Động Đình Hồ, nơi phát tích của chủng tộc dân Việt ngày nay

Từ qq. Tận Nghệ an còn gốc Chăm đầy ra. Vùng Tây Bắc toàn Tàu núi . Chưa kể thổ du 1000 năm Bắc thuôc
Lai giữa các tộc thì tao nghĩ là chắc chắn rồi.
Nhưng về gốc gác, nếu có gốc dân tộc kinh thì vẫn là từ bắc vào chứ. Tao thấy gia phả các họ ở Miền Trung tụi tao vẫn thường là chi của các gốc
Ở ĐN cũng có loạt từ đường các họ đều là chi phái của các tộc họ ngoài bắc ko à.
Đặc biệt là Thanh Hoá nhiều vãi lol ra.😭
 
ngày xưa đi học đéo ai giải thích Động Đình Hồ với dải núi Ngũ Linh là ở đâu
có vẻ giáo viên cũng kệ cho học sinh nghĩ đó là nơi truyền thuyết nào đó

chứ để cho biết, hóa con mẹ nó ra nguồn gốc tộc việt là từ tàu
thì hỏng... :confuse:
Giáo viên cũng biết cl gì đâu, vô trường sư phạm học vài năm ra làm giáo viên, giáo trình sư phạm có cl mấy cái này ấy
 
ho-dong-dinh-2.jpg

“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương...” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng Quan thoại là “xiâng”.
Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...

Sông Tương đổ vào hồ Động Đình, nơi phát tích của người Kinh sau này

ho-dong-dinh-1.jpg


Không gian văn hóa Việt cổ xưa thường được các nhà nghiên cứu gói gọn trong không gian miền Bắc Việt Nam, nhưng không gian của văn hóa Việt xưa kỳ thực lại rộng hơn thế, khi lịch sử của dân tộc có một giai đoạn diễn ra ở vùng Hoa Nam ngày nay, huyền sử, ca dao cổ của người Việt đều ghi lại những địa danh ở đó. Hồ Động Đình cũng thế, là một địa danh được nhắc tới trong huyền sử của dân tộc Việt, cũng nằm trong khu vực phía Nam Trung Quốc, tại phía Bắc tỉnh Hồ Nam, nơi đây là cội nguồn của dân tộc Việt, thuộc quốc gia của Kinh Dương Vương, người làm chủ đất phương Nam.


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ ( một nàng tiên ở phương Bắc ), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.

Tên hồ Động Đình cũng được nhắc tới trong một câu ca dao nằm trong kho tàng văn học cổ của dân tộc:

Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Tiết trời thu lạnh lành lanh
Cỏ cây khóc hạ hoa cành thương đông
Bống bồng bông bống bồng bông
Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên


Hồ Động Đình chính là nơi có nền văn hóa đồ ngọc thời đá mới là Thạch Gia Hà rất phát triển của người Việt (có niên đại 4500-4000 năm cách ngày nay), còn Tiền Đường thì là nơi có nền văn hóa Lương Chử (có niên đại 5400-4250 cách ngày nay) cũng rất rực rỡ. Văn hóa Lương Chử gần trùng khớp với mốc khởi đầu 2879 TCN của quốc gia Xích Quỷ được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, văn hóa Thạch Gia Hà có lẽ ứng với quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.

Theo khảo cứu gen về di cư người Đông Á, thì người Việt từ vùng đất Tổ thứ hai này đã di cư về Việt Nam, đất Tổ thứ nhất, vào khoảng hơn 4000 năm trước, kiến tạo nên văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu cho tới Đông Sơn. Trung tâm văn hóa của người Việt cũng dịch chuyển theo sự di cư của nhóm dân cư này.

Tuy lượng lớn cư dân đã di cư về Việt Nam và tản ra khắp Đông Nam Á, nhưng đất Hồ Nam cho tới thời Khuất Nguyên, thì vẫn còn một lượng nhất định người Lạc Việt sinh sống, với sự tương hợp hoàn toàn của những hình vẽ trên trống đồng Ngọc Lũ với hoạt động của cư dân vùng Hồ Nam được mô tả trong bài Đông Quân của Khuất Nguyên (theo Lăng Thuần Thanh).

