

Nguồn hình ảnh,Getty Images/Frank Snepp
Chụp lại hình ảnh,Cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người đã cho điều chiếc trực thăng trong bức ảnh nổi tiếng về sự sụp đổ của Sài Gòn, chia sẻ về thời khắc cuối cùng trước khi chiến tranh kết thúc.
28 tháng 4 2025, 07:30 +07
Sau 50 năm, những bóng ma của Chiến tranh Việt Nam vẫn ám ảnh cựu CIA Frank Snepp. Ông không bao giờ quên được hình ảnh cuối cùng trước thời khắc Sài Gòn sụp đổ và việc Mỹ đã bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng hòa như thế nào.
Frank Snepp là nhà phân tích đứng đầu của CIA về chiến lược của Bắc Việt trong Chiến tranh Việt Nam, từng đảm nhận nhiệm vụ đưa cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra sân bay rời Việt Nam sang Đài Loan vào ngày 25/4/1975 trước khi Sài Gòn sụp đổ.
Sau khi trở về Mỹ, ông đã viết cuốn sách Decent Interval, với nhan đề ngụ ý về việc Mỹ muốn có một khoảng cách thời gian hợp lý giữa việc rút quân và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa (khoảng thời gian 'coi được'), để Mỹ không bị coi là đã bỏ rơi đồng minh hoặc thua trận một cách trực tiếp.
Trong suốt cuộc nói chuyện kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ với BBC News Tiếng Việt, cựu điệp viên CIA có lúc nhắm mắt, im lặng hồi tưởng những khoảnh khắc cuối cùng trước khi rời Sài Gòn. Ông nói mình bị ám ảnh bởi những bóng ma chiến tranh, bởi những mặt người, tiếng hét, tiếng cầu cứu và ông ước rằng mình đã chọn lựa khác đi để có thể bắt đầu kế hoạch di tản sớm hơn và từ đó cứu được nhiều mạng người hơn.
"Tôi vẫn thường nghĩ: điều gì sẽ xảy ra nếu khi đó tôi hét vào mặt ông đại sứ, làm ầm ĩ lên và nói rằng: Chúng ta có thể đưa người dân ra bờ biển, hãy làm đi. Hãy sơ tán họ bằng đường đó. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi nắm cổ áo ông đại sứ và nói: Làm ơn hãy tin vào những gián điệp giỏi nhất của chúng ta."
"Nhưng tôi đã không làm gì cả. Tôi là một cấp dưới vâng lời.... Tôi ước gì mình đã can đảm hơn. Nhưng tôi đã không được như vậy," ông Snepp nói.
Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện bằng ngày cuối cùng của nhà phân tích chiến lược của CIA ở Sài Gòn.

Nguồn hình ảnh,Frank Snepp
Chụp lại hình ảnh,Cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và Frank Snepp trong một sự kiện tại Paris vào năm 1978.
'Tất cả là một cơn hỗn loạn điên rồ'
BBC: Thưa ông, chiến tranh đã kết thúc 50 năm, ông còn nhớ gì về những ngày cuối cùng ở Sài Gòn vào tháng 4/1975?Frank Snepp: Một ngày trước khi cuộc chiến kết thúc, 29/4 là một cảnh tượng hỗn loạn, thời điểm mà bất cứ ai, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ em đều phải tự lo lấy thân mình.
Đại sứ quán Mỹ không hề có nổi một danh sách tổng những người Việt Nam thuộc diện nguy hiểm nhất, những người đáng được di tản trước tiên - vì không ai nghĩ rằng chúng tôi sẽ thật sự đối mặt với thời khắc đó nhanh đến vậy, trừ tôi và một vài người khác được tiếp cận các thông tin tình báo liên quan.
Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào cho ngày cuối ấy.
Những thông tin mật mà Võ Văn Ba phím cho tôi đã khiến quân đội Mỹ bắt đầu lên kế hoạch cho một chiến dịch không vận khẩn cấp. Đến sáng ngày 29/4, các đường băng ở phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị phá hủy hoàn toàn, có nghĩa: lối thoát duy nhất là bằng trực thăng.
Những trực thăng lớn từ hạm đội ngoài khơi đến tận buổi chiều mới bay vào thành phố vì họ quên mất sự chênh lệch múi giờ giữa Sài Gòn và Giờ chuẩn Greenwich (GMT).
Suốt buổi sáng hôm đó, chúng tôi chỉ có thể tùy cơ ứng biến, sơ tán mọi người bằng bất cứ cách nào có thể.
