Bí ẩn mộ cổ vua Quang Trung

Có bằng chứng gì không?
M hỏi bằng chứng là bằng chứng gì? M đến mà xem chứ, hay t lại phải ra chụp chữ Hán cho m cộng thêm việc cả cái bán đảo Linh Đàm có mỗi cái mộ đá to đùng từ xưa đến nay, to hơn rất nhiều so với mộ m thường thấy, đc ghép từ 4 miếng đá cực to nhé không cần xi măng hay cái gì đâu.
 
Tao nghĩ nguy cơ cao bị triều Nguyễn quật đổ sông hết cmnr. Truyền thồng Á đông là mồ mả phải dc con cháu chăm sóc, và cũng ko chôn theo quá nhiều châu báu, nên đa số mộ vua chúa thường công khai chứ phải giấu diếm như tụi Ai Cập. :vozvn (20):
Truyền thống cec, cái trò quật mộ chỉ có xứ Vẹm là hay làm. Bên TQ rất hiếm khi động vào mồ mả các đời vua trước vì sợ bị nguyền, chưa kể còn làm mất lòng dân. Khi triều đại trước bị lật đổ thì thường vua mới lên nó sẽ sắc phong cho hoàng thân quốc thích đời triều trước 1 cái danh gì đó và 1 miếng đất cho về ở ẩn chăm lo mồ mả
 
M hỏi bằng chứng là bằng chứng gì? M đến mà xem chứ, hay t lại phải ra chụp chữ Hán cho m cộng thêm việc cả cái bán đảo Linh Đàm có mỗi cái mộ đá to đùng từ xưa đến nay, to hơn rất nhiều so với mộ m thường thấy, đc ghép từ 4 miếng đá cực to nhé không cần xi măng hay cái gì đâu.
Nói rất nhãm nhí
Mày kêu cái bia đá có chữ Quang Trung đâu?
Bằng chứng đâu?
 
Nói rất nhãm nhí
Mày kêu cái bia đá có chữ Quang Trung đâu?
Bằng chứng đâu?
T cho m cả địa chỉ rồi đấy, m vào bán đảo Linh Đàm hỏi người già dân làng Linh Đường xem có ai không biết không? Còn m cần chữ thì m đến mà xem t không muốn tốn thêm time đi tranh luận với m
 
T cho m cả địa chỉ rồi đấy, m vào bán đảo Linh Đàm hỏi người già dân làng Linh Đường xem có ai không biết không? Còn m cần chữ thì m đến mà xem t không muốn tốn thêm time đi tranh luận với m
Vậy tóm lại không có bằng chứng gì cả
 
T cho m cả địa chỉ rồi đấy, m vào bán đảo Linh Đàm hỏi người già dân làng Linh Đường xem có ai không biết không? Còn m cần chữ thì m đến mà xem t không muốn tốn thêm time đi tranh luận với m
À, vụ đấy tau hỏi rồi. Người ta bảo đéo biết :vozvn (12):
 
Mộ ở linh đường là mộ của một công chúa nhà Trịnh
Toản nhận đại để lừa bọn Thanh
Gia Long điều tra rõ ràng nên chả cần đào bới .
Nên nhớ Gia Long đã điều tra rất kỹ mọi thứ của Huệ trong trận chiến này
Nên đéo bao giờ có chuyện đào nhầm mộ
Thế bằng chứng đâu m xác định đây là mộ của công chúa nhà Trịnh, nhà Trịnh có bn công chúa m xác định được đây là vị nào ko? Sao m biết Gia Long điều tra rõ ràng và rất kỹ nguồn đâu? Thằng ngu
 
Thế bằng chứng đâu m xác định đây là mộ của công chúa nhà Trịnh, nhà Trịnh có bn công chúa m xác định được đây là vị nào ko? Sao m biết Gia Long điều tra rõ ràng và rất kỹ nguồn đâu? Thằng ngu
Tuy nhiên, năm 1989, sau khi ngôi mộ được khảo cổ, GS Nguyễn Lân Cường cho biết: Chủ nhân ngôi mộ này là bà phi Nguyễn Thị Hoa Dung của chúa Trịnh Sâm…
 
1989 mà làm như 1789 vậy
Làm gì có chuyện giám định xương cốt mà ko biết nam nữ
Ảnh 1989 khi khai quật đây m, đọc link t có đính kèm đó tất cả chỉ là mở ra và đoán định thôi, chứ năm 1989 nghèo bome ra còn chưa hội nhập thì lấy đâu ra chính xác
 
Tuy nhiên, năm 1989, sau khi ngôi mộ được khảo cổ, GS Nguyễn Lân Cường cho biết: Chủ nhân ngôi mộ này là bà phi Nguyễn Thị Hoa Dung của chúa Trịnh Sâm…
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm. Nguồn https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễ...xt=Linh cữu của bà được,mẫu hay lăng bà Trịnh. Có cần ảnh dòng họ t đến thắp hương lăng này không?

