
Mùa hè 1966, cán bộ tình báo Tư Cang đến Sài Gòn, nhập vai gia sư, uống cà phê ở nhà hàng Victory. Vậy mà hôm sau, ông trở lại Củ Chi, chui vào địa đạo chật chội, bên trên là bom đạn nổ chát chúa.

Đại tá Tư Cang (tên thật Nguyễn Văn Tàu, SN 1928, nguyên Cụm trưởng Cụm tình báo chiến lược H.63) - nhân vật lừng lẫy của giới tình báo Việt Nam - từng trải qua những năm sống cuộc sống "hai thế giới đối lập".
Có lúc, ông vào nội đô Sài Gòn, diễn vỏ bọc của gia sư, kế toán. Xong chuyến công tác, ông trở về căn cứ đóng tại địa đạo Củ Chi, ăn măng tre, uống nước cầm hơi, cùng các chiến sĩ vũ trang, giao thông bảo vệ điện đài vô tuyến, giữ đường dây liên lạc thông suốt cho đến ngày thống nhất đất nước.
Trong căn nhà cấp 4 ở quận Bình Thạnh (TPHCM), Đại tá Tư Cang trò chuyện với phóng viên Dân trí bằng giọng nói sang sảng, có lúc dí dỏm, có lúc run run xúc động.
Đôi mắt mờ nhòe của vị Đại tá 97 tuổi hấp háy khi nhớ lại 10 năm nằm gai nếm mật cùng đồng đội tại Củ Chi. Ông kể những câu chuyện đời thường, những lần thoát khỏi lằn ranh sinh tử và cả những mất mát mà tổ chức H.63 trải qua để trụ lại chiến trường ác liệt Củ Chi cho đến ngày đất nước thống nhất.

"Tại sao phải bám trụ Củ Chi, thưa ông?", người viết hỏi.
Đại tá Tư Cang lý giải, Củ Chi mang địa thế lợi hại về mặt quân sự, liên quan sự sống còn của Sài Gòn. Nơi đây địa hình thuận tiện đào hầm, gắn với nhiều chiến khu quan trọng. Giặc muốn dồn ép cách mạng về biên giới, giữ vành đai an toàn cho Sài Gòn, còn cách mạng lại quyết tâm áp sát vào Sài Gòn để giành thắng lợi.
Ông Tư Cang gắn bó với mảnh đất Củ Chi từ tháng 5/1962. Khi đó, ông được Phòng Tình báo Miền giao nhiệm vụ chỉ huy Cụm tình báo H.63 (tên ban đầu là A.18), cụm tình báo phục vụ hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn - "át chủ bài" của tình báo Việt Nam thời bấy giờ.
Cụm được bố trí thành 3 tuyến. Ngoài hạt nhân Phạm Xuân Ẩn cùng điệp viên Tám Thảo và các điệp viên hoạt động bí mật ở Sài Gòn, còn có một nhóm sống hợp pháp với địch trong ấp chiến lược và một nhóm lực lượng vũ trang trong hầm địa đạo Củ Chi.

Đại tá Tư Cang nói, căn cứ tình báo nghe thì có vẻ bề thế, nhưng thời đó không có văn phòng, kích thước chỉ vài chục mét, nằm trên bãi đất cỏ cây khô cháy, lưa thưa mấy rặng tầm vông. Dưới đất là vài chiếc hầm bí mật, mỗi hầm chứa 3-5 chiến sĩ vũ trang. Có hầm nằm dưới lũy tầm vông, có hầm thì đào ngay giữa bãi đất. Nếu một hầm bị lộ, anh em ở hầm khác có thể bắn hỗ trợ cho nhau thoát thân.
Những địa danh như Bến Dược, Bến Đình, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông... đều từng là nơi đóng quân của đơn vị H.63. Nhiệm vụ chủ yếu của cụm là tổ chức đường dây giao liên thông suốt, tiếp nhận tin tình báo của điệp viên trong nội thành, đưa chỉ thị từ sở chỉ huy phục vụ cách mạng.
"Nhờ hầm địa đạo, chúng tôi mới sống được. Địa đạo là nơi khổ nhất, nên khi nói 10 năm bám trụ địa đạo Củ Chi, người ta nể chúng tôi dữ lắm. Chúng tôi quyết không rời, chấp nhận hy sinh, chấp nhận vất vả để đường dây liên lạc không bao giờ ngưng trệ", nguyên Cụm trưởng cụm H.63 nói.