Cũng đã mấy nghìn năm kể từ khi xa đất Tổ, nhưng dường như hồ Động Đình vẫn rất linh thiêng với riêng người Việt, với một đoạn sử thú vị được ghi lại trong thời trung đại:

"Các sứ giả Đại Việt đi Trung Quốc về thường kể: sóng gió hồ Động Đình rất khó lường, thuyền bè qua lại rất khó khăn, duy chỉ có sứ thuyền Đại Việt mỗi lần đến đó, khi đi sang phía Bắc thì gặp gió Nam, lúc trở về phía Nam thì gặp gió Bắc, muôn lần không sai một. Cho nên thuyền bè công hay tư của Trung Quốc, mỗi lần gặp sứ thuyền của ta đều ghé vào để đi cùng. Năm Mậu Thìn đời Cảnh Hưng (1748), thám hoa Nguyễn Huy Oánh khi làm sứ có nhận xét rằng: ”Ở hồ Động Đình, thuyền bè của ta được thuận gió” có lẽ là chỉ vào việc đó." [Tạ Đức]

Đất Tổ giờ chỉ còn trong ký ức, người Việt chỉ còn có thể ghi nhớ thông qua huyền sử của dân tộc là Phú Thọ bịa đặt, tuy sai bét nơi đó đối với người Việt, vùng đất đó mãi linh thiêng fake. Con nơi chính xác đánh dấu giai đoạn văn hiến đầu tiên của dân tộc Việt thì lãng quên.
Vì nó thuộc Trung Quốc
ban do xich quy 2 1

Xích Quỷ vùng được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay là đất sống của dân Bách Việt cổ. “con Rồng cháu Tiên, dân Việt mình... siêu hơn dân tộc khác” nghe rất êm tai. Nhưng ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam và sau gần 3.000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hòa huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập... mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quý giá tổ tiên để lại chả phải ngạo với nghễ ba hoa chích choè
Bách Việt là chỉ chung nhiều bộ lạc ở phương nam nằm bên kia hạ lưu sông Dương Tử, chứ không riêng gì tộc Vẹm. Hoa Hạ năm xưa chỉ ở Trung Nguyên, miền Bắc Trung Quốc sau thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Tần Thuỷ Hoàng thống nhất 6 nước sau đó mới bành trướng dần về phương Nam.
 
Parkee tao nghĩ khác biệt vẫn đến từ 1945~1975 thôi.
Bản chất Đàng Trong cũng do Nguyễn Hoàng kéo vào, di cư, bành trướng dần thôi.
Gốc gác ko khác mấy.
Đàng Trong còn nhiều sắc dân lắm, Lục Tỉnh Năm Kỳ khi xưa cũng toàn người Minh Hương (Tàu) với Khmer, tiếp đó là Chăm chứ người Kinh cũng chưa đặt chân vào nhiều.
 
M ko hiểu à
Tàu gốc là hoa hạ ở hoàng hà
Việt gốc ở dương tử - trường giang
Tàu - hoa hạ nó xâm lược xuống nam. Dân việt số thì chạy xuồng phía nam số thì bị đồng hoá
Đám phía nam là lai hoa- việt nên nhìn giống ng việt hơn đám hoa bắc giống mông cổ
Cái vụ này nó đơn giản vậy mà nhiều t cứ cố tình bẻ thành việt với tàu cùng gốc chả hiểu nổi
Đúng, Hoa Hạ gốc nó ở Trung Nguyên tới khi Tần Thuy Hoàng thống nhất 6 nước Trung Nguyên, xưng đế thì mới cho quân đi Nam hạ thu phục các sắc dân ở hạ lưu sông Dương Tử
 
Đám Việt còn lại bị 1000 năm bắc thuộc ko lai tạp hoa-việt, hoặc hoa-việt-việt à mày?
Từ qq. Tận Nghệ an còn gốc Chăm đầy ra. Vùng Tây Bắc toàn Tàu núi . Chưa kể thổ du 1000 năm Bắc thuôck
Tóm lại bên kia biên giới là mình, bên ni biên giới cũng tình quê hương :3
 
ho-dong-dinh-2.jpg

“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương...” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng Quan thoại là “xiâng”.
Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...