Tuy nhiên, năm 1989, sau khi ngôi mộ được khảo cổ, GS Nguyễn Lân Cường cho biết: Chủ nhân ngôi mộ này là bà phi Nguyễn Thị Hoa Dung của chúa Trịnh Sâm…
Với m đọc cái thằng cha Nguyễn Lân Cường kết luận xem, là đi hỏi người trong làng để đoán chứ ko phải giám định nhé
 
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm. Nguồn https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Ngọc_Diễm#:~:text=Linh cữu của bà được,mẫu hay lăng bà Trịnh. Có cần ảnh dòng họ t đến thắp hương lăng này không?


Với m đọc cái thằng cha Nguyễn Lân Cường kết luận xem, là đi hỏi người trong làng để đoán chứ ko phải giám định nhé
Mày ngu nửa
Bà này là Ngọc Diễm mẹ anh sâm bà nội anh khải
Còn mộ ở linh đàm là bà nguyễn thị hoa dung vợ anh sâm
 
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm. Nguồn https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Ngọc_Diễm#:~:text=Linh cữu của bà được,mẫu hay lăng bà Trịnh. Có cần ảnh dòng họ t đến thắp hương lăng này không?


Với m đọc cái thằng cha Nguyễn Lân Cường kết luận xem, là đi hỏi người trong làng để đoán chứ ko phải giám định nhé
 
Mày ngu nửa
Bà này là Ngọc Diễm mẹ anh sâm bà nội anh khải
Còn mộ ở linh đàm là bà nguyễn thị hoa dung vợ anh sâm
Hoa Dung là mẹ chúa Trịnh Sâm, vợ chúa Trịnh Doanh nghe m. M học lịch sử kiểu gì đấy. Nguồn: https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/9499/tham-vong-quyen-luc-cua-ba-hoang-hoa-dung.html. Bao nhiêu năm t sưu tầm, đọc nhiều nguồn lắm rồi nên m đọc cái gì đọc cẩn thận dẫn chứng t xem hộ cái.
 
Công chúa hay bà chúa nào được mặc áo rồng m, quan tài thì đục 7 lỗ. Với nhà chúa Trịnh chôn hết ở TH nhé. Trích dẫn: "
Chuyện là, vào tháng giêng năm Càn Long thứ 58 (1793), vua Thanh nhận được tin báo là Quang
Trung đã mất ở Nghệ An vào tháng 9 năm Nhâm Tý năm 1973, Càn Long nói với các đại thần rằng:
“Nghe tin, Trẫm vô cùng thương tiếc. Quốc vương mất từ tháng 9 năm ngoái mà giờ mới được tin
báo là quá chậm. Chắc giờ đây đã tống táng rồi, không kịp làm lễ vĩnh tôn nữa, Trẫm đã làm một bài
thơ riêng giao cho án sát Quảng Tây đem qua Nghệ An để đốt trước mộ, lại ban cho quốc vương các
cấp đạt (1) chuẩn trích ở kho Quảng Tây ra ba ngàn lạng bạc để lo tang lễ, tất cả giao cho Thành Lâm
mang sang phúng điếu... (2)
_____________________________
(1) Vật bằng lụa quý, người Tây Tạng dùng để thờ Phật.
(2) Đông Hoa toàn lục, Q. 1 17, tr. 24.
Bài thơ Càn Long tặng như sau:
Dịch là:
Lệ cũ bang giao cử bồi thần
Giáo hiếu càng ngày thêm thiết thân
Nhớ mãi năm xưa cùng hội ngộ
Đáng cười Minh đế lệ kim nhân (1)
Nhớ người thu trước trông rạng rỡ
Nghĩa nặng tình sâu với cố nhân
Bảy chữ xót xa lòng quyến luyến (2)
Giờ còn đâu nữa - Hỡi tri âm! (3)
Ở bên này, vua quan Tây Sơn theo lời căn dặn của Quang Trung đã chuẩn bị xong một ngôi mộ giả
ở Linh Đường (4) (ở gần Hồ Tây) để đón khách từ Trung Quốc sang điếu tang.
Lúc Thành Lâm đến Thăng Long, cũng như nội dung trong bài biểu báo tang của Ngô Thì Nhậm
trước đó, Quang Toàn nói với Thành Lâm rằng: “Hoàng thượng có trối trăn lại là sau khi chết nhớ đưa
ta ra Hồ Tây để an táng, chứ đừng đưa về Nghệ An. Vì Hồ Tây qua biên giới chỉ có mấy ngày đường
để linh hồn của ta hôm sớm được gần gũi thiên triều”.
Tưởng thật, viên sứ thần của nhà Thanh quá cảm động, Thành Lâm thành khẩn đến trước ngôi mộ
của Linh Đường, đọc bài điếu văn của vua Càn Long đã cho khắc trước vào một tấm bia, làm bằng đá
ngọc quý giao cho Thành Lâm mang sang và đặt bên trái “ngôi mộ giả” của vua Quang Trung." Nguồn: https://khoahoctamlinh.vn/img/news/...oang-de-quang-trung-pdf-khoahoctamlinh.vn.pdf. Đọc thêm trích dẫn bên trên t có đề cập Ai tư vãn của công chúa Lê Ngọc Hân. Nói chung binh bất yếm trá, giả giả thật thật. Còn hiện tại không biết người trong mộ là ai, vì gia phả chúa Trịnh táng hết ở TH rồi.
vậy chắc là mộ của nàng Bạch Tuyết, còn 7 cái lỗ để 7 chú lùn chui ra chui vào cho tiện
 