Chiến tranh, theo lời của Đại tá Tư Cang, là những ngày "sống cùng bom đạn, khổ lắm, nhưng riết rồi cũng quen nên êm được ngày nào, hay ngày đấy".
Đại tá kể, lúc mới vào ấp Bến Đình năm 1962, ông thường ngồi bên tán cây, dùng gầu múc nước sông dội lên người cho mát. Lúc đó, cây cối vẫn còn trĩu quả, tôm cá dồi dào. Tối tối, ông cùng đồng đội đi bắt lươn, bắt cá. "Có những bữa ăn trong lòng đất, chúng tôi nhìn đĩa lươn chiên chấm nước mắm tỏi ớt, khoái chí lắm", ông nói.
Từ ngày Mỹ đổ quân tham chiến (1965), cuộc sống của đơn vị trở nên khó khăn. Ban ngày, bộ binh, xe tăng, trực thăng địch càn quét. Ban đêm, địch thả bom theo tọa độ. Muốn di chuyển từ hầm này sang hầm khác phải nắm quy luật đạn rơi, bao nhiêu phút thì giặc lên đạn, nghe tiếng nổ thì phải bật dậy chạy nhanh đến miệng hầm.

Những hôm địch bắn phá dữ dội, đơn vị trú trong địa đạo, hết gạo thì ăn măng tre luộc, uống nước cầm hơi. Ban đêm, chiến sĩ giao thông đột nhập vào ấp chiến lược, nhận tiếp tế lương thực, mua pin để duy trì tín hiệu máy thu phát, giữ đường dây liên lạc. Đại tá miêu tả cuộc sống "không khác gì loài chim ăn đêm".
"Mỗi lần phân công anh em vào ấp chiến lược công tác, tôi cũng sắp xếp 1-2 chiến sĩ ở lại cho có bạn. Thi thoảng tôi canh gác căn cứ một mình, không dám ngủ say, tai căng ra nghe ngóng âm thanh máy bay, tàu tuần tra của địch, đến đêm thì lên nắp hầm đợi anh em về. Nghe tiếng bước chân, thấy đồng đội trở về lành lặn, là tôi thở phào", vị Đại tá kể.
Mùa mưa, nước mưa theo rễ tầm vông chảy xuống hầm, tạo thành lớp bùn nhão nhoẹt. Các chiến sĩ trải tấm ni lông ra ngủ, nói với người chỉ huy "nệm bằng bùn nhão êm nhưng mà lạnh quá, anh Tư ơi".
"Họ là thanh niên, dễ ăn dễ ngủ, còn tôi thường trằn trọc mãi mới vào giấc. Có lần, Sáu Ẩn, cán bộ trung đội tôi, đi vào ấp chiến lược tải gạo, thấy chuồng heo trát xi măng, được thắp điện sưởi ấm, khi về liền nói vui rằng chỗ ngủ anh em mình còn thua chỗ ngủ chuồng heo nhà giàu", ông nhớ lại.

Do tính chất công việc, nhiều lúc, Đại tá Tư Cang phải sống giữa 2 vùng: Sài Gòn và Củ Chi. Mỗi lần vào thành phố, ông cải trang thành dân thường, dùng căn cước giả, đi xe tải, xe đò của người dân hoặc tự lái xe máy. Đại tá nói, đã chấp nhận làm nghề tình báo, thì phải chấp nhận mạo hiểm bởi nếu đứt liên lạc, tin tức tài liệu điệp viên nắm giữ sẽ không kịp chuyển về cấp trên và ông không phổ biến được nghị quyết, chỉ thị từ tổ chức cho cán bộ.
Chỉ khi sống cuộc sống bình thường ở thành phố, ông Tư Cang mới thấm thía cuộc sống chiến khu Củ Chi khổ cực đến thế nào. Có những khi, đêm trước ông vừa đóng vai người bình thường, đi ăn sáng, uống cà phê ở nhà hàng Victory, đêm hôm sau đã ở trong hầm địa đạo chật chội, khói um ngạt thở, bên trên là bom đạn chát chúa.
Dưới hầm nhiều muỗi nên từ đầu hôm, Đại tá Tư Cang cùng anh em hun khói đuổi muỗi. Nước mắt nước mũi thi nhau chảy xuống, họ cắn răng chịu vì còn hơn là để muỗi đốt không ngủ được.
Người viết hỏi: "Lúc đó, những người chiến sĩ nghĩ gì, thưa ông?". Đại tá Tư Cang cười nói: "Khổ quen rồi thì không thấy khổ". Đêm tối dưới hầm, vị chỉ huy cụm tình báo không nghĩ gì ngoài lời dạy của Bác Hồ: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".