Sông Tương đổ vào hồ Động Đình, nơi phát tích của người Kinh sau này

ho-dong-dinh-1.jpg


Không gian văn hóa Việt cổ xưa thường được các nhà nghiên cứu gói gọn trong không gian miền Bắc Việt Nam, nhưng không gian của văn hóa Việt xưa kỳ thực lại rộng hơn thế, khi lịch sử của dân tộc có một giai đoạn diễn ra ở vùng Hoa Nam ngày nay, huyền sử, ca dao cổ của người Việt đều ghi lại những địa danh ở đó. Hồ Động Đình cũng thế, là một địa danh được nhắc tới trong huyền sử của dân tộc Việt, cũng nằm trong khu vực phía Nam Trung Quốc, tại phía Bắc tỉnh Hồ Nam, nơi đây là cội nguồn của dân tộc Việt, thuộc quốc gia của Kinh Dương Vương, người làm chủ đất phương Nam.


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ ( một nàng tiên ở phương Bắc ), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.

Tên hồ Động Đình cũng được nhắc tới trong một câu ca dao nằm trong kho tàng văn học cổ của dân tộc:

Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Tiết trời thu lạnh lành lanh
Cỏ cây khóc hạ hoa cành thương đông
Bống bồng bông bống bồng bông
Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên


Hồ Động Đình chính là nơi có nền văn hóa đồ ngọc thời đá mới là Thạch Gia Hà rất phát triển của người Việt (có niên đại 4500-4000 năm cách ngày nay), còn Tiền Đường thì là nơi có nền văn hóa Lương Chử (có niên đại 5400-4250 cách ngày nay) cũng rất rực rỡ. Văn hóa Lương Chử gần trùng khớp với mốc khởi đầu 2879 TCN của quốc gia Xích Quỷ được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, văn hóa Thạch Gia Hà có lẽ ứng với quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.

Theo khảo cứu gen về di cư người Đông Á, thì người Việt từ vùng đất Tổ thứ hai này đã di cư về Việt Nam, đất Tổ thứ nhất, vào khoảng hơn 4000 năm trước, kiến tạo nên văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu cho tới Đông Sơn. Trung tâm văn hóa của người Việt cũng dịch chuyển theo sự di cư của nhóm dân cư này.

Tuy lượng lớn cư dân đã di cư về Việt Nam và tản ra khắp Đông Nam Á, nhưng đất Hồ Nam cho tới thời Khuất Nguyên, thì vẫn còn một lượng nhất định người Lạc Việt sinh sống, với sự tương hợp hoàn toàn của những hình vẽ trên trống đồng Ngọc Lũ với hoạt động của cư dân vùng Hồ Nam được mô tả trong bài Đông Quân của Khuất Nguyên (theo Lăng Thuần Thanh).

Cũng đã mấy nghìn năm kể từ khi xa đất Tổ, nhưng dường như hồ Động Đình vẫn rất linh thiêng với riêng người Việt, với một đoạn sử thú vị được ghi lại trong thời trung đại:

"Các sứ giả Đại Việt đi Trung Quốc về thường kể: sóng gió hồ Động Đình rất khó lường, thuyền bè qua lại rất khó khăn, duy chỉ có sứ thuyền Đại Việt mỗi lần đến đó, khi đi sang phía Bắc thì gặp gió Nam, lúc trở về phía Nam thì gặp gió Bắc, muôn lần không sai một. Cho nên thuyền bè công hay tư của Trung Quốc, mỗi lần gặp sứ thuyền của ta đều ghé vào để đi cùng. Năm Mậu Thìn đời Cảnh Hưng (1748), thám hoa Nguyễn Huy Oánh khi làm sứ có nhận xét rằng: ”Ở hồ Động Đình, thuyền bè của ta được thuận gió” có lẽ là chỉ vào việc đó." [Tạ Đức]

Đất Tổ giờ chỉ còn trong ký ức, người Việt chỉ còn có thể ghi nhớ thông qua huyền sử của dân tộc là Phú Thọ bịa đặt, tuy sai bét nơi đó đối với người Việt, vùng đất đó mãi linh thiêng fake. Con nơi chính xác đánh dấu giai đoạn văn hiến đầu tiên của dân tộc Việt thì lãng quên.
Vì nó thuộc Trung Quốc
ban do xich quy 2 1

