Dùng grok phân tích về thầy Thích Thông Lạc căn cứ vào lý lịch của thầy ở tu viện chơn như

Kèo này ko xác định đc đâu vì nó chỉ suy diễn thôi ,nhận kèo cũng chả xác định đc vì có ai biết tâm can ông Minh Tuệ muốn gì ,còn nếu kèo chỉ cần tìm ra câu nói ông Minh Tuệ bảo ổng chủ động thì tau chấp nhận luôn cho nhanh thế nhé
Giờ tao đưa ra được vid thầy mày đứng bên đường rủ chụp ảnh, mày chỉ cần nói, aidokophailatoi là con chó, ok?
 
Lý lịch của thầy Thích Thông Lạc do tu viện chơn như cung cấp
Và đây là cơ sở dữ liệu để phân tích của grok

TRƯỞNG LÃO THÔNG LẠC

Thầy Viện Chủ được may mắn sanh trong một gia đình có truyền thống tu hành Phật Giáo. Thầy sanh ngày 17-9-1927, mẹ Thầy đã có hai người con rồi tái giá mà Thầy là người con đầu của người chồng sau, Thầy có tất cả 7 anh chị em. Từ ngày ông Cố Nội lập ra Long An Tự, rồi kế truyền ông Nội, rồi bà Nội, ông Bác và ông Thân Sinh đều tu theo Tịnh Độ Tông; riêng ông Thân Sinh đã vào Núi Bà Đen tu thêm Mật Tông bùa chú rất linh hiển của một Ông Lục. Thầy Viện Chủ ngay từ lúc 8 tuổi đã được xuất gia vào chùa tu học dưới sự dạy dỗ của ông Bác và ông Thân Sinh. Thầy học thông suốt Hán tự, học kinh sách, học ứng phú đạo tràng, rành thông nghi lễ cổ truyền của Tịnh Độ Tông, lại được chân truyền bùa chú Mật Tông của ông Thân Sinh nên pháp lực khá được nổi tiếng. Năm 16 tuổi mới bắt đầu học chữ quốc ngữ và Thầy đã đỗ được các văn bằng Tú Tài toàn phần chương trình Pháp.

Năm 1961, do tình hình chiến tranh bất an trong vùng, Thầy xin về chùa Ấn Quang tu học và được Hòa Thượng Thiện Hòa đỡ đầu nhận làm đệ tử. Thầy đọc thêm nhiều kinh sách, lại học giáo lý Đại Thừa với các Hòa Thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa, trong khi nhận dạy sinh ngữ Pháp và làm Tổng Giám Thị trường Bồ Đề Chợ Lớn và Giám Học cho trường Bồ Đề Mỹ Tho, do Đại Đức Thích Quảng Chánh và Đại Đức Thích Viên Hạnh làm Hiệu Trưởng. Thời gian này đã mở rộng tầm hiểu biết của Thầy về Phật Giáo với những cao siêu của Giáo Lý Đại Thừa và đầy hấp dẫn trí tuệ giải thoát của làn gió mới Thiền Tông.

Để tránh bớt không khí sôi sục của các cuộc đấu tranh Phật Giáo trong giai đoạn 1963-1966, Thầy xin về chùa Giác Ngộ, cạnh trường Bồ Đề Chợ Lớn. Năm 1968, Thầy được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đề nghị gởi đi xuất ngoại học Tiến Sĩ Phật Học. Trong khi chờ đợi thì ông Thân Sinh của Thầy bị bịnh và Thầy chứng kiến giờ phút hấp hối của người cha với hiện tượng không giải thích được nên Thầy quyết định đi sâu vào đường tu để chứng đắc trí tuệ vô sư. Thầy xin Hòa Thượng Thiện Hòa, lúc đó là Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, để khỏi xuất ngoại, đồng thời xin Hòa Thượng tiến dẫn tới một vị thiền sư nào khác để học Thiền. Do đó Hòa Thượng viết thơ giới thiệu với Hòa Thượng Thanh Từ. Thầy được Hòa Thượng Thanh Từ cho nhập khóa thiền tu 3 năm tại Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu, nhưng sau đó Thầy chỉ cần hoàn tất phần thực hành pháp môn TRI VỌNG trong khóa An Cư Kiết Hạ 1970 phần lý thuyết thì Thầy đã thông hiểu đầy đủ qua kinh sách. Nhận thấy đời sống tại Tu Viện chưa hoàn toàn theo đúng giới luật mà Thầy thấy đó là chìa khóa mở cửa tu chứng nên nhân khi có hai vị sư Khất Sĩ mời Thầy về An Giang, Thầy xin phép Hòa Thượng Thanh Từ ra đi, sống theo Khất Sĩ, ngày một ngọ, ba y một bát, không chùa. Nhưng khi thực sự sống đời Khất Sĩ trong Tăng Đoàn này Thầy thấy vẫn chưa đúng Giới Luật nên Thầy một thân một bóng ra khơi An Giang, lên Ma Thiên Lãnh trên Hòn Sơn, trong sự thiếu thốn trầm trọng lương thực thực phẩm, Thầy đã ăn toàn trái cây rừng, rau hoang dã, ôm pháp TRI VỌNG ngồi tu suốt 9 tháng ròng rã.