Mọe thằng chủ thớt đã ngu còn cãi cùn, dùng cái đầu 1 tí đi mày, Nguyễn Ánh quan tâm thật giả đéo bao giờ, cứ liên quan tới Huệ là đập hết thì còn sót cái mộ giả cho dòng họ mày trông đc kiểu gì :vozvn (21):
Tao nghĩ thuyết âm mưu là dòng họ nhà mày là quân lừa đảo đấy, cố ngụy tạo bằng chứng mộ đấy của Huệ để lấy fame thời này, chứ ở thời Ánh thì họ nhà mày tuyệt dòng cmnr :vozvn (19):
 
Mọe thằng chủ thớt đã ngu còn cãi cùn, dùng cái đầu 1 tí đi mày, Nguyễn Ánh quan tâm thật giả đéo bao giờ, cứ liên quan tới Huệ là đập hết thì còn sót cái mộ giả cho dòng họ mày trông đc kiểu gì :vozvn (21):
Tao nghĩ thuyết âm mưu là dòng họ nhà mày là quân lừa đảo đấy, cố ngụy tạo bằng chứng mộ đấy của Huệ để lấy fame thời này, chứ ở thời Ánh thì họ nhà mày tuyệt dòng cmnr :vozvn (19):
Ít ra thì t có dẫn nguồn giả thuyết, chứ cái m bảo liên quan tới Huệ là đập hết thì m có đưa đc nguồn đ đâu. T đang bàn chuyện giả thuyết lịch sử chứ t cũng k có khẳng định, chứ nhà t với dòng họ Ngô Thì cũng mất bn năm viết đơn nhờ giám định lại r cũng đ cần fame mà phải lên đây. Chim khôn nói tiếng rảnh rang/ nên nói có sách mách có chứng, không dẫn đc nguồn thì ngậm cmm mồm vào.
 
Mọe thằng chủ thớt đã ngu còn cãi cùn, dùng cái đầu 1 tí đi mày, Nguyễn Ánh quan tâm thật giả đéo bao giờ, cứ liên quan tới Huệ là đập hết thì còn sót cái mộ giả cho dòng họ mày trông đc kiểu gì :vozvn (21):
Tao nghĩ thuyết âm mưu là dòng họ nhà mày là quân lừa đảo đấy, cố ngụy tạo bằng chứng mộ đấy của Huệ để lấy fame thời này, chứ ở thời Ánh thì họ nhà mày tuyệt dòng cmnr :vozvn (19):
Cái thi hài đó của phụ nữ
Các nhà khảo cổ học phân tích mẫu xương rồi nên đéo thể là mộ của Huệ được
 
tên là Lăng Hoa Dung nhưng thờ bà Ngọc DIễm à :-j

Kỳ 2: Ngôi mộ cổ Linh Đường và bí mật về bà hoàng trong lăng đá

04/01/2005 | 07:00
Những bóng đen thoắt ẩn, thoắt hiện như những bóng ma trong một đêm mùa đông năm Kỷ Tỵ (1989). Tiếng xà beng, cuốc chim bổ vội vàng vào ngôi mộ cổ, phát ra những âm thanh dữ dội.
Kỳ 2: Ngôi mộ cổ Linh Đường và bí mật  về bà hoàng trong lăng đá
Chờ ba bóng đen chụm đầu vào nhau, các chiến sỹ an ninh bất thần ập đến, tóm gọn. Việc bắt giữ diễn ra hết sức mau lẹ nên hai tên đang trộm đào mộ ở bên trong không hề hay biết. Chỉ khi nghe tiếng súng nổ chát chúa bên tai, chúng mới vội vàng tẩu thoát...
Dưới ánh sáng ban ngày, ngôi mộ cổ ở làng Linh Đường (Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội) hiện lên sừng sừng giữa đồng không mông quạnh. Dân làng đổ ra xem ngôi mộ vô danh đã “trơ gan cùng tuế nguyệt” ở đây mấy trăm năm nhưng chẳng mấy ai để ý đến. Tiếng nổ của khối bộc phá nặng chừng nửa cân phá tan cửa lăng đá, mọi người nhìn rõ lỗ thủng trên áo quan.
567.jpg