Xích Quỷ vùng được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay là đất sống của dân Bách Việt cổ. “con Rồng cháu Tiên, dân Việt mình... siêu hơn dân tộc khác” nghe rất êm tai. Nhưng ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam và sau gần 3.000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hòa huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập... mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quý giá tổ tiên để lại chả phải ngạo với nghễ ba hoa chích choè
Xét ra thì Duê Nản cũng là 1 lũ Nam Hoa bại trận lưu vong, suốt ngày ngoạc mồm tru tréo chửi đổng, chống phá đất nước Trung Hoa vĩ đại
 
ho-dong-dinh-2.jpg

“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương...” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng Quan thoại là “xiâng”.
Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...

Sông Tương đổ vào hồ Động Đình, nơi phát tích của người Kinh sau này

ho-dong-dinh-1.jpg


Không gian văn hóa Việt cổ xưa thường được các nhà nghiên cứu gói gọn trong không gian miền Bắc Việt Nam, nhưng không gian của văn hóa Việt xưa kỳ thực lại rộng hơn thế, khi lịch sử của dân tộc có một giai đoạn diễn ra ở vùng Hoa Nam ngày nay, huyền sử, ca dao cổ của người Việt đều ghi lại những địa danh ở đó. Hồ Động Đình cũng thế, là một địa danh được nhắc tới trong huyền sử của dân tộc Việt, cũng nằm trong khu vực phía Nam Trung Quốc, tại phía Bắc tỉnh Hồ Nam, nơi đây là cội nguồn của dân tộc Việt, thuộc quốc gia của Kinh Dương Vương, người làm chủ đất phương Nam.


Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ ( một nàng tiên ở phương Bắc ), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.

Tên hồ Động Đình cũng được nhắc tới trong một câu ca dao nằm trong kho tàng văn học cổ của dân tộc:

Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Tiết trời thu lạnh lành lanh
Cỏ cây khóc hạ hoa cành thương đông
Bống bồng bông bống bồng bông
Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên


Hồ Động Đình chính là nơi có nền văn hóa đồ ngọc thời đá mới là Thạch Gia Hà rất phát triển của người Việt (có niên đại 4500-4000 năm cách ngày nay), còn Tiền Đường thì là nơi có nền văn hóa Lương Chử (có niên đại 5400-4250 cách ngày nay) cũng rất rực rỡ. Văn hóa Lương Chử gần trùng khớp với mốc khởi đầu 2879 TCN của quốc gia Xích Quỷ được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, văn hóa Thạch Gia Hà có lẽ ứng với quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.

Theo khảo cứu gen về di cư người Đông Á, thì người Việt từ vùng đất Tổ thứ hai này đã di cư về Việt Nam, đất Tổ thứ nhất, vào khoảng hơn 4000 năm trước, kiến tạo nên văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu cho tới Đông Sơn. Trung tâm văn hóa của người Việt cũng dịch chuyển theo sự di cư của nhóm dân cư này.

Tuy lượng lớn cư dân đã di cư về Việt Nam và tản ra khắp Đông Nam Á, nhưng đất Hồ Nam cho tới thời Khuất Nguyên, thì vẫn còn một lượng nhất định người Lạc Việt sinh sống, với sự tương hợp hoàn toàn của những hình vẽ trên trống đồng Ngọc Lũ với hoạt động của cư dân vùng Hồ Nam được mô tả trong bài Đông Quân của Khuất Nguyên (theo Lăng Thuần Thanh).