IV. HÀNH TRÌNH TU TẬP & THÀNH QUẢ

Việc chứng Thánh quả Tứ Thiền, Tam Minh của Thầy Viện Chủ đã trải qua những giai đoạn đầy máu và nước mắt chứ không phải là việc dễ dàng.

Năm 1970, Hòa Thượng Thanh Từ mở khóa An Cư Kiết Hạ truyền dạy pháp môn TRI VỌNG đầu tiên tại Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu, Thầy là một trong số 10 tăng sinh đầu tiên này. Nhận được pháp, Thầy hoàn toàn tin tưởng vào pháp tu, đem hết năng lực ngày đêm 4 thời, mỗi thời 3 giờ tu tập. Sau Khóa Hạ năm ấy, Thầy xin Hòa Thượng Thanh Từ cùng đi với hai vị sư Khất sĩ về An Giang. Rời hai vị khất sĩ này, một thân một bóng lên ngọn Ma Thiên Lãnh trên Hòn Sơn ngoài khơi An Giang ngồi tu suốt 9 tháng với nhiều khổ hạnh trong thiếu thốn mọi bề, nhưng ái kiết sử với mẹ già không cắt đứt được. Tháng 12 năm 1971, trở về Trãng Bàng, dựng bảng TU VIỆN CHƠN NHƯ (với ý nghĩa là Tu Viện được xuất sinh và cùng tu pháp Tri Vọng của Tu Viện Chơn Không, Vũng Tàu) tại mãnh đất chùa Long An xưa cổ, do từ đời ông cố nội xây cất, nhưng hiện giờ chỉ còn một ngôi miếu nhỏ do dân làng dựng lên để lưu giữ di tích ngôi chùa đã bị chiến tranh tàn phá. Nhờ ngôi miếu này Thầy dùng làm nơi trú ngụ sống và tu hành tại đó giữa chốn bom cày đạn xới suốt ngày đêm (vùng Giải Phóng).

Vì lo sợ an toàn sinh mạng, mẹ và em gái nài nỉ Thầy về xóm Lò Rèn (cách đó chừng 4km, thuộc ấp Lộc Trát, xã Gia Lộc) dựng thất riêng tu. Chính giai đoạn này, với tuổi tráng niên (44) sung sức, tâm sắc dục khó tiêu trừ nên Thầy đã tự chế bằng pháp tiết thực, ngày một ngọ với lưng một chén cơm và vài đũa rau lang luộc. Chỉ một thời gian vài tháng, Thầy bị suy dinh dưỡng trầm trọng cộng với ngồi thiền ức chế vọng tưởng 12 giờ mỗi ngày khiến cho cơ bắp teo nhỏ và chân tay gần bại liệt, phải mất gần một năm kiên trì luyện tập và ăn ngọ đủ bình thường trở lại mới hồi phục.

