ngày càng leo thang.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Lính Việt Nam tấn công vào Phnom Penh vào năm 1979
Chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài của tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt–Mỹ chính là cuộc tấn công Campuchia của Việt Nam vào tháng 12 năm 1978. Lê Duẩn đã bắt đầu lên kế hoạch lật đổ Pol Pot từ đầu năm, và kế hoạch ấy được thực hiện vào cuối năm. Mặc dù hầu hết các nước không tiếc nuối khi thấy Pol Pot bị loại bỏ, phần lớn cộng đồng quốc tế vẫn lên án hành động quân sự của Việt Nam là vi phạm chủ quyền lãnh thổ.
Thêm vào đó, nhà nước mới – Cộng hòa Nhân dân Campuchia – được thành lập dưới sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Việt Nam, khiến nhiều nước xem đây là một hình thức kiểm soát gián tiếp. Tuy nhiên, từ góc nhìn của Hà Nội, đây là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một quốc gia đệm thân thiện ở phía tây nam, đồng thời loại bỏ một trong những đồng minh nguy hiểm của Trung Quốc trong khu vực. Cuộc can thiệp quân sự này đã khiến tiến trình đàm phán bình thường hóa với Hoa Kỳ đóng băng suốt hơn một thập niên sau đó.
Việc Việt Nam đóng quân lâu dài tại Campuchia đã làm gia tăng đáng kể sự phụ thuộc của Hà Nội vào Liên Xô. Vào thời điểm đó, Liên Xô gần như hoàn toàn trợ cấp cho nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Hành động can thiệp quân sự của Việt Nam khiến nhiều quốc gia Đông Nam Á tức giận, đặc biệt là trong bối cảnh họ kỳ vọng Hà Nội sẽ chấm dứt các hoạt động quân sự sau Chiến tranh Việt Nam.
Nhiều lực lượng dân quân Campuchia đã đứng lên chống lại sự hiện diện của quân đội Việt Nam. Trong số đó có các nhóm phi ******** do Hoàng thân Sihanouk và Son Sann lãnh đạo, cũng như Khmer Đỏ – tất cả đều nhận được sự hậu thuẫn từ Thái Lan, Mỹ và đặc biệt là Trung Quốc. Để trả đũa việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia, Trung Quốc đã phát động một cuộc tấn công trừng phạt vào miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Dù cuộc chiến chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng đã khiến hàng chục ngàn người thiệt mạng ở cả hai phía. Ngay sau đó, nhiều nhà quan sát đã nhận định rằng cuộc chiến này sẽ trở thành "Chiến tranh Việt Nam của Việt Nam."