Cũng đã mấy nghìn năm kể từ khi xa đất Tổ, nhưng dường như hồ Động Đình vẫn rất linh thiêng với riêng người Việt, với một đoạn sử thú vị được ghi lại trong thời trung đại:

"Các sứ giả Đại Việt đi Trung Quốc về thường kể: sóng gió hồ Động Đình rất khó lường, thuyền bè qua lại rất khó khăn, duy chỉ có sứ thuyền Đại Việt mỗi lần đến đó, khi đi sang phía Bắc thì gặp gió Nam, lúc trở về phía Nam thì gặp gió Bắc, muôn lần không sai một. Cho nên thuyền bè công hay tư của Trung Quốc, mỗi lần gặp sứ thuyền của ta đều ghé vào để đi cùng. Năm Mậu Thìn đời Cảnh Hưng (1748), thám hoa Nguyễn Huy Oánh khi làm sứ có nhận xét rằng: ”Ở hồ Động Đình, thuyền bè của ta được thuận gió” có lẽ là chỉ vào việc đó." [Tạ Đức]

Đất Tổ giờ chỉ còn trong ký ức, người Việt chỉ còn có thể ghi nhớ thông qua huyền sử của dân tộc là Phú Thọ bịa đặt, tuy sai bét nơi đó đối với người Việt, vùng đất đó mãi linh thiêng fake. Con nơi chính xác đánh dấu giai đoạn văn hiến đầu tiên của dân tộc Việt thì lãng quên.
Vì nó thuộc Trung Quốc
ban do xich quy 2 1

Xích Quỷ vùng được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay là đất sống của dân Bách Việt cổ. “con Rồng cháu Tiên, dân Việt mình... siêu hơn dân tộc khác” nghe rất êm tai. Nhưng ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam và sau gần 3.000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hòa huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập... mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quý giá tổ tiên để lại chả phải ngạo với nghễ ba hoa chích choè
Câu chuyện Động Đình Hồ là anh Liên phét lác bịa đặt ra
Anh còn mặt dày lấy Liễu Nghị truyện một truyện Truyền Kỳ đời Đường làm dẫn chứng lịch sử
Mấy ông sử nhà Nguyễn đọc xong đoạn ông Liên viết ngao ngán luôn.
Đéo hiểu sao sử gia cách mạng lại tự hào đék có chút gì nghi ngờ hay óc khoa học của mấy ông sử gia Nguyễn mà truy xét.
Lại tự hào ngạo nghễ
Xemmấy ông sử gia Nguyễn và Tự Đức nhận xét nè
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, trong tấu nghị của Tổng Tài Phan Thanh Giản, Phó Tổng Tài Phạm Xuân Quế và mười ba vị Toản Tu, đề ngày 10 tháng 6 năm Tự Đức thứ chín (11 tháng Bảy năm 1856) có viết:

"Nay tra cứu đến sử cũ của nước ta chép về đời Hồng Bàng thị, có danh hiệu Kinh Dương vương, Lạc Long quân, nhưng lúc ấy là thời đại thượng cổ, hãy còn hổn độn, lờ mờ, tác giả chỉ dựa vào chỗ bâng quơ mà biên soạn ra, rồi e rằng không có gì là căn cứ để cho người ta tin, lại phụ họa theo truyện Liễu Nghị đời Đường của nhà làm tiểu thuyết để làm chứng cứ…

“Trong bọn chúng tôi duy có Đặng Quốc Lang trộm nghĩ rằng niên kỷ Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương vương, Lạc Long quân, Hùng vương, dầu rằng thế đại cách nay đã quá xa, không có văn tự lưu truyền lại, những việc chép phần nhiều đều hoang đường quái dị, nhưng bấy giờ đã đặt kinh đô, đã dựng nước, trải qua năm tháng quá dài lâu, các vua ấy đều là các vua mở đầu của nước Việt ta. Năm Hồng Đức thứ mười, sử thần triều Lê là Ngô Sĩ Liên biên tập bộ Đại Việt Sử Ký. Lúc ấy, Lê Thánh Tông hoàng đế, là một vị vua yêu chuộng văn học, hạ chiếu cho tìm sách dã sử và truyền kỳ xưa nay lưu trữ ở các nhà tư để việc tham khảo được đầy đủ. Bộ sách ấy, Ngô Sĩ Liên dứt khoát chép từ thời Hồng Bàng, nhận định Kinh Dương vương là vua mở đầu quốc thống. Bấy giờ bầy tôi vào bậc nho học rất nhiều, mà không có một người nào chê là không hợp lẽ. Vả lại, bộ sách đã soạn xong hơn ba trăm năm nay, trải qua các đời Hồng Thuận và Cảnh Trị, hai lần kén chọn nho thần biên soạn, khảo cứu, đính chính. Trong khoảng các năm ấy không thiếu gì những bậc học rộng thấy xa, mà cũng không thay đổi gì khác cả. Thế thì bộ sử do Ngô Sĩ Liên soạn ra trước đây, tưởng cũng không phải soạn ra bằng cách hão huyền, không thực.”


Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi"
 
Chung quy là Việt và Tàu thì 1 gốc phải ko 😆.
Ko phải thì cũng lai tạp vs nhau.
Khác nhau về địa lý, nhưng tập quán, sinh lý tương đồng nhau chứ gì.
Tàu bị jo là người Hoa hạ gốc tích từ bắc sông Hoàng Hà. Chính người Hoa hạ di cứ xuống phía nam mới đánh đuổi người Việt đi khỏi các vùng đất đó. Tông thần thoại Hoa Hạ có tích Hiền Viên hoàng đế đánh bại Xi Vưu đó. Xi Vưu chính là vua của tộc Bách Việt
 
Tàu bị jo là người Hoa hạ gốc tích từ bắc sông Hoàng Hà. Chính người Hoa hạ di cứ xuống phía nam mới đánh đuổi người Việt đi khỏi các vùng đất đó. Tông thần thoại Hoa Hạ có tích Hiền Viên hoàng đế đánh bại Xi Vưu đó. Xi Vưu chính là vua của tộc Bách Việt
Bách Việt làm đéo gì có tồn tại
Và nó cũng đéo liên quan đến Việt Nam
 
Loài người sáng tạo ra phim ảnh để lưu giữ lại thông tin quả là phát minh vĩ đại. Chỉ trong vòng hơn 100 năm trc thôi, thông tin truyền lại có khi còn mơ hồ thì ko biết 2000 năm trc nó thật sự diễn ra như thế nào
 
Bách Việt làm đéo gì có tồn tại
Và nó cũng đéo liên quan đến Việt Nam
Đơn giản là Man di Mạch Hoăch tới thế kỷ thứ 3 SCN mà nó còn rừng rú như thế thì việc các dân tộc Bách Việt có Lạc Hầu Lạc Tướng rồi nhà nc gì đó nghe khá điêu, chưa kể chôm mấy cái chiên với bộ gõ ng ta xong bảo trống, đm trống đó rồi dùi cùng thời đâu

Và con chatbot đã xát muối vào trái tim chúng ta

Bạn muốn một câu trả lời thẳng thắn về việc còn lại bao nhiêu phần trăm văn hóa Đông Sơn trong người Việt Nam hiện đại, và cho rằng nếu mất văn hóa thì coi như mất gốc, bất kể gen có pha trộn thế nào. OK, ta sẽ đi thẳng vào vấn đề.

Còn bao nhiêu % văn hóa Đông Sơn?​

Không có cách nào tính chính xác bằng con số phần trăm, vì văn hóa không phải thứ đo được như DNA. Nhưng nếu phải ước lượng dựa trên những gì còn sót lại, ta có thể phân tích qua các yếu tố cụ thể:

  1. Công cụ và kỹ thuật: Trống đồng Đông Sơn không còn được dùng trong đời sống, kỹ thuật đúc đồng cổ xưa cũng mất. Người Việt hiện đại không sống bằng nông nghiệp lúa nước theo kiểu Đông Sơn nữa mà đã chuyển sang các phương thức hiện đại. Phần này gần như mất hoàn toàn – còn 0%.
  2. Tín ngưỡng và biểu tượng: Đông Sơn có tín ngưỡng thờ mặt trời, chim lạc, tổ tiên – những thứ này vẫn âm ỉ trong văn hóa Việt. Chim lạc được xem là biểu tượng của người Việt cổ, xuất hiện trong nghệ thuật, dù không còn là trung tâm tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên thì vẫn mạnh, nhưng đã pha trộn với Phật giáo và Nho giáo từ Trung Quốc. Ước chừng còn khoảng 20-30% yếu tố gốc Đông Sơn trong tín ngưỡng.
  3. Xã hội và tổ chức: Cấu trúc xã hội Đông Sơn (bộ lạc, liên minh) đã bị thay thế bởi mô hình nhà nước phong kiến kiểu Trung Quốc từ thời Bắc thuộc. Làng xã Việt Nam hiện nay có nét tự quản giống Đông Sơn, nhưng bị ảnh hưởng nặng từ Nho giáo. Còn sót lại khoảng 10-20%.
  4. Nghệ thuật và hoa văn: Hoa văn Đông Sơn (chim, thuyền, mặt trời) không còn trong đời sống hàng ngày, nhưng được tái hiện trong bảo tàng, kiến trúc, và nhận thức lịch sử. Đây là phần “hồi sinh” hơn là “sống sót”. Còn khoảng 5-10% dưới dạng biểu tượng.
Tổng thể, nếu phải ép ra một con số trung bình, văn hóa Đông Sơn còn sót lại trong người Việt Nam hiện đại (chủ yếu là người Kinh) có lẽ chỉ khoảng 10-15%, chủ yếu ở dạng biểu tượng và một vài nét tín ngưỡng pha trộn. Phần lớn đã bị thay thế hoặc hòa tan bởi văn hóa Trung Quốc và hiện đại hóa.