Tất cả phụ thuộc vào 17 chiếc trực thăng nhỏ của Air America - hãng hàng không độc quyền của CIA. Những chiếc trực thăng nhỏ này cứ bay lượn quanh thành phố, đón người và đưa người đến các địa điểm tập kết, chủ yếu là Đại sứ quán Mỹ và Văn phòng Tùy viên Quốc phòng tại phi trường Tân Sơn Nhứt, để chờ trực thăng lớn đưa đi.
Đôi lúc những chiếc máy bay của Air America phải lao thẳng ra hạm đội ngoài khơi, nhưng không hề có cuộc sơ tán diện rộng nào. Không ai biết nên đi đâu. Hoàn toàn hỗn loạn. Đó là một cuộc giành giật trong tuyệt vọng để được đưa đi.
Đến giữa buổi sáng, đại sứ quán đã trở thành một pháo đài ngập giữa biển người - hàng ngàn người Việt Nam gào khóc, la hét, chen lấn, leo tường để vào được bên trong khuôn viên vì họ biết rằng những chiếc trực thăng lớn có thể rời đi từ tòa đại sứ.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Những người dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng cố gắng trèo qua bức tường của Đại sứ quán Hoa Kỳ để chạy trốn khỏi Sài Gòn vào ngày 29/4/1975. Một ngày sau đó, ******** tiếp quản thủ đô và Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc.
Tôi đến đại sứ quán lúc khoảng 6 giờ sáng. Tôi đã không ngủ trong nhiều ngày. Cuối cùng tôi chợp mắt được một chút vào 4 giờ sáng thì bị đánh thức bởi tiếng pháo kích của quân ******** vào sân bay Tân Sơn Nhứt. Tiếng nổ như sấm dội và tôi bật dậy, cố hết sức chen qua dòng người để vào trong tòa đại sứ.
Tôi bắt đầu làm mọi việc có thể - giúp những người trèo qua tường, chỉ đạo trực thăng đến đón những người đang cầu cứu.
Phòng tác chiến của CIA khi đó thật hỗn loạn. Mọi người gào lên qua radio: "Xin hãy cứu tôi! Tôi đang ở địa điểm này! Tôi là người Mỹ! Tôi là người Việt Nam! Xin đừng bỏ rơi tôi!"
Chúng tôi điều trực thăng đi cứu càng nhanh càng tốt.
Vào khoảng giữa buổi sáng, trưởng trạm CIA đến tìm tôi nói rằng bạn gái của ông ta bị kẹt lại. Chúng tôi phải cử trực thăng đến đón cô ấy. Tôi nói: "Đưa cô ấy đến tòa nhà của tôi", nhưng rồi chợt nhớ ra chung cư của tôi đã bị quá tải, sân thượng để đón trực thăng đã chật kín người.
Tôi liền kêu họ đổi hướng đến số 22 đường Gia Long. Đó là tòa nhà nổi tiếng trong bức ảnh lịch sử – nơi có chiếc trực thăng đậu trên mái nhà và một người Mỹ đang kéo những người leo lên thang. Chính tôi đã cử chiếc trực thăng ấy tới mái nhà đó sáng hôm 29/4 để đón bạn gái trưởng trạm CIA.
Người chỉ huy chiến dịch trực thăng đó là O.B. Harnage, chính là người trong bức ảnh, đang nghiêng người trên mái nhà để kéo người lên. Chiến dịch đó kéo dài đến tận chiều tối và thực tế có tới ba chiếc trực thăng Air America lần lượt hạ cánh trên mái nhà đó.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Chiếc trực thăng trên nóc tòa nhà số 22 đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) đưa người đi sơ tán vào ngày 29/4/1975.
Tuy nhiên, bạn gái của Trưởng trạm CIA lại không nằm trong số những người được cứu đi. Nhưng chúng tôi đã đưa được cựu giám đốc tình báo Sài Gòn (tức Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời Ngô Đình Diệm; chuyến bay này còn có Trung tướng Trần Văn Đôn - BBC chú thích) lên máy bay, cùng nhiều người khác. Ai đến trước thì được đi trước. Tất cả đều hỗn loạn.
Trong ngày hôm đó, tôi còn xuống sát bức tường tòa đại sứ để giúp nhiều người leo qua. Người ta gào thét cầu cứu, tôi nắm tay kéo người này lên, rồi phát hiện ra một bà mẹ đã bỏ lại đứa con nhỏ. Chúng tôi lại phải tìm cách đưa đứa trẻ qua bức tường. Người ta đánh nhau, giành giật để được cứu trước.
