Tại sao phải bỏ rơi VNCH?
Câu trả lời nằm trong một đoạn văn thẳng thắn đến lạnh người trong hồi ký
White House Years (Những năm tháng Nhà Trắng). Sở dĩ Kissinger muốn bỏ rơi miền Nam (và Campuchia, Lào) vì ông cho rằng Đông Dương đã cản trở chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, theo đó Trung Quốc mới là quan trọng, còn Đông Dương thì chỉ là một khu vực nhỏ bé, cho nên cần phải đẩy nó về đúng cái khuôn khổ nhỏ bé của nó.
Ở trang 1049 trong hồi ký, Kissinger viết về việc mở cửa Bắc Kinh:
"Chúng ta cần Trung Quốc để tăng cường tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ... Sáng kiến về (mở cửa) Trung Quốc còn khôi phục được quan điểm của chúng ta về chính sách của quốc gia.
"Sáng kiến này thu nhỏ Đông Dương lại, để nó quay về đúng cái quy mô của nó – quy mô của một bán đảo nhỏ bé trên một lục địa to lớn."
Từ cái nhìn ấy, Đông Dương không còn là một tuyến đầu chống cộng, mà là một chướng ngại cần dẹp bỏ để đạt được những thắng lợi chiến lược lớn hơn. Vận mệnh của cả một quốc gia, hàng triệu con người, đã bị ông ta xếp vào vai trò "vật tế thần" cho chính sách toàn cầu mới theo quan niện của mình.
Mùa hè năm 1972, khi nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào chiến dịch tranh cử tổng thống, Đảng Cộng Hòa dự kiến tổ chức đại hội tại Miami, Florida để đề cử ông Nixon tái tranh cử. Một cuộc họp kín giữa Nixon và Kissinger tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 3/8/1972 đã mang ý nghĩa quyết định.
Nội dung cuộc họp – còn được ghi lại trong băng ghi âm chính thức – cho thấy toàn bộ tinh thần của chiến lược "Decent Interval". Nixon lo ngại rằng nếu để mất miền Nam sau khi ký hiệp định thì uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị sụp đổ. Nhưng Kissinger đã trấn an ông bằng một luận điệu đầy tính toán:
"Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ mà Bắc Việt nuốt trọn miền Nam thì chúng ta vẫn có thể duy trì một chính sách ngoại giao khả tín, miễn sao nó được coi như là hậu quả của sự bất tài của miền Nam."
Rồi ông kết luận một cách tàn nhẫn:
"Vậy chúng ta cần tìm ra một công thức để giữ cho tình hình yên ổn trong một hay hai năm. Sau đó, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ trở thành một vũng nước đọng. Nếu chúng ta kết thúc chuyện này, chẳng hạn vào tháng 10, thì đến tháng 1 năm 1974 sẽ chẳng còn ai quan tâm quái gì nữa (
no one will give a damn)."
Lời nói ấy – "
no one will give a damn" – không chỉ là sự lạnh lùng vô cảm, mà còn là lời phán xét lịch sử. Nó cho thấy, đối với Kissinger, toàn bộ cuộc chiến tranh, máu xương và hy sinh của hàng triệu người Việt Nam chỉ là một dấu chấm nhỏ không đáng kể trong sách lược chính trị toàn cầu mà ông đang viết.
Theo nhà nghiên cứu Jeffrey Kimball, Kissinger đã thực sự thuyết phục được Tổng thống Nixon vào ngày 28/9/1972 rằng những gì ông đang thương lượng với Hà Nội không phải là một hành động "bán đứng đồng minh" mà là một bước đi cần thiết để chấm dứt chiến tranh và bảo vệ lợi ích lớn hơn của Hoa Kỳ.
Trớ trêu thay, ngày 28/9 ấy lại gần kề thời điểm quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị – một chiến thắng mang tính biểu tượng cao độ. Khắp miền Nam lúc đó vang lên bài hát:
"Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu…"
Khi VNCH lấy lại thế chủ động trong chiến sự, thì ở Washington, định mệnh của miền Nam lại đang bị định đoạt trong một căn phòng đóng kín – bởi những người từng hứa hẹn sẽ sát cánh đến cùng.
Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Richard Nixon, trong một cuộc gặp vào năm 1972 tại Dinh Độc lập.
Một bức thư và sự im lặng
Ngay sau khi được Kissinger thuyết phục, Tổng thống Nixon đã viết thư cho Tổng thống Thiệu vào ngày 16/10/1972. Cuối thư, ông còn viết tay để khẳng định về Hiệp định Paris:
"Tôi tin chắc rằng đây là giải pháp tốt nhất có thể đạt được và phù hợp với điều kiện tuyệt đối của tôi là Việt Nam Cộng hòa phải được tồn tại như một quốc gia tự do."
Nixon thậm chí còn gạch dưới chữ "
absolute" (tuyệt đối) trong thư, như muốn trấn an đồng minh rằng ông không lùi bước.
Như lịch sử đã diễn ra, Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 không phải là nền tảng để cho Việt Nam Cộng hòa được tồn tại như một quốc gia tự do.
Quốc hội Mỹ bị đánh lừa
Do tin rằng chiến tranh đã kết thúc và hòa bình được vãn hồi, Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu cắt giảm mạnh viện trợ quân sự cho VNCH. Trong khi đó, khối xã hội chủ nghĩa – đặc biệt là Liên Xô – lại tăng viện gấp bốn lần cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH). Chênh lệch này khiến VNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng kiệt quệ cả về vũ khí, tiếp liệu, lẫn phương tiện truyền thông và y tế (kể cả băng cứu thương).
Trong tay Tổng thống Thiệu chỉ còn một vũ khí duy nhất: đó là những lá thư với chữ ký của Tổng thống Nixon cam kết rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ và "bảo vệ hòa bình bằng tất cả sức mạnh của Hoa Kỳ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định."
Tuy nhiên, khi Tổng thống Nixon phải từ chức do vụ Watergate, những lá thư này không bao giờ được chuyển đến người kế nhiệm là Tổng thống Gerald Ford. Henry Kissinger – người giữ vai trò trung gian – đã cố tình che giấu ông Ford và che giấu luôn cả Quốc hội Mỹ về diễn tiến của "hòa bình" và giấu nhẹm hồ sơ Nixon – Thiệu.
Bằng cách đó, ông đã tước nốt lá chắn cuối cùng còn lại trong tay VNCH.
Ngày 30/4, khi Sài Gòn thất thủ thì ở bên kia bán cầu thì ngay tại thủ đô Washington, một "mặt trận sự thật" khác được mở ra.
Chúng tôi, những người từng chứng kiến toàn bộ quá trình ngoại giao từ bên trong, đã quyết định công bố những bằng chứng về chiến lược "Decent Interval" và các cam kết mật giữa Nixon và Thiệu – những tài liệu bị Kissinger cố tình che giấu đi. Tất cả được đưa ra công luận đúng vào lúc thế giới còn đang sửng sốt trước cảnh tháo chạy ở Sài Gòn.
Sự thật ấy như một gáo nước lạnh dội vào Quốc hội Hoa Kỳ.
Những vị dân cử trước đây từng biểu quyết cắt viện trợ, giờ đây mới nhận ra rằng họ đã bị đánh lừa. Không có hòa bình, cũng chẳng có danh dự. Chỉ có sự phản bội, sự thao túng và những quyết định được đưa ra trong bóng tối.
Ban đầu, Quốc hội Mỹ gần như dửng dưng trước làn sóng người tị nạn Việt Nam tràn sang các trại tạm cư ở Guam, Wake, Camp Pendleton… Nhưng sau khi các tài liệu được công bố, và sau nhiều cuộc điều trần gay gắt, thái độ của họ đã thay đổi hoàn toàn.
Từ chỗ phản đối di tản, Quốc hội bắt đầu thông cảm và chuyển sang tiếp nhận đoàn người tị nạn Việt Nam. Với sự thông cảm ấy, lớp người tị nạn đầu tiên đã hoạt động để từng bước dẫn đến các chương trình Chương trình Ra đi Có trật tự (Orderly Departure Program, ODP), Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation, HO), các khoản trợ giúp định cư, y tế, giáo dục…
Quốc hội cũng bắt đầu điều tra lại hồ sơ Nixon–Thiệu. Nhưng chính quyền Ford, dù bị áp lực, vẫn từ chối cung cấp tài liệu – có thể vì họ cũng bị "đặt ở ngoài cuộc".
Một đội quân bị bỏ đói trong chiến hào
Nếu có ai đó hỏi vì sao VNCH sụp đổ nhanh đến vậy trong tháng 3 và 4 năm 1975, câu trả lời không nằm ở tinh thần chiến đấu, mà nằm ở hai chữ: kiệt quệ. Sau Hiệp định Paris 1973, và nhất là từ năm 1974 trở đi, khả năng chiến đấu và hậu cần của VNCH đã rơi tự do.
Và đến giờ phút khi bi kịch "Decent Interval" hạ màn, đạn dược chỉ còn đủ cho 12 tới 20 ngày – như Đại tướng Viên báo cáo ngày 1/4/1975.