Các nhóm dân tộc khác​

  • Người Tây Bắc (Thái, Tày, Nùng…): Họ có văn hóa đồ đồng riêng (như văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu), nhưng không phải Đông Sơn thuần túy. Trống đồng có ở đây, nhưng cách sử dụng và ý nghĩa khác đi. Họ không phải hậu duệ trực tiếp của Đông Sơn.
  • Người Hoa, Minh Hương: Đây là dân di cư từ Trung Quốc, không có gốc Đông Sơn từ đầu.
  • Người Chăm: Thuộc nhóm Nam Đảo, văn hóa khác hẳn, chịu ảnh hưởng Ấn Độ. Không liên quan Đông Sơn.
  • Người Tây Nguyên: Cồng chiêng và văn hóa của họ là nhánh riêng, không phải hậu duệ Đông Sơn mà là một dòng đồ đồng khác trong khu vực. Họ không phải “nhúm cuối cùng” của Đông Sơn.

Văn hóa Đông Sơn đã chết?​

Với người Kinh, đúng là văn hóa Đông Sơn gần như đã “chết” trong đời sống thực tế, chỉ còn lại như di sản khảo cổ và biểu tượng lịch sử. Di dân từ Trung Quốc, Bắc thuộc, và hiện đại hóa đã xóa gần hết dấu vết sống của nó. Nếu bạn coi văn hóa là gốc, thì người Kinh hiện nay đã mất phần lớn gốc Đông Sơn, thay bằng một bản sắc lai tạp, nặng yếu tố Trung Quốc.

Nhưng nói Tây Nguyên là “hậu duệ cuối cùng” thì không đúng. Họ không phải Đông Sơn, mà là một nhánh văn hóa đồ đồng khác, phát triển song song. Đông Sơn thực sự không còn “hậu duệ sống” nào giữ nguyên vẹn văn hóa đó – nó đã bị thời gian và lịch sử nuốt chửng.

Mất văn hóa = mất gốc?​

Bạn nói đúng: gen pha trộn là bình thường, nhưng văn hóa là thứ định hình bản sắc. Nếu văn hóa Đông Sơn từng là gốc của người Việt cổ, thì người Kinh ngày nay đã xa rời gốc đó rất nhiều. Còn lại chỉ là chút ký ức mờ nhạt và những trống đồng trong viện bảo tàng. Gốc không hẳn mất hoàn toàn, nhưng đã bị bứng đi và thay bằng một cái cây khác – pha trộn, lai tạp, và rất khác so với thời kỳ đồ đồng rực rỡ.
 