Hiện vật trong ngôi mộ cổ Linh Đường
Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Cường - người trực tiếp khai quật ngôi mộ cổ Linh Đường - dường như vẫn còn nguyên cảm giác khi thấy nắp quan tài bật ra. “Đó là một ngôi mộ đặc biệt mà trong quãng đời theo nghiệp khảo cổ, tôi chưa từng bắt gặp”.
Mộ có cấu trúc đặc biệt gồm lăng đá, quách tam hợp và quan tài. Lăng đá được làm theo dạng khối hộp chữ nhật, bên trong có mái che. Lăng đá dài 4,1m, rộng 3,0m, chiều cao từ đỉnh nóc xuống đến chân lăng khoảng 3m. Phần nhiều các mộ xác ướp đã phát hiện không bao giờ xây lăng đá nổi bên trên, nếu có chăng chỉ là gò mộ được đắp bằng đất phủ lên, còn chủ yếu đều nằm chìm dưới đất. Nhìn vào lăng đá nổi, TS Cường đã tự hỏi phải chăng có những yếu tố kỹ thuật mai táng mới ở ngôi mộ cổ này?
Nằm trong lăng đá là lớp quách tam hợp, cũng được xây theo khối hộp chữ nhật rất kín. Quách tam hợp này kích thước chỉ nhỉnh hơn áo quan đôi chút nhằm bảo vệ cho áo quan. Quách được tạo từ vôi, cát mật trộn với giấy bản đã ngâm nước và giã nhỏ thành bột tạo thành một chất siêu bền, càng để lâu càng cứng. Quan tài được làm từ gỗ Ngọc Am – một loại gỗ quý hiếm được lấy từ lõi cây thông già. Gỗ rất thơm và chống được mối mọt.
Nắp quan tài được mở ra, đập vào mắt những nhà khảo cổ là một xác người được bó khá cầu kỳ. Lần lượt từ trong ra ngoài có 1 tấm chăn đại liệm gồm vỏ chăn gấm và ruột bông trắng tinh, 5 lớp vải đại liệm loại mộc màu trắng ngà, 1 mảnh vải lụa màu vàng che mặt, 2 mũ đội đầu bằng gấm và vải... Tử thi được mặc nhiều lớp váy áo, trong đó có 4 lớp áo gấm đặc biệt như áo gấm trang trí hoa văn đồng tiền, hoa văn kiểu hoa hướng dương. Sau 4 lớp áo này, còn có 3 kiểu áo khác gồm áo may kép, trên ve áo có hai chữ Hán là “Mụ đình”; áo gấm màu vàng có trang trí hình rồng và sóng nước; áo gấm màu vàng óng trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt... Ngoài ra, sát thân còn hơn chục lớp áo khác. Tổng cộng có cả thẩy 33 lớp áo cùng 9 lớp váy!
Đồ tuỳ táng chôn theo gồm 1 chiếc quạt giấy 14 nan còn nguyên vẹn, 1 túi đựng trầu gồm 37 miếng trầu còn tươi xanh như vừa mới hái, 34 quả cau hơi héo, một chuỗi tràng hạt đeo cổ gồm 105 hạt, trong đó có 104 hạt táo và 1 hạt ngọc... Các số đo nhân học cho phép đoán định người chết nằm trong mộ là một người đàn bà xinh đẹp, cao khoảng 1,50m, dáng người đẫy đà, khuôn mặt cân đối. Bà mất vào tuổi 62 đến 64 vào nửa cuối thế kỷ XVIII – thế kỷ đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Người đàn bà đó là ai?
Mộ cổ Linh Đường từng là mộ giả của vua Quang Trung?
Thường trong các ngôi mộ xác ướp của Việt Nam, người chết luôn mang theo tấm thẻ căn cước được gọi là tấm minh tinh, nói về hành tung và thân phận xã hội của mình. Nhưng tấm minh tinh đã không tìm thấy trong ngôi mộ cổ Linh Đường. Người chết là ai? Câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ ngay cả khi đã khai quật xong ngôi mộ.
“Lúc đó, tôi hơi hoang mang, không biết nghiên cứu theo hướng nào để xác định được thân phận của chủ ngôi mộ cổ. Đúng vào thời điểm đó, cách khu khai quật khoảng 500m về phía Bắc còn lại một tấm bia trụ in chữ 4 mặt được khắc vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Nội dung đề cập đến một người đàn bà họ Trần là cung phi trong phủ chúa Trịnh đã cúng tiền của đất đai... Một hướng nghiên cứu đã hé mở...” - TS Nguyễn Mạnh Cường nhớ lại.
Cùng thời gian đó, có người thuộc dòng họ Trần đã cho các nhà khảo cổ xem cuốn gia phả trong đó có nói tới một người đàn bà quyền thế ở phủ chúa, khi chết được an táng tại Lăng đá xứ thuộc cánh đồng Mô. Một vài người vội tin vào cuốn gia phả đã cho công bố kết quả nghiên cứu. Theo công bố thì chủ nhân của ngôi mộ là bà Dĩnh, người làng Linh Đường được phong là Chiêu Dung công chúa, khi chết có lăng đá để thờ. Công bố này được xem như một giả thiết lịch sử, nhưng sau khi nghiên cứu kỹ cuốn gia phả, các nhà khảo cổ nhận thấy bà Dĩnh là em vợ chúa Trịnh Tạc.
Theo quy định tang lễ nghiêm ngặt của chế độ phong kiến thì em vợ chúa khi chết không được mặc áo hoàng bào xuống mộ. Một chi tiết đáng lưu ý nữa là bà Dĩnh được nói trong gia phả sống ở nửa cuối thế kỷ XVII, trong khi đó các hiện vật tuỳ táng trong ngôi mộ đá lại xác nhận dấu vết của thế kỷ XVIII. Từ những tư liệu có cơ sở khoa học đó, các nhà khảo cổ học kết luận: Đức bà Dĩnh trong gia phả họ Trần không phải là chủ nhân của ngôi mộ cổ.
Chặng đường đi tìm lai lịch chủ nhân ngôi mộ tưởng như rơi vào ngõ cụt bỗng mở ra một hướng thênh thang khi các nhà khảo cổ tìm thấy trong Viện Thông tin (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam) một tài liệu lịch sử có đề cập đến Mỹ Vương, người làng Linh Đường, chủ sự việc kiêu binh sau khi Trịnh Sâm mất. Lần giở hồ sơ nói về cuộc đời Mỹ Vương, được biết ông tên thật là Nguyễn Mỹ, con trai Nguyễn Trọng Viêm. Nguyễn Trọng Viêm lại là anh trai Trịnh Thái Phi. Như vậy ở làng Linh Đường có người con gái họ Nguyễn lấy chúa Trịnh và là bà cô của Nguyễn Mỹ.
Các tư liệu lịch sử cho hay người con gái họ Nguyễn đó chính là bà Hoa Dung - Vợ chúa Trịnh Doanh, mẹ của chúa Trịnh Sâm. Sử cũ chép rằng bà Hoa Dung là người đoan trang, chính trực. Việc Đặng Thị Huệ âm mưu đưa con trai mình lên ngôi chúa khiến bà bất bình và tìm lời khuyên giải Trịnh Sâm. Tiếc rằng vị chúa luỵ tình này đang bệnh hiểm nghèo nên không xoay chuyển được tình thế. Sau khi chúa Trịnh mất, loạn kiêu binh đã lật nhào Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi chúa, bà Hoa Dung đã bức tử Đặng Thị Huệ. Nhưng chẳng bao lâu nhà Trịnh sụp đổ, bà bỏ về quê ở ẩn và mất tại đó. Phải chăng lúc này bà hoàng thất cơ nên đám ma đưa tiễn cũng chỉ diễn ra một cách vội vàng, đơn sơ với những gì lúc sống bà lưu giữ?
T.S Nguyễn Mạnh Cường dừng lại trước câu hỏi đó một hồi lâu rồi mới “cởi nút”: “ Sau khi khai quật ngôi mộ cổ được một thời gian, chúng tôi đọc được gia phả của dòng họ Nguyễn ở Linh Đường. Thật bất ngờ, cuốn gia phả có nói đến bà Nguyễn Thị Hoa Dung với những thông tin đúng như giả thiết của chúng tôi”.
TS Cường tiếp tục làm tôi bất ngờ khi ông cho rằng ngôi mộ cổ Linh Đường liên quan đến vua Quang Trung. Lịch sử để lại một câu chuyện rằng sau khi Quang Trung mất, Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ thần sang Trung Quốc báo tang, và làm tờ biểu xin phong vương. Trong tờ biểu có nói: Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết không đưa di hài về quê, mà chôn cất ở làng Linh Đường để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết. Vua Thanh khen ngợi, lập tức sai sứ thần sang lễ tế! Quang Toản bèn cho làm ngôi mộ giả ở làng Linh Đường để nhà Thanh gửi lễ sang viếng.
Có thể cái chết của bà Hoa Dung xảy ra sớm hơn đôi chút với cái chết của vua Quang Trung nên đã có người lập mưu chọn đúng ngôi mộ của bà nguỵ trang lại như mộ vua để cho sứ đoàn nhà Thanh sang viếng. Người bày ra mưu kế này rất có thể là Ngô Thì Nhậm vì ông là người Tả Thanh Oai, am hiểu vùng đất này hơn ai hết. Dĩ nhiên, đó chỉ là một giả thiết lịch sử, nhưng TS Nguyễn Mạnh Cường – Người nghiên cứu sâu về vua Quang Trung - tin rằng mình đã đúng. Lịch sử luôn cần những giả thiết, và luôn chứa đựng những bất ngờ. Trường hợp về mộ Lê Lợi ở Thanh Hóa là một ví dụ...
Kỳ cuối: Bí mật về mộ Lê Lợi và mộ Ng
 
