CÔNG HÀM NGOẠI GIAO ĐỂ ĐI
Ngày 22 tháng 2, sau khi nhà Thanh đã đánh tiếng là họ bằng lòng phong vương cho vua Quang Trung, phái bộ Đại Việt tất cả hơn 20 người, do Nguyễn Hữu Chu cầm đầu, từ Thăng Long đi lên, mang tờ biểu cầu phong đồng thời chuẩn bị lễ lạc và dự bị tiệc mừng, đánh dấu một thắng lợi vẻ vang trong bang giao giữa hai nước.
Lá thư chính thức đó nguyên văn như sau:
Nguyên văn
安南國小目臣阮光平堇奏為冒瀝微誠仰干天聽事,欽惟大皇帝陛下,受天明命,為萬國君,臨御五十餘年,洪恩溥洽,華夷內外,同風共貫,臣安南界居炎徼,久沐教聲。
乃因二百年來,國王黎氏失柄,權臣鄭氏專有其國,暨前王黎維端年老,輔政前鄭氏懦,兵驕民怨,國內乖離。臣以西山布衣乘時舉事,丙午夏,興兵滅鄭,還國于黎。
其年前王謝世,又擁立其嗣孫維祁襲位。維祁為人淫暴,不恤國政,朝綱弛於內,邊釁生於外,方宜陷害忠良,誅鋤族姓,國內之臣若民,奔愬於臣,請為出兵除亂。
臣自惟國者天朝所封之國,臣何敢自行廢置。丁未冬,遣一小將以兵問其左右之助桀者,而維祁望風宵遁,自詒伊戚。戊申夏,臣至黎城,復委前黎王之子維瑾監國承祀,經遣行价叩關,備以國情題奏。
日者邊臣反書卻使,不即遞達。去年冬,調動大兵,出關征剿,臣遠道聞信,自念從來一片畏天事大真衷壅於上聞,令前黎王子維瑾及臣民稟文三道偕行价叩稟轅門,不料大兵真趨黎城,殺守兵甚眾。
臣自揣進退無據,且其事總由黎維祁不道所致,於今年正月初五日進抵城下,並不敢與官兵抗拒也。乃官兵殺戮太多,勢難束手就縛,迹似抗衡,臣不勝惶懼現在已將對壘之人查出正法。
伏惟大皇帝體天行化,栽培傾覆,一順自然,恕蠻無知之禍,諒款關籲奏之誠,樹牧立屏,用祈籠命,俾臣得以保障一方,恪共侯服,則事有統攝,民獲乂安,皆出大皇帝陛下幬覆之仁。
臣謹當奉藩脩貢,以表至誠,臣拱北馳神,不勝激切屏營膽仰候命之至,謹奉表奏以聞。
一恭遞上進儀物,金子拾鎰,銀子貳拾鎰。
一謹遣行价貳名,阮有晭,武輝璞。
乾隆伍拾肆年貳月日。[14]
Dịch âm
An Nam quốc tiểu mục thần Nguyễn Quang Bình cẩn tấu vi mạo lịch vi thành ngưỡng can thiên thính sự, khâm duy đại hoàng đế bệ hạ, thụ thiên minh mệnh, vi vạn quốc quân, lâm ngự ngũ thập dư niên, hồng ân phổ hiệp, hoa di nội ngoại, đồng phong cộng quán, thần An Nam giới cư viêm kiếu, cửu mộc giáo thanh.
Nãi nhân nhị bách niên lai, quốc vương Lê thị thất bính, quyền thần Trịnh thị chuyên hữu kỳ quốc, ký tiền vương Lê Duy Đoan niên lão, phụ chính tiền Trịnh thị noạ, binh kiêu dân oán, quốc nội quai ly. Thần dĩ Tây Sơn bố y thừa thời cử sự, Bính Ngọ hạ, hưng binh diệt Trịnh, hoàn quốc vu Lê.