Thiếu tướng John E. Murray – Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (1973–1974), là chứng nhân tại chỗ – trong một báo cáo mật đã so sánh tương quan lực lượng hai bên trước khi sụp đổ:
"Trong thời cao điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam, chúng ta từng có 433 tiểu đoàn tác chiến Mỹ và Đồng minh chiến đấu ở Việt Nam. Địch có 180 tiểu đoàn. Đến năm 1974, khi chúng ta rút lui, VNCH có 189 tiểu đoàn, địch tăng lên 330 tiểu đoàn.
"Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả…Và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn."
Rồi ông kết luận bằng một trích dẫn đáng suy ngẫm:
"Napoleon đã từng nói: Thượng Đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất."
"Đúng như vậy. Thượng Đế đã đứng về phe ******** vào năm 1974; quân họ đông hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do chúng ta đã thua chiến tranh Việt Nam."
Trên thực tế - và chúng tôi là nhân chứng - cuối cùng thì cũng chẳng có số tiền tương đương 2% , mà hầu như là con số không.
Chụp lại video,Tháng 4/1975: Tường thuật của BBC
Từ Nguyễn Văn Thiệu 1975 tới Volodymyr Zelensky 2025
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 – ngày định mệnh kết thúc một quốc gia, nhưng âm hưởng của sự kiện ấy vẫn vang vọng trong thời sự quốc tế, nhất là khi người ta chứng kiến một quốc gia khác – Ukraine – đang vật lộn để tồn tại.
Tuy cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh Ukraine là khác hẳn nhau về bản chất lẫn hoàn cảnh lịch sử, nhưng về vấn đề viện trợ của Hoa Kỳ thì có điểm tương đồng.
Một trong những câu nói gây chấn động trong cuộc chiến Ukraine đến từ Tổng thống Volodymyr Zelensky. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Amna Nawaz trên
PBS ngày 14/4/2024, ông thẳng thắn nhấn mạnh:
"Tôi có thể nói rõ ràng với bà: nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể chiến thắng." Có nghĩa là sẽ chiến bại.
Mới đây, ngày 14/2/2025, ông nói trên đài
NBC:
"Sẽ rất, rất, rất khó khăn để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, cả hiện tại khi đất nước đang cố gắng chiến đấu và trong tương lai sau khi chiến tranh kết thúc."
Những lời này vang lên bên tai tôi như một tiếng vọng từ quá khứ.
Tháng 1/1973, ngay sau khi Kissinger trở về từ Paris với bản thỏa hiệp đình chiến trong tay, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã dành một cuộc phỏng vấn cho ký giả nổi tiếng người Ý, bà Oriana Fallaci (còn ghi lại trong cuốn sách Interview with History).
Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ không còn viện trợ nữa, ông Thiệu trả lời không hề do dự:
"Nếu Mỹ bỏ rơi chúng tôi, đó sẽ là sự kết thúc. Kết thúc hoàn toàn, tuyệt đối."
Liệu ông có thể tìm được những nguồn lực nào khác?
"Làm sao chúng tôi có thể tìm được một quyền lực nào khác giống như Mỹ đã giúp chúng tôi? Có thể chúng tôi cũng tìm được một quốc gia khác sẵn sàng giúp, nhưng không quốc gia nào có nhiều phương tiện như Mỹ."
Những lời nói ấy, hơn 50 năm sau, giờ đây lại được lặp lại gần như nguyên văn – không phải bởi một nhà lãnh đạo Á Đông mà bởi một tổng thống châu Âu trong thế kỷ 21.
Chỉ cần thay cái tên "Nguyễn Văn Thiệu" bằng "Volodymyr Zelensky", thì toàn bộ tâm trạng, nỗi lo sợ, và sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ được lặp lại một cách kỳ lạ.
Nếu như "kế hoạch hòa bình" do Mỹ đưa ra tiếp tục bị bế tắc và Mỹ "bỏ đi" – vì còn những ưu tiên khác như Gaza, Iran, Trung Quốc (Biển Đông, Đài Loan), cuộc thương chiến,v.v. thì tương lai của Ukraine sẽ như thế nào?
Lặp lại lời ông Zelensky rằng "sẽ rất, rất, rất khó khăn" để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự từ Mỹ - "cả bây giờ, khi chúng tôi chiến đấu, lẫn sau này khi chiến tranh kết thúc" - câu hỏi đặt ra là liệu một kết cục tương tự có đến với Ukraine?
- Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn Khi đồng minh tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.