Cuộc sống tu hành tại ấp Lộc Trát cũng không yên, sự thử thách vẫn tới với người chân tu. Một hôm Bộ Đội Giải Phóng về mở mặt trận trong vùng, đào hố chiến đấu khắp trong xóm và quanh am thất của Thầy. Họ khuyến dụ dân chúng lánh nạn nhưng Thầy bảo "Tôi đã nguyện nhập thất tại đây, dù chết tôi cũng không đi". Thế rồi chiến trận xẩy ra, quân đội Quốc Gia với máy bay, xe tăng và bộ binh tràn tới, bom đạn tơi bời, Thầy vẫn an nhiên ngồi trước tượng Phật trong am thất, không tán loạn. Bộ binh tới hỏi "Bộ Thầy muốn chết sao lại ngồi đây?", Thầy cũng vẫn dùng câu trên để trả lời. Nhờ nghiêm trì giới luật và niềm tin mạnh mẽ vào Đức Phật, Thầy đã an toàn vượt qua, thắng được nỗi sợ hãi kinh khiếp giữa tiếng bom nổ, đạn bắn.

Tháng 8 năm 1975, Thầy trở lại đất chùa Long An của tổ tiên, ngôi miếu thờ nay đã đổ nát không còn dấu vết, dựng am thất quyết tâm tu hành pháp môn Tri Vọng.

Suốt trong giai đoạn từ 1971 đến 1980, Thầy cắt đứt mọi sự tiếp duyên với người ngoài, trừ bà mẹ và cô em gái út cơm nước cúng dường hằng ngọ. Nhờ vô tình tu hạnh độc cư vào pháp tu Tri Vọng nên từ tháng 3 năm 1980, Thầy nhập được THỨC VÔ BIÊN XỨ, sau suốt hai tháng thường xuyên ở trong KHÔNG VÔ BIÊN XỨ. Ngay đó Thầy hiểu trọn vẹn toàn bộ kinh sách Đại Thừa mà Thầy đã hơn 40 năm tụng đọc và tu tập, lại giải được tất cả 1,700 công án thâm sâu của Thiền Tông không chút khó khăn. Vậy là con đường Thiền Tông sau 9 năm tu tập miệt mài, Thầy đã đạt được thành công này. Nhưng nhìn lại tâm mình bằng trí tuệ Thức Vô Biên, Thầy vẫn thấy THAM-SÂN-SI còn nguyên, không cách tiêu trừ. Chán nản quá, nếu không có mẹ già đang khổ cực nuôi cơm hằng ngày thì Thầy đã quyên sinh vì thấy con đường tu hành không lối thoát. Trong lúc tâm trí còn dùng dằng thì bỗng vô tình lật TRUNG BỘ KINH NIKAYA do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Pali sang Việt ngữ. Đọc thấy lời tựa của Hòa Thượng nói âm mưu thâm độc của Bà La Môn Giáo nhằm tiêu diệt Phật Giáo, đồng thời tình cờ lật đọc bài ĐẠI KINH SACCAKA, Thầy nghi ngờ mình đã tu lầm đường. Một niềm hy vọng lóe lên. Thầy bỏ thì giờ nghiên cứu Đại Tạng Kinh Nikaya đã được Hòa Thượng Minh Châu Việt dịch, Thầy hiểu rõ ràng lời Phật dạy, biết được tu như thế nào, tu pháp gì và sẽ chứng được cái gì. Mọi việc sáng như ban ngày, càng tu càng thích. Thế rồi chỉ sau 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1980, Thầy lần lượt nhập được SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN và đêm cuối cùng Thầy hoàn tất TAM MINH. Lúc sắp bước vào Tứ Thiền, đề phòng mẹ Thầy không đủ hiểu biết, sợ bà cho là Thầy đã chết nên Thầy căn dặn "Chừng nào mẹ thấy con sình thối thì hãy chôn, còn không thì mẹ đừng sợ; con sẽ nhập định không ăn, không uống, không thở". Kinh nghiệm nhập Tứ Thiền này cho Thầy biết khả năng làm chủ sự sống chết rõ ràng và sau khi chết sẽ còn lại cái gì. Cũng trong kinh nghiệm đó, Thầy chỉ thấy cõi giới siêu hình, cái mà quần chúng hôm nay tin tưởng là cõi giới vô hình, chẳng qua chỉ là cõi giới lưu xuất từ TƯỞNG ẤM do TƯỞNG THỨC thực hiện. Qua khỏi tưởng thức, dùng trí tuệ Tam Minh biết rõ như vậy. Từ đây con đường tu Đạo của Thầy Viện Chủ đã có hướng đi dứt khoát.
Ai chứng cho thầy là thầy đã nhập được THỨC VÔ BIÊN. Sao mọi người biết thầy nhập được SƠ, NHỊ, TAM TỨ THIỀN. Hay thầy tự bảo thế.
Ngay đó Thầy hiểu trọn vẹn toàn bộ kinh sách Đại Thừa mà Thầy đã hơn 40 năm tụng đọc và tu tập, lại giải được tất cả 1,700 công án thâm sâu của Thiền Tông không chút khó khăn. Hiểu xong chết thì giải quyết được cái gì nhỉ?
 