Cái thi hài đó của phụ nữ
Các nhà khảo cổ học phân tích mẫu xương rồi nên đéo thể là mộ của Huệ được
M hiểu từ "đoán định" không m? M biết giám định trong bao lâu không? 1 buổi sáng (có rất nhiều nhân chứng còn sống nhé - với cái này t cũng không confirm được trên này nên coi như bỏ qua). Với năm 1989, trình độ khoa học còn thô sơ, m nghĩ xem bn % chính xác từ người này. Và khi 2 dòng họ có đến chất vấn ông này, những câu hỏi bên trên thì ông cũng chỉ ngậm ngùi thừa nhận có thể sai nhé. (có file ghi âm)
 

Kỳ 2: Ngôi mộ cổ Linh Đường và bí mật về bà hoàng trong lăng đá

04/01/2005 | 07:00
Những bóng đen thoắt ẩn, thoắt hiện như những bóng ma trong một đêm mùa đông năm Kỷ Tỵ (1989). Tiếng xà beng, cuốc chim bổ vội vàng vào ngôi mộ cổ, phát ra những âm thanh dữ dội.
Kỳ 2: Ngôi mộ cổ Linh Đường và bí mật  về bà hoàng trong lăng đá

Chờ ba bóng đen chụm đầu vào nhau, các chiến sỹ an ninh bất thần ập đến, tóm gọn. Việc bắt giữ diễn ra hết sức mau lẹ nên hai tên đang trộm đào mộ ở bên trong không hề hay biết. Chỉ khi nghe tiếng súng nổ chát chúa bên tai, chúng mới vội vàng tẩu thoát...
Dưới ánh sáng ban ngày, ngôi mộ cổ ở làng Linh Đường (Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội) hiện lên sừng sừng giữa đồng không mông quạnh. Dân làng đổ ra xem ngôi mộ vô danh đã “trơ gan cùng tuế nguyệt” ở đây mấy trăm năm nhưng chẳng mấy ai để ý đến. Tiếng nổ của khối bộc phá nặng chừng nửa cân phá tan cửa lăng đá, mọi người nhìn rõ lỗ thủng trên áo quan.
567.jpg

