ới người Việt Nam, hai tiếng “Tổ quốc” từ bao đời đã trở thành tiếng nói thiêng liêng, tha thiết nhất…Theo
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1992), tổ quốc là “đất nước, được bao đời trước xây dựng và để lại, trong quan hệ với những người dân có tình cảm gắn bó với nó” (tr.990). Như vậy, tổ quốc trước hết chính là đất nước, giang sơn tổ tiên, ông bà bao đời trước xây dựng, bảo vệ và để lại.
Có thể tìm về từ nguyên để hiểu hơn hàm nghĩa sâu xa của từ “tổ quốc”. Đây là một từ Việt gốc Hán. Trong đó, “tổ” (bộ
kỳ) có nghĩa là “tổ tiên”; “quốc” (bộ
vi) có nghĩa là “nước, đất nước”. Cụ thể, chữ “quốc” có tự dạng bộ
vi bên ngoài, chữ
khẩu, chữ
qua và chữ
nhất bên trong. Thiều Chửu trong
Hán Việt tự điển định nghĩa “có đất có dân, có quyền cai trị gọi là nước”.
Ban đầu, “quốc” là phần đất mà thiên tử phong cho vua các nước chư hầu. Về sau, “quốc” được mở rộng nội hàm, được dùng để chỉ cho “đất nước” nói chung. Một “quốc” phải bao gồm các phương diện chính sau: lãnh thổ (chữ
vi với nghĩa bao quanh biểu thị ý nghĩa này), nhân dân (do chữ
khẩu với nghĩa cái miệng, rồi hoán dụ chỉ người biểu thị), thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ (do chữ
nhất với nghĩa là thống nhất, duy nhất biểu thị) và chủ quyền (do chữ
qua với nghĩa tên một loại vũ khí, rồi hoán dụ chỉ nghĩa chiến đấu, sau đó là chiến đấu để bảo vệ, giữ lấy biểu thị).
Như vậy, “tổ quốc” có thể hiểu là “đất nước của tổ tiên (xây dựng, bảo vệ và để lại)”. Do đó, “tổ quốc” hay đất nước không phải là tài sản riêng của một cá nhân, một dòng họ, một tổ chức, một nhà nước, một chế độ nào cả. “Tổ quốc” là tài sản chung của cả một dân tộc trải qua hàng nghìn đời vun đắp, giữ gìn, kế thừa và xây dựng. Đó là thứ tài sản thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
“ Tổ quốc” là ai vậy, là đảng là quan chức là tiếng gọi dlv à?