Ai chứng cho thầy là thầy đã nhập được THỨC VÔ BIÊN. Sao mọi người biết thầy nhập được SƠ, NHỊ, TAM TỨ THIỀN. Hay thầy tự bảo thế.
Ngay đó Thầy hiểu trọn vẹn toàn bộ kinh sách Đại Thừa mà Thầy đã hơn 40 năm tụng đọc và tu tập, lại giải được tất cả 1,700 công án thâm sâu của Thiền Tông không chút khó khăn. Hiểu xong chết thì giải quyết được cái gì nhỉ?
Tất cả thông tin con grok phân tích đều dựa trên những gì về tiểu sử thầy do tu viện chơn như cung cấp
Và đó là điều không thể kiểm chứng được
 
Mày nhồi sọ con gork thì có
Ghét giả tạo nhưng mày đang giả tạo theo định hướng của mày
=)) đéo thấy cái nào chắc chắn cả toàn nếu nếu =)) hài vãi lồn ,trình còi vcl
Tất cả những gì con grok của nó phân tích đều là nếu.
Và không có bằng chứng gì cả.
Nó kém xa tao
Tao còn cho con grok tự kiểm chứng trên Google
 
Mày nhồi sọ con gork thì có
Ghét giả tạo nhưng mày đang giả tạo theo định hướng của mày
=)) đéo thấy cái nào chắc chắn cả toàn nếu nếu =)) hài vãi lồn ,trình còi vcl
mẹ bà con grok trong tay nó phân tích ngu thật sự =)))

grok trong tay nó câu đéo nào cũng trả lời chỉ có 1 kết quả, tần của t nó chạy 20 steps ra 3-4 kết quả, xong nó lại chạy thêm lần nữa để phán đoán % chính xác của từng kết quả

grok tuổi lờ so với tần =)))
 
Hỏi:
Một tỳ kheo ở ngủ ngoài nghĩa địa theo hạnh đầu đà sử dụng nhang đuổi muỗi làm từ thảo dược để xua muỗi có phạm giới luật tỳ kheo và hạnh đầu đà hay không?
Grok trả lời
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét các giới luật của tỳ kheo (bhikkhu) trong Phật giáo Theravāda, cũng như tinh thần của hạnh đầu đà (dhutanga), vốn là những thực hành khổ hạnh tự nguyện nhằm rèn luyện tâm trí và giảm bớt tham ái.
1. Giới luật tỳ kheoTrong 227 giới của tỳ kheo theo truyền thống Theravāda (Vinaya), không có giới nào cấm trực tiếp việc sử dụng nhang đuổi muỗi, dù là làm từ thảo dược hay không. Các giới luật chủ yếu liên quan đến việc tránh sát sinh (giới thứ nhất), trộm cắp, nói dối, sử dụng chất gây nghiện, và các hành vi không phù hợp với đời sống xuất gia. Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không thuộc các hành vi này, miễn là:
Nhang không giết muỗi mà chỉ xua đuổi chúng (vì sát sinh, dù là côn trùng, vẫn là điều nên tránh).
Nhang không phải là vật phẩm xa xỉ hay được sử dụng vì tham đắm tiện nghi, điều có thể mâu thuẫn với tinh thần sống đơn giản của tỳ kheo.Nếu nhang thảo dược chỉ có tác dụng xua đuổi mà không gây hại trực tiếp đến muỗi, thì việc sử dụng nó không vi phạm giới luật cơ bản.
2. Hạnh đầu đà
Hạnh đầu đà là 13 thực hành khổ hạnh tự nguyện, trong đó có hạnh "ngủ ngoài nghĩa địa" (pamsukūlika) và sống đơn giản, từ bỏ tiện nghi. Mục đích của hạnh đầu đà là để rèn luyện sự buông bỏ, nhẫn nại, và đối diện với nỗi sợ hãi (như ở nghĩa địa). Tuy nhiên, các thực hành này không cấm tuyệt đối việc bảo vệ sức khỏe cơ bản, miễn là không đi ngược lại tinh thần khổ hạnh.
Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi có thể được xem xét trong bối cảnh:Tinh thần khổ hạnh: Nếu vị tỳ kheo dùng nhang vì sợ muỗi đốt hoặc để thoải mái hơn, điều này có thể bị coi là mâu thuẫn với tinh thần nhẫn nại và chấp nhận khó khăn của hạnh đầu đà.

Tuy nhiên, nếu mục đích là để bảo vệ sức khỏe (ví dụ, tránh bệnh sốt rét hoặc các bệnh do muỗi truyền), thì việc này có thể được biện minh, vì sức khỏe là điều kiện cần để tiếp tục tu tập.
Sự đơn giản: Nhang thảo dược thường đơn giản và không phải vật phẩm xa xỉ, nên nó không mâu thuẫn với lối sống thiểu dục tri túc.

3. Kết luận
Về giới luật tỳ kheo: Không phạm, miễn là nhang không giết muỗi và không liên quan đến các hành vi cấm kỵ khác.

Về hạnh đầu đà: Không phạm về mặt kỹ thuật, nhưng nếu vị tỳ kheo quá lệ thuộc vào nhang để tránh khó chịu, điều này có thể làm giảm tinh thần khổ hạnh. Ngược lại, nếu dùng nhang một cách chừng mực để duy trì sức khỏe mà không bám víu vào tiện nghi, thì vẫn phù hợp với hạnh đầu đà.

Tóm lại, việc sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không vi phạm giới luật tỳ kheo hay hạnh đầu đà, miễn là hành động này xuất phát từ nhu cầu thiết yếu (bảo vệ sức khỏe) chứ không phải từ sự tham đắm hay né tránh khó khăn. Tuy nhiên, để chắc chắn hơn, vị tỳ kheo nên tham khảo ý kiến của thầy bổn sư hoặc các vị trưởng lão trong tăng đoàn, vì cách áp dụng có thể khác nhau tùy theo truyền thống và hoàn cảnh cụ thể.
 
Hỏi:
Một tỳ kheo ở ngủ ngoài nghĩa địa theo hạnh đầu đà sử dụng nhang đuổi muỗi làm từ thảo dược để xua muỗi có phạm giới luật tỳ kheo và hạnh đầu đà hay không?
Grok trả lời
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét các giới luật của tỳ kheo (bhikkhu) trong Phật giáo Theravāda, cũng như tinh thần của hạnh đầu đà (dhutanga), vốn là những thực hành khổ hạnh tự nguyện nhằm rèn luyện tâm trí và giảm bớt tham ái.
1. Giới luật tỳ kheoTrong 227 giới của tỳ kheo theo truyền thống Theravāda (Vinaya), không có giới nào cấm trực tiếp việc sử dụng nhang đuổi muỗi, dù là làm từ thảo dược hay không. Các giới luật chủ yếu liên quan đến việc tránh sát sinh (giới thứ nhất), trộm cắp, nói dối, sử dụng chất gây nghiện, và các hành vi không phù hợp với đời sống xuất gia. Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không thuộc các hành vi này, miễn là:
Nhang không giết muỗi mà chỉ xua đuổi chúng (vì sát sinh, dù là côn trùng, vẫn là điều nên tránh).
Nhang không phải là vật phẩm xa xỉ hay được sử dụng vì tham đắm tiện nghi, điều có thể mâu thuẫn với tinh thần sống đơn giản của tỳ kheo.Nếu nhang thảo dược chỉ có tác dụng xua đuổi mà không gây hại trực tiếp đến muỗi, thì việc sử dụng nó không vi phạm giới luật cơ bản.
2. Hạnh đầu đà
Hạnh đầu đà là 13 thực hành khổ hạnh tự nguyện, trong đó có hạnh "ngủ ngoài nghĩa địa" (pamsukūlika) và sống đơn giản, từ bỏ tiện nghi. Mục đích của hạnh đầu đà là để rèn luyện sự buông bỏ, nhẫn nại, và đối diện với nỗi sợ hãi (như ở nghĩa địa). Tuy nhiên, các thực hành này không cấm tuyệt đối việc bảo vệ sức khỏe cơ bản, miễn là không đi ngược lại tinh thần khổ hạnh.
Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi có thể được xem xét trong bối cảnh:Tinh thần khổ hạnh: Nếu vị tỳ kheo dùng nhang vì sợ muỗi đốt hoặc để thoải mái hơn, điều này có thể bị coi là mâu thuẫn với tinh thần nhẫn nại và chấp nhận khó khăn của hạnh đầu đà.