Chúng tôi thỉnh thoảng mở cổng bên hông tòa đại sứ cho dòng người ùa vào.
Cuối cùng, vào cuối buổi chiều, những chiếc trực thăng lớn từ hạm đội mới bắt đầu tới nơi nhưng họ không thể đáp được ngay trên nóc tòa đại sứ mà phải hạ cánh trong sân.
Khi đó, cánh quạt trực thăng đã thổi tung các gói tài liệu mật mà chúng tôi đem ra sân để tiêu hủy, khiến giấy tờ, dù đã xé đi một phần, bay tán loạn trên cây cối, mặt đường. Khi quân Bắc Việt tiến vào, họ chỉ việc dán lại là đọc được những thông tin mật.
Đó thực sự là một cơn ác mộng.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Các thường dân di tản lên trực thăng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bên trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ để được trực thăng vận ra Hạm đội 7 của Hoa Kỳ trước khi quân ******** tiến vào Sài Gòn trong ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975.
Tôi liên tục vào phòng tác chiến để nhận tín hiệu cầu cứu và cố gắng điều trực thăng đến đón người. Trưởng trạm CIA, Tom Polgar – người mà tôi rất kính trọng – đã để lại những người mà ông ấy rất gắn bó bên ngoài bức tường của tòa đại sứ, bao gồm cả bạn gái của ông ấy.
Vì vậy, ông trở nên hoàn toàn mất tập trung còn ông đại sứ thì bắt đầu suy sụp.
Sáng hôm đó, tôi nhiều lần xuống văn phòng ông đại sứ. Có lần, tôi thấy ông quỳ gối tự tay xé nát tài liệu, rồi nhét những tài liệu quan trọng khác vào cặp, vì ông biết mình sẽ bị đổ lỗi và cần bằng chứng để tự vệ.
Trên hành lang, tôi cũng thấy nhiều nhân vật quan trọng tìm cách chen vào. Cả Trung tướng Đặng Văn Quang – Cố vấn An ninh Quốc gia – cũng tuyệt vọng tìm đường thoát thân.
Thậm chí có cả đoàn ngoại giao Hungary – những "bạn bè" ******** – cũng cử người lên phòng tác chiến CIA cầu cứu để được di tản. CIA đã phải điều người đến giải cứu họ – những kẻ trước đó đã đánh cắp tin tức của VNCH cho Bắc Việt. Chúng tôi đã phải cứu họ khỏi chính "đồng chí" của họ.
Các nhà ngoại giao Bắc Việt cũng đã có mặt ở Tân Sơn Nhứt từ sau hiệp định ngừng bắn và vào ngày đó, họ phải trốn trong mương để tránh bị pháo kích.
Tất cả là một cơn hỗn loạn điên rồ.
Và tôi đã kiệt sức. Tôi không ngủ suốt ba tuần liền. Nói đúng ra thì tôi chỉ còn cử động cơ thể bằng ý chí. Có lúc, mọi người bắt đầu xếp hàng dài trong hành lang của tòa đại sứ. Hệ thống điều hòa không khí đã hỏng nên ngột ngạt khủng khiếp.
Nhiệt độ lúc đó khoảng 40 độ C. Thang máy đã ngừng hoạt động nên người Việt Nam lẫn người Mỹ phải chen chúc nhau đi trên cầu thang bộ để đến được sân thượng.
Các lính Thủy quân lục chiến Mỹ thì cố gắng kiểm soát đám đông trong đại sứ quán.
Khung cảnh thật siêu thực, hỗn loạn hoàn toàn.
Lúc đó trong đầu tôi chợt nghĩ, lỡ có ai cầm theo một quả lựu đạn thì sao? Và đúng như vậy, một quả lựu đạn đã phát nổ bên kia đường đối diện đại sứ quán, giết chết nhiều người.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Ảnh trái: Nhân viên Mỹ và người phụ thuộc cùng người dân miền Nam Việt Nam tụ tập bên trong khuôn viên Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn khi trực thăng đưa những nhóm nhỏ lên tàu thủy ở ngoài khơi một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay Bắc Việt.Ảnh phải: Thủy quân lục chiến Mỹ đuổi hai người đàn ông Việt Nam đang cố trèo qua hàng rào dây kẽm gai để vào Đại sứ quán Mỹ trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến.