Chiến Binh 𝕵𝖎𝖍𝖆𝖉
Trẩu tre

Làng tui nằm lọt thỏm giữa đồng cát, một bên nghe sóng vỗ rào rào, một bên núi đồi trập trùng như mấy cái lu xếp chồng. Đất đai chua mặn, người cũng chai lì theo năm tháng. Cái nghề chính ở đây ngoài gặt lúa, làm muối thì cũng chỉ còn phơi cá khô cho gió hong, cho nắng đốt.
Năm đó, chiến sự rần rần khắp nơi. Người ta đồn giải phóng sắp tới, nhưng tui thấy chẳng khác chi cái nồi nước luộc ếch: càng nghe nói sắp xong, càng nóng hơn. Núi sau làng, mấy ông "bộ đội núi" ẩn núp như khói. Cứ tới tháng, mấy ổng tụt xuống, mà không phải xuống chơi hay xuống hỏi thăm. Xuống... "xin quà".
Xin thì xin cho ra xin, đằng này bày đặt "xin" mà cầm theo súng AK chĩa vô ngực người ta. Lúa gặt chưa ráo tay đã bị hốt bớt, cá khô hong chưa giòn đã mất trơn, thịt heo xông khói mới treo gác bếp cũng đi luôn.
Muối phơi trắng sân, hột chưa kịp mặn miệng cũng bị xốc gọn vô bao.
Tui nhớ có bữa, mấy ông nói:
"Chừ mấy anh lấy chút để nuôi quân, mai mốt giải phóng về cho bà con sướng!"
Nghe mà muốn khóc.
Chưa biết mai mốt có sướng hay không, chỉ biết bây giờ lúa gạo muối cá mất vèo vèo, bụng mình thì ục ục như trống rỗng.
Tụi ổng nói toàn tiếng rặc pha, vừa xớ rớ tiếng núi, vừa trọ trẹ tiếng đồng bằng, nghe mà đầu muốn quay như chong chóng. Bà con đứng cứng ngắc, không hiểu mô tê gì, thôi đành cười trừ, miễn còn cái mạng mà về đổ cơm cho con ăn.
Mấy ông "bộ đội núi" đó nhanh lắm. Hốt xong là chuồn lẹ như cá cờ gặp lưới. Dân làng ngó theo, miệng méo xệ, bụng rủa thầm: "Đất cha ông chi mà xin chi xin dữ..."
Còn cái đồn lính phía đầu làng á, đúng nghĩa là chỗ tựa vô mà thở.
Mấy anh lính chính quyền, người nào cũng đô con, vai u thịt bắp, chân bước nghe thình thịch, nhìn thôi cũng thấy yên lòng. Nghe đâu sống có kỷ luật lắm: sáng tập, trưa ăn, chiều bắn súng, tối gác đêm. Ăn uống thì toàn cơm thơm, cá hộp, thịt nguội, muối trắng tinh, sữa béo ngậy — đồ tiếp tế từ đồng minh không đó nghen!
Bữa nào lính đồn phát quà, làng tui rộn như có hội. Con nít đeo theo nài xin, mấy bà già xách vá ăn xin thêm bịch gạo, bịch muối. Ai cũng khen:
"Mấy anh lính mình chi mà đẹp trai, mạnh mẽ quá trời, cho đồ lại cho vui vẻ thiệt tình!"
Đã vậy mấy ổng còn khoái bắt khủng bố như khoái bắt cá kình. Nghe tin có bọn "xin quà" lảng vảng, lập tức súng lên nòng, giày bốt cộp cộp, kéo nguyên trung đội đi rình.
Mấy ông lính đồn khoái sự nghiệp "săn cướp núi" còn hơn ăn bánh xèo.
Ai ngờ, bọn "bộ đội núi" láu cá thấy ớn, đánh hơi được là biến cái vèo. Không tài nào bắt dính được tụi nó.
Dân tui nhìn cảnh đó cũng cười mỉm chi:
"Thôi kệ, tụi nó xin quà chớ cũng đâu xin nổi cái tình của tụi tui đâu. Muốn lấy lại đất cha ông hả, ráng ráng mà leo núi trồng khoai đi!"
Nói vậy cho đỡ buồn, chớ thiệt tình, mùa sau tụi tui lại gặt, lại phơi cá, lại giấu muối... và lại hồi hộp canh trời, canh lính, canh luôn mấy bóng người từ trên núi đổ xuống.
Năm đó, chiến sự rần rần khắp nơi. Người ta đồn giải phóng sắp tới, nhưng tui thấy chẳng khác chi cái nồi nước luộc ếch: càng nghe nói sắp xong, càng nóng hơn. Núi sau làng, mấy ông "bộ đội núi" ẩn núp như khói. Cứ tới tháng, mấy ổng tụt xuống, mà không phải xuống chơi hay xuống hỏi thăm. Xuống... "xin quà".
Xin thì xin cho ra xin, đằng này bày đặt "xin" mà cầm theo súng AK chĩa vô ngực người ta. Lúa gặt chưa ráo tay đã bị hốt bớt, cá khô hong chưa giòn đã mất trơn, thịt heo xông khói mới treo gác bếp cũng đi luôn.
Muối phơi trắng sân, hột chưa kịp mặn miệng cũng bị xốc gọn vô bao.
Tui nhớ có bữa, mấy ông nói:
"Chừ mấy anh lấy chút để nuôi quân, mai mốt giải phóng về cho bà con sướng!"
Nghe mà muốn khóc.
Chưa biết mai mốt có sướng hay không, chỉ biết bây giờ lúa gạo muối cá mất vèo vèo, bụng mình thì ục ục như trống rỗng.
Tụi ổng nói toàn tiếng rặc pha, vừa xớ rớ tiếng núi, vừa trọ trẹ tiếng đồng bằng, nghe mà đầu muốn quay như chong chóng. Bà con đứng cứng ngắc, không hiểu mô tê gì, thôi đành cười trừ, miễn còn cái mạng mà về đổ cơm cho con ăn.
Mấy ông "bộ đội núi" đó nhanh lắm. Hốt xong là chuồn lẹ như cá cờ gặp lưới. Dân làng ngó theo, miệng méo xệ, bụng rủa thầm: "Đất cha ông chi mà xin chi xin dữ..."
Còn cái đồn lính phía đầu làng á, đúng nghĩa là chỗ tựa vô mà thở.
Mấy anh lính chính quyền, người nào cũng đô con, vai u thịt bắp, chân bước nghe thình thịch, nhìn thôi cũng thấy yên lòng. Nghe đâu sống có kỷ luật lắm: sáng tập, trưa ăn, chiều bắn súng, tối gác đêm. Ăn uống thì toàn cơm thơm, cá hộp, thịt nguội, muối trắng tinh, sữa béo ngậy — đồ tiếp tế từ đồng minh không đó nghen!
Bữa nào lính đồn phát quà, làng tui rộn như có hội. Con nít đeo theo nài xin, mấy bà già xách vá ăn xin thêm bịch gạo, bịch muối. Ai cũng khen:
"Mấy anh lính mình chi mà đẹp trai, mạnh mẽ quá trời, cho đồ lại cho vui vẻ thiệt tình!"
Đã vậy mấy ổng còn khoái bắt khủng bố như khoái bắt cá kình. Nghe tin có bọn "xin quà" lảng vảng, lập tức súng lên nòng, giày bốt cộp cộp, kéo nguyên trung đội đi rình.
Mấy ông lính đồn khoái sự nghiệp "săn cướp núi" còn hơn ăn bánh xèo.
Ai ngờ, bọn "bộ đội núi" láu cá thấy ớn, đánh hơi được là biến cái vèo. Không tài nào bắt dính được tụi nó.
Dân tui nhìn cảnh đó cũng cười mỉm chi:
"Thôi kệ, tụi nó xin quà chớ cũng đâu xin nổi cái tình của tụi tui đâu. Muốn lấy lại đất cha ông hả, ráng ráng mà leo núi trồng khoai đi!"
Nói vậy cho đỡ buồn, chớ thiệt tình, mùa sau tụi tui lại gặt, lại phơi cá, lại giấu muối... và lại hồi hộp canh trời, canh lính, canh luôn mấy bóng người từ trên núi đổ xuống.