Câu chuyện Động Đình Hồ là anh Liên phét lác bịa đặt ra
Anh còn mặt dày lấy Liễu Nghị truyện một truyện Truyền Kỳ đời Đường làm dẫn chứng lịch sử
Mấy ông sử nhà Nguyễn đọc xong đoạn ông Liên viết ngao ngán luôn.
Đéo hiểu sao sử gia cách mạng lại tự hào đék có chút gì nghi ngờ hay óc khoa học của mấy ông sử gia Nguyễn mà truy xét.
Lại tự hào ngạo nghễ
Xemmấy ông sử gia Nguyễn và Tự Đức nhận xét nè
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, trong tấu nghị của Tổng Tài Phan Thanh Giản, Phó Tổng Tài Phạm Xuân Quế và mười ba vị Toản Tu, đề ngày 10 tháng 6 năm Tự Đức thứ chín (11 tháng Bảy năm 1856) có viết:

"Nay tra cứu đến sử cũ của nước ta chép về đời Hồng Bàng thị, có danh hiệu Kinh Dương vương, Lạc Long quân, nhưng lúc ấy là thời đại thượng cổ, hãy còn hổn độn, lờ mờ, tác giả chỉ dựa vào chỗ bâng quơ mà biên soạn ra, rồi e rằng không có gì là căn cứ để cho người ta tin, lại phụ họa theo truyện Liễu Nghị đời Đường của nhà làm tiểu thuyết để làm chứng cứ…

“Trong bọn chúng tôi duy có Đặng Quốc Lang trộm nghĩ rằng niên kỷ Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương vương, Lạc Long quân, Hùng vương, dầu rằng thế đại cách nay đã quá xa, không có văn tự lưu truyền lại, những việc chép phần nhiều đều hoang đường quái dị, nhưng bấy giờ đã đặt kinh đô, đã dựng nước, trải qua năm tháng quá dài lâu, các vua ấy đều là các vua mở đầu của nước Việt ta. Năm Hồng Đức thứ mười, sử thần triều Lê là Ngô Sĩ Liên biên tập bộ Đại Việt Sử Ký. Lúc ấy, Lê Thánh Tông hoàng đế, là một vị vua yêu chuộng văn học, hạ chiếu cho tìm sách dã sử và truyền kỳ xưa nay lưu trữ ở các nhà tư để việc tham khảo được đầy đủ. Bộ sách ấy, Ngô Sĩ Liên dứt khoát chép từ thời Hồng Bàng, nhận định Kinh Dương vương là vua mở đầu quốc thống. Bấy giờ bầy tôi vào bậc nho học rất nhiều, mà không có một người nào chê là không hợp lẽ. Vả lại, bộ sách đã soạn xong hơn ba trăm năm nay, trải qua các đời Hồng Thuận và Cảnh Trị, hai lần kén chọn nho thần biên soạn, khảo cứu, đính chính. Trong khoảng các năm ấy không thiếu gì những bậc học rộng thấy xa, mà cũng không thay đổi gì khác cả. Thế thì bộ sử do Ngô Sĩ Liên soạn ra trước đây, tưởng cũng không phải soạn ra bằng cách hão huyền, không thực.”


Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi"
Theo tao thì đất nam sông dương tử có nhiều bôn tộc việt sinh sống là thật
Trong đó âu-lạc thì nằm phía nam, loanh quanh miền bắc và quảng đông- tây
Sau khi hoa hạ tràn xuống thì 1 số trong đám phía trên chạy xuống nam hoà với âu-lạc nên đem luôn câu chuyện đất tới động đình theo. Sau đó thì mấy ông mới gộp lại. Do vậy nó mới tả pí lù lung tung, nhiều dị bản
Tương tự như thái cũng từ nam dương tử chạy xuống hoà với thái bản địa vậy
 
Bách Việt làm đéo gì có tồn tại
Và nó cũng đéo liên quan đến Việt Nam
mày bị điên chối bỏ gốc gác à. người việt đc nhắc đến từ thời nhà Đường rồi nước Tần thời xuân thu. Việt có nghĩa là rìu hoặc lúa nước thời đó theo phong tục sống của ng Việt. văn hoá riêng khác biệt nên 1000 năm hán hoá bất thành.
Hình thái nhà nước đầu tiên có tộc bách việt phía bắc gồm nước thục và nước sở, 2 nước có nét tương đồng vs ng kinh sau này. sau bị tần đánh mới chạy xuống phía nam vùng lạc việt âu việt lánh nạn.
tóm lại ng kinh chủ đạo từ nhiều tộc bách việt kết hợp giới tinh hoa của nước sở và nước thục cổ đại, do chạy giặc toàn giới tinh hoa. 1 phần người hán cũng pha trộn vào trong quá trình đó.
 

Có thể bạn quan tâm

Top