Tuy nhiên, nếu mục đích là để bảo vệ sức khỏe (ví dụ, tránh bệnh sốt rét hoặc các bệnh do muỗi truyền), thì việc này có thể được biện minh, vì sức khỏe là điều kiện cần để tiếp tục tu tập.
Sự đơn giản: Nhang thảo dược thường đơn giản và không phải vật phẩm xa xỉ, nên nó không mâu thuẫn với lối sống thiểu dục tri túc.

3. Kết luận
Về giới luật tỳ kheo: Không phạm, miễn là nhang không giết muỗi và không liên quan đến các hành vi cấm kỵ khác.

Về hạnh đầu đà: Không phạm về mặt kỹ thuật, nhưng nếu vị tỳ kheo quá lệ thuộc vào nhang để tránh khó chịu, điều này có thể làm giảm tinh thần khổ hạnh. Ngược lại, nếu dùng nhang một cách chừng mực để duy trì sức khỏe mà không bám víu vào tiện nghi, thì vẫn phù hợp với hạnh đầu đà.

Tóm lại, việc sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không vi phạm giới luật tỳ kheo hay hạnh đầu đà, miễn là hành động này xuất phát từ nhu cầu thiết yếu (bảo vệ sức khỏe) chứ không phải từ sự tham đắm hay né tránh khó khăn. Tuy nhiên, để chắc chắn hơn, vị tỳ kheo nên tham khảo ý kiến của thầy bổn sư hoặc các vị trưởng lão trong tăng đoàn, vì cách áp dụng có thể khác nhau tùy theo truyền thống và hoàn cảnh cụ thể.
Đm, đuổi muỗi đi và cầu xin nó ko chết? Mày ngu ntn thì A.I nó ngu theo. Đm ngay cái hành động đuổi muỗi nó đã là phạm giới rồi con chó ngu. Đức Phật ngày xưa ko đi xe do súc vật kéo là vì làm khổ con vật, hiểu chưa thằng chó già u mê.
 
Hỏi:
Một tỳ kheo ở ngủ ngoài nghĩa địa theo hạnh đầu đà sử dụng nhang đuổi muỗi làm từ thảo dược để xua muỗi có phạm giới luật tỳ kheo và hạnh đầu đà hay không?
Grok trả lời
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét các giới luật của tỳ kheo (bhikkhu) trong Phật giáo Theravāda, cũng như tinh thần của hạnh đầu đà (dhutanga), vốn là những thực hành khổ hạnh tự nguyện nhằm rèn luyện tâm trí và giảm bớt tham ái.
1. Giới luật tỳ kheoTrong 227 giới của tỳ kheo theo truyền thống Theravāda (Vinaya), không có giới nào cấm trực tiếp việc sử dụng nhang đuổi muỗi, dù là làm từ thảo dược hay không. Các giới luật chủ yếu liên quan đến việc tránh sát sinh (giới thứ nhất), trộm cắp, nói dối, sử dụng chất gây nghiện, và các hành vi không phù hợp với đời sống xuất gia. Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không thuộc các hành vi này, miễn là:
Nhang không giết muỗi mà chỉ xua đuổi chúng (vì sát sinh, dù là côn trùng, vẫn là điều nên tránh).
Nhang không phải là vật phẩm xa xỉ hay được sử dụng vì tham đắm tiện nghi, điều có thể mâu thuẫn với tinh thần sống đơn giản của tỳ kheo.Nếu nhang thảo dược chỉ có tác dụng xua đuổi mà không gây hại trực tiếp đến muỗi, thì việc sử dụng nó không vi phạm giới luật cơ bản.
2. Hạnh đầu đà
Hạnh đầu đà là 13 thực hành khổ hạnh tự nguyện, trong đó có hạnh "ngủ ngoài nghĩa địa" (pamsukūlika) và sống đơn giản, từ bỏ tiện nghi. Mục đích của hạnh đầu đà là để rèn luyện sự buông bỏ, nhẫn nại, và đối diện với nỗi sợ hãi (như ở nghĩa địa). Tuy nhiên, các thực hành này không cấm tuyệt đối việc bảo vệ sức khỏe cơ bản, miễn là không đi ngược lại tinh thần khổ hạnh.
Sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi có thể được xem xét trong bối cảnh:Tinh thần khổ hạnh: Nếu vị tỳ kheo dùng nhang vì sợ muỗi đốt hoặc để thoải mái hơn, điều này có thể bị coi là mâu thuẫn với tinh thần nhẫn nại và chấp nhận khó khăn của hạnh đầu đà.