Hiện vật trong ngôi mộ cổ Linh Đường
Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Cường - người trực tiếp khai quật ngôi mộ cổ Linh Đường - dường như vẫn còn nguyên cảm giác khi thấy nắp quan tài bật ra. “Đó là một ngôi mộ đặc biệt mà trong quãng đời theo nghiệp khảo cổ, tôi chưa từng bắt gặp”.
Mộ có cấu trúc đặc biệt gồm lăng đá, quách tam hợp và quan tài. Lăng đá được làm theo dạng khối hộp chữ nhật, bên trong có mái che. Lăng đá dài 4,1m, rộng 3,0m, chiều cao từ đỉnh nóc xuống đến chân lăng khoảng 3m. Phần nhiều các mộ xác ướp đã phát hiện không bao giờ xây lăng đá nổi bên trên, nếu có chăng chỉ là gò mộ được đắp bằng đất phủ lên, còn chủ yếu đều nằm chìm dưới đất. Nhìn vào lăng đá nổi, TS Cường đã tự hỏi phải chăng có những yếu tố kỹ thuật mai táng mới ở ngôi mộ cổ này?
Nằm trong lăng đá là lớp quách tam hợp, cũng được xây theo khối hộp chữ nhật rất kín. Quách tam hợp này kích thước chỉ nhỉnh hơn áo quan đôi chút nhằm bảo vệ cho áo quan. Quách được tạo từ vôi, cát mật trộn với giấy bản đã ngâm nước và giã nhỏ thành bột tạo thành một chất siêu bền, càng để lâu càng cứng. Quan tài được làm từ gỗ Ngọc Am – một loại gỗ quý hiếm được lấy từ lõi cây thông già. Gỗ rất thơm và chống được mối mọt.
Nắp quan tài được mở ra, đập vào mắt những nhà khảo cổ là một xác người được bó khá cầu kỳ. Lần lượt từ trong ra ngoài có 1 tấm chăn đại liệm gồm vỏ chăn gấm và ruột bông trắng tinh, 5 lớp vải đại liệm loại mộc màu trắng ngà, 1 mảnh vải lụa màu vàng che mặt, 2 mũ đội đầu bằng gấm và vải... Tử thi được mặc nhiều lớp váy áo, trong đó có 4 lớp áo gấm đặc biệt như áo gấm trang trí hoa văn đồng tiền, hoa văn kiểu hoa hướng dương. Sau 4 lớp áo này, còn có 3 kiểu áo khác gồm áo may kép, trên ve áo có hai chữ Hán là “Mụ đình”; áo gấm màu vàng có trang trí hình rồng và sóng nước; áo gấm màu vàng óng trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt... Ngoài ra, sát thân còn hơn chục lớp áo khác. Tổng cộng có cả thẩy 33 lớp áo cùng 9 lớp váy!
Đồ tuỳ táng chôn theo gồm 1 chiếc quạt giấy 14 nan còn nguyên vẹn, 1 túi đựng trầu gồm 37 miếng trầu còn tươi xanh như vừa mới hái, 34 quả cau hơi héo, một chuỗi tràng hạt đeo cổ gồm 105 hạt, trong đó có 104 hạt táo và 1 hạt ngọc... Các số đo nhân học cho phép đoán định người chết nằm trong mộ là một người đàn bà xinh đẹp, cao khoảng 1,50m, dáng người đẫy đà, khuôn mặt cân đối. Bà mất vào tuổi 62 đến 64 vào nửa cuối thế kỷ XVIII – thế kỷ đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Người đàn bà đó là ai?
Mộ cổ Linh Đường từng là mộ giả của vua Quang Trung?
Thường trong các ngôi mộ xác ướp của Việt Nam, người chết luôn mang theo tấm thẻ căn cước được gọi là tấm minh tinh, nói về hành tung và thân phận xã hội của mình. Nhưng tấm minh tinh đã không tìm thấy trong ngôi mộ cổ Linh Đường. Người chết là ai? Câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ ngay cả khi đã khai quật xong ngôi mộ.
“Lúc đó, tôi hơi hoang mang, không biết nghiên cứu theo hướng nào để xác định được thân phận của chủ ngôi mộ cổ. Đúng vào thời điểm đó, cách khu khai quật khoảng 500m về phía Bắc còn lại một tấm bia trụ in chữ 4 mặt được khắc vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Nội dung đề cập đến một người đàn bà họ Trần là cung phi trong phủ chúa Trịnh đã cúng tiền của đất đai... Một hướng nghiên cứu đã hé mở...” - TS Nguyễn Mạnh Cường nhớ lại.