Kỳ niên tiền vương tạ thế, hựu ủng lập kỳ tự tôn Duy Kỳ tập vị. Duy Kỳ vi nhân dâm bạo, bất tuất quốc chính, triều cương trì ư nội, biên hấn sinh ư ngoại, phương nghi hãm hại trung lương, tru sừ tộc tính, quốc nội chi thần nhược dân, bôn sách ư thần, thỉnh vi xuất binh trừ loạn.
Thần tự duy quốc giả thiên triều sở phong chi quốc, thần hà cảm tự hành phế trí. Đinh Mùi đông, khiến nhất tiểu tướng dĩ binh vấn kỳ tả hữu chi trợ Kiệt giả, nhi Duy Kỳ vọng phong tiêu độn, tự di y thích. Mậu Thân hạ, thần chí Lê thành, phục uỷ tiền vương chi tử Duy Cẩn giám quốc thừa tự, kinh khiển hành giới khấu quan, bị dĩ quốc tình đề tấu.
Nhật giả biên thần phản thư khước sứ, bất tức đệ đạt. Khứ niên đông, điều động đại binh, xuất quan chinh tiễu, thần viễn đạo văn tín, tự niệm tòng lai nhất phiến úy thiên sự đại chân trung ủng ư thượng văn, lệnh tiền Lê vương tử Duy Cẩn cập thần dân bẩm văn tam đạo giai hành giới khấu bẩm viên môn, bất liệu đại binh chân xu Lê thành, sát thủ binh thậm chúng.
Thần tự sủy tiến thoái vô cứ, thả kỳ sự tổng do Lê Duy Kỳ bất đạo sở chí, ư kim niên chính nguyệt sơ ngũ nhật tiến để thành hạ, tịnh bất cảm dữ quan binh kháng cự dã. Nãi quan binh sát lục thái đa, thế nan thúc thủ tựu phọc, tích tự kháng hành, thần bất thắng hoảng cụ, hiện tại dĩ tương đối luỹ chi nhân tra xuất chính pháp.
Phục duy đại hoàng đế thể thiên hành hoá, tài bồi khuynh phúc, nhất thuận tự nhiên, thứ man mạch vô tri chi hoạ, lượng khoản quan dụ tấu chi thành, thụ mục lập bính, dụng kỳ lung mệnh, tỉ thần đắc dĩ bảo chướng nhất phương, khác cộng hầu phục, tắc sự hữu thống nhiếp, dân hoạch nghệ an, giai xuất đại hoàng đế bệ hạ trù phúc chi nhân.
Thần cẩn đương phụng phiên tu cống, dĩ biểu chí thành, thần củng bắc trì thần, bất thắng kích thiết bình doanh đảm ngưỡng hầu mệnh chi chí, cẩn phụng biểu tấu dĩ văn.
Nhất cung đệ thượng tiến nghi vật, kim tử thập dật, ngân tử nhị thập dật.
Nhất cẩn khiến hành giới nhị danh, Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long ngũ thập tứ niên nhị nguyệt nhật.
Dịch nghĩa
Thần là tiểu mục nước An Nam Nguyễn Quang Bình mạo muội kính cẩn đem tấm lòng thành tâu lên mong đại hoàng đế bệ hạ (là bậc) thụ mệnh sáng như trời, vua của vạn quốc, ở trên ngôi báu đã trên năm mươi năm, hồng ân rải khắp mọi nơi Hoa cũng như Di đều được thấm nhuần, (cả đến) nước An Nam củathần tuy ở chỗ viêm nhiệt xa xôi cũng từng được tắm gội, (xin) lấy đức lớn mà nghe cho.
Hai trăm năm qua, quốc vương họ Lê (nước tôi) mất quyền khiến cho quyền thần họ Trịnh coi giữ việc nước, đến vua trước là Lê Duy Đoan tuổi già, phụ chính họ Trịnh hèn yếu, binh kiêu dân oán, khiến người trong nước chia rẽ ngả nghiêng. Thần là kẻ áo vải đất Tây Sơn (vì thế) phải tùy thời mà dấy lên, mùa hạ năm Bính Ngọ, hưng binh diệt họ Trịnh, trả lại nước cho họ Lê.
Trong năm đó tiền vương tạ thế, thần lại đưa tự tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo[15