Tuy nhiên, nếu mục đích là để bảo vệ sức khỏe (ví dụ, tránh bệnh sốt rét hoặc các bệnh do muỗi truyền), thì việc này có thể được biện minh, vì sức khỏe là điều kiện cần để tiếp tục tu tập.
Sự đơn giản: Nhang thảo dược thường đơn giản và không phải vật phẩm xa xỉ, nên nó không mâu thuẫn với lối sống thiểu dục tri túc.

3. Kết luận
Về giới luật tỳ kheo: Không phạm, miễn là nhang không giết muỗi và không liên quan đến các hành vi cấm kỵ khác.

Về hạnh đầu đà: Không phạm về mặt kỹ thuật, nhưng nếu vị tỳ kheo quá lệ thuộc vào nhang để tránh khó chịu, điều này có thể làm giảm tinh thần khổ hạnh. Ngược lại, nếu dùng nhang một cách chừng mực để duy trì sức khỏe mà không bám víu vào tiện nghi, thì vẫn phù hợp với hạnh đầu đà.

Tóm lại, việc sử dụng nhang thảo dược để xua muỗi không vi phạm giới luật tỳ kheo hay hạnh đầu đà, miễn là hành động này xuất phát từ nhu cầu thiết yếu (bảo vệ sức khỏe) chứ không phải từ sự tham đắm hay né tránh khó khăn. Tuy nhiên, để chắc chắn hơn, vị tỳ kheo nên tham khảo ý kiến của thầy bổn sư hoặc các vị trưởng lão trong tăng đoàn, vì cách áp dụng có thể khác nhau tùy theo truyền thống và hoàn cảnh cụ thể.
câu này ko cần phải trả lời vì thằng an nhận nó mua và đốt r, chứ mấy ông sư làm gì có tiền mà mua nhang đuổi muỗi
 
câu này ko cần phải trả lời vì thằng an nhận nó mua và đốt r, chứ mấy ông sư làm gì có tiền mà mua nhang đuổi muỗi
Mày cần xem tuệ thầy mày xịt đuổi muỗi ko? Thằng u mê đéo có chánh kiến? Mày và đám u mê có biết theo Thích Ca, tu tập là để giảm thiểu tối đa nghiệp lực do thân ngũ uẩn sinh ra, chính nghiệp lực này dẫn đến luân hồi bất tận, gây ra khổ đau tiếp nối. Tu tập là để làm cạn kiệt nghiệp lực này, thoát khỏi luân hồi. Khi hành động mày xịt đuổi con muỗi đi, nó đã gây ra nghiệp ác rồi, chưa cần con muỗi chết, hiểu chưa con chó ngu u mê. Mẹ mày, óc chó y như thằng @atlas05. U mê.
 