Cùng thời gian đó, có người thuộc dòng họ Trần đã cho các nhà khảo cổ xem cuốn gia phả trong đó có nói tới một người đàn bà quyền thế ở phủ chúa, khi chết được an táng tại Lăng đá xứ thuộc cánh đồng Mô. Một vài người vội tin vào cuốn gia phả đã cho công bố kết quả nghiên cứu. Theo công bố thì chủ nhân của ngôi mộ là bà Dĩnh, người làng Linh Đường được phong là Chiêu Dung công chúa, khi chết có lăng đá để thờ. Công bố này được xem như một giả thiết lịch sử, nhưng sau khi nghiên cứu kỹ cuốn gia phả, các nhà khảo cổ nhận thấy bà Dĩnh là em vợ chúa Trịnh Tạc.
Theo quy định tang lễ nghiêm ngặt của chế độ phong kiến thì em vợ chúa khi chết không được mặc áo hoàng bào xuống mộ. Một chi tiết đáng lưu ý nữa là bà Dĩnh được nói trong gia phả sống ở nửa cuối thế kỷ XVII, trong khi đó các hiện vật tuỳ táng trong ngôi mộ đá lại xác nhận dấu vết của thế kỷ XVIII. Từ những tư liệu có cơ sở khoa học đó, các nhà khảo cổ học kết luận: Đức bà Dĩnh trong gia phả họ Trần không phải là chủ nhân của ngôi mộ cổ.
Chặng đường đi tìm lai lịch chủ nhân ngôi mộ tưởng như rơi vào ngõ cụt bỗng mở ra một hướng thênh thang khi các nhà khảo cổ tìm thấy trong Viện Thông tin (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam) một tài liệu lịch sử có đề cập đến Mỹ Vương, người làng Linh Đường, chủ sự việc kiêu binh sau khi Trịnh Sâm mất. Lần giở hồ sơ nói về cuộc đời Mỹ Vương, được biết ông tên thật là Nguyễn Mỹ, con trai Nguyễn Trọng Viêm. Nguyễn Trọng Viêm lại là anh trai Trịnh Thái Phi. Như vậy ở làng Linh Đường có người con gái họ Nguyễn lấy chúa Trịnh và là bà cô của Nguyễn Mỹ.
Các tư liệu lịch sử cho hay người con gái họ Nguyễn đó chính là bà Hoa Dung - Vợ chúa Trịnh Doanh, mẹ của chúa Trịnh Sâm. Sử cũ chép rằng bà Hoa Dung là người đoan trang, chính trực. Việc Đặng Thị Huệ âm mưu đưa con trai mình lên ngôi chúa khiến bà bất bình và tìm lời khuyên giải Trịnh Sâm. Tiếc rằng vị chúa luỵ tình này đang bệnh hiểm nghèo nên không xoay chuyển được tình thế. Sau khi chúa Trịnh mất, loạn kiêu binh đã lật nhào Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi chúa, bà Hoa Dung đã bức tử Đặng Thị Huệ. Nhưng chẳng bao lâu nhà Trịnh sụp đổ, bà bỏ về quê ở ẩn và mất tại đó. Phải chăng lúc này bà hoàng thất cơ nên đám ma đưa tiễn cũng chỉ diễn ra một cách vội vàng, đơn sơ với những gì lúc sống bà lưu giữ?
T.S Nguyễn Mạnh Cường dừng lại trước câu hỏi đó một hồi lâu rồi mới “cởi nút”: “ Sau khi khai quật ngôi mộ cổ được một thời gian, chúng tôi đọc được gia phả của dòng họ Nguyễn ở Linh Đường. Thật bất ngờ, cuốn gia phả có nói đến bà Nguyễn Thị Hoa Dung với những thông tin đúng như giả thiết của chúng tôi”.
TS Cường tiếp tục làm tôi bất ngờ khi ông cho rằng ngôi mộ cổ Linh Đường liên quan đến vua Quang Trung. Lịch sử để lại một câu chuyện rằng sau khi Quang Trung mất, Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ thần sang Trung Quốc báo tang, và làm tờ biểu xin phong vương. Trong tờ biểu có nói: Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết không đưa di hài về quê, mà chôn cất ở làng Linh Đường để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết. Vua Thanh khen ngợi, lập tức sai sứ thần sang lễ tế! Quang Toản bèn cho làm ngôi mộ giả ở làng Linh Đường để nhà Thanh gửi lễ sang viếng.
Có thể cái chết của bà Hoa Dung xảy ra sớm hơn đôi chút với cái chết của vua Quang Trung nên đã có người lập mưu chọn đúng ngôi mộ của bà nguỵ trang lại như mộ vua để cho sứ đoàn nhà Thanh sang viếng. Người bày ra mưu kế này rất có thể là Ngô Thì Nhậm vì ông là người Tả Thanh Oai, am hiểu vùng đất này hơn ai hết. Dĩ nhiên, đó chỉ là một giả thiết lịch sử, nhưng TS Nguyễn Mạnh Cường – Người nghiên cứu sâu về vua Quang Trung - tin rằng mình đã đúng. Lịch sử luôn cần những giả thiết, và luôn chứa đựng những bất ngờ. Trường hợp về mộ Lê Lợi ở Thanh Hóa là một ví dụ...
Kỳ cuối: Bí mật về mộ Lê Lợi và mộ Ng
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm.

Khu lăng mộ Thứ phi Hoa Dung được hoàn thành vào tháng 11 năm Giáp Thìn (1784). Trong tác phẩm Dụ Am thi văn tập của mình, Phan Huy Ích có bài thơ lại ghi việc làm lễ sơn lăng cho bà, có đoạn viết:

Tuổi già chăm lo yên xã tắcLập ra khuôn phép giúp ba triềuLinh Đường mưa máu âu trời xótNúi Bút sương buông, buồn tịch liêu
Phía trước lăng mộ có dựng tượng 12 võ quan tạc bằng đá nguyên khối, đứng nghiêm trang, kính cẩn thành hai hàng. Đầu tượng đội mũ tròn, mình mặc giáp trụ dài có viền nhiều lớp, chân đi giày chiến kiểu hia cao đường bệ, một tay cầm kiếm, tay còn lại đặt trước ngực như nguyện bảo vệ sự yên giấc của bà Hoa Dung. Ngoài ra, còn hai bức tượng phỗng đá đầu to có ngắn, tóc búi quả đào, mắt lồi, mũi dô, miệng rộng với ý nghĩa là những người hầu cận. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễ...xt=Linh cữu của bà được,mẫu hay lăng bà Trịnh.
 
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là lăng bà Quốc mẫu hay lăng bà Trịnh. Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm.

Khu lăng mộ Thứ phi Hoa Dung được hoàn thành vào tháng 11 năm Giáp Thìn (1784). Trong tác phẩm Dụ Am thi văn tập của mình, Phan Huy Ích có bài thơ lại ghi việc làm lễ sơn lăng cho bà, có đoạn viết:

Tuổi già chăm lo yên xã tắcLập ra khuôn phép giúp ba triềuLinh Đường mưa máu âu trời xótNúi Bút sương buông, buồn tịch liêu
Phía trước lăng mộ có dựng tượng 12 võ quan tạc bằng đá nguyên khối, đứng nghiêm trang, kính cẩn thành hai hàng. Đầu tượng đội mũ tròn, mình mặc giáp trụ dài có viền nhiều lớp, chân đi giày chiến kiểu hia cao đường bệ, một tay cầm kiếm, tay còn lại đặt trước ngực như nguyện bảo vệ sự yên giấc của bà Hoa Dung. Ngoài ra, còn hai bức tượng phỗng đá đầu to có ngắn, tóc búi quả đào, mắt lồi, mũi dô, miệng rộng với ý nghĩa là những người hầu cận. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Ngọc_Diễm#:~:text=Linh cữu của bà được,mẫu hay lăng bà Trịnh.
Ờ.
Nếu mày xác định Huệ là đàn bà 64 tuổi thì tao công nhận mộ đó là mộ Nguyễn Huệ
 
Ờ.
Nếu mày xác định Huệ là đàn bà 64 tuổi thì tao công nhận mộ đó là mộ Nguyễn Huệ
Thế theo m ng ta đoán tuổi kiểu gì để chính xác là 64 tuổi? T không có khẳng định đây là mộ Huệ mà t đưa ra giả thuyết "có thể", còn người trong mộ h không biết là ai đang nằm trong.
 
Top