Mày cần xem tuệ thầy mày xịt đuổi muỗi ko? Thằng u mê đéo có chánh kiến? Mày và đám u mê có biết theo Thích Ca, tu tập là để giảm thiểu tối đa nghiệp lực do thân ngũ uẩn sinh ra, chính nghiệp lực này dẫn đến luân hồi bất tận, gây ra khổ đau tiếp nối. Tu tập là để làm cạn kiệt nghiệp lực này, thoát khỏi luân hồi. Khi hành động mày xịt đuổi con muỗi đi, nó đã gây ra nghiệp ác rồi, chưa cần con muỗi chết, hiểu chưa con chó ngu u mê. Mẹ mày, óc chó y như thằng @atlas05. U mê.
Sai bét ,nghiệp là hành
Muốn thành nghiệp thì phải xuất hiện từ niệm trước ,nghĩa là mày có ý giết muỗi thì nó sẽ thành niệm xấu nghiệp ác nặng
 
tao chỉ là một người ngoài , tôn giáo bọn mày tao đâu hiểu rõ , tao thấy hai thằng mỗi thằng có ý đúng của nó nhưng để kết luận thằng lồn nào đúng nhất thì tao đéo biết , lắm thầy thì nhiều ma , giờ coi bọn mày cãi qua cãi lại tao đọc coi như có thêm kiến thức về các trường phái của Phật Giáo thôi chứ chỉ có Sir Thích Ca sống lại xác nhận thì mới hết cãi cọ qua lại... nhưng chắc không có chuyện đó đâu , ổng chán cái cõi này lắm rồi mới đi tu mà :shame:
Mày sang topic "Xammers theo chân tu sĩ Tuệ" của tao xem cãi nhau vui lắm.
 
@atlas05 thử phân tích tình huống này đi m, như này là phạm giới hay ko phạm giới :3

two monks were traveling together, a senior and a junior. They came to a river with a strong current where a young woman was waiting, unable to cross alone. She asks the monks if they would help her across the river. Without a word and in spite of the sacred vow he’d taken not to touch women, the older monk picks her up, crosses, and sets her down on the other side.

The younger monk joins them across the river and is aghast that the older monk has broken his vow but doesn’t say anything. An hour passes as they travel on. Then two hours. Then three. Finally, the now quite agitated younger monk can stand it no longer: “Why did you carry that women when we took a vow as monks not to touch women?”

The older monk replies, “I set her down hours ago by the side of the river. Why are you still carrying her?”
 
@atlas05 thử phân tích tình huống này đi m, như này là phạm giới hay ko phạm giới :3

two monks were traveling together, a senior and a junior. They came to a river with a strong current where a young woman was waiting, unable to cross alone. She asks the monks if they would help her across the river. Without a word and in spite of the sacred vow he’d taken not to touch women, the older monk picks her up, crosses, and sets her down on the other side.

The younger monk joins them across the river and is aghast that the older monk has broken his vow but doesn’t say anything. An hour passes as they travel on. Then two hours. Then three. Finally, the now quite agitated younger monk can stand it no longer: “Why did you carry that women when we took a vow as monks not to touch women?”

The older monk replies, “I set her down hours ago by the side of the river. Why are you still carrying her?”
Tiếng việt đi
 
Tiếng việt đi
Hai nhà sư cùng đi du hành, một người lớn tuổi và một người trẻ hơn. Họ đến một con sông có dòng chảy xiết, nơi một cô gái trẻ đang đứng chờ, không thể tự mình qua sông. Cô ấy hỏi liệu các nhà sư có thể giúp cô băng qua hay không.

Không nói một lời, bất chấp lời thề thiêng liêng rằng sẽ không chạm vào phụ nữ, vị sư già liền bế cô gái lên, băng qua sông và đặt cô xuống bờ bên kia.

Vị sư trẻ cũng lội qua sông cùng họ nhưng vô cùng sửng sốt vì thấy sư già đã phá vỡ lời thề. Dù vậy, anh ta không nói gì. Một giờ trôi qua khi họ tiếp tục hành trình. Rồi hai giờ. Rồi ba giờ. Cuối cùng, không thể kìm nén được nữa, vị sư trẻ đầy bức xúc hỏi:

“Tại sao thầy lại bế cô gái đó khi chúng ta đã thề không được chạm vào phụ nữ?”

Vị sư già điềm tĩnh trả lời:

“Ta đã đặt cô ấy xuống bên bờ sông từ nhiều giờ trước. Còn con, tại sao vẫn còn mang cô ấy theo?”
 

Có thể bạn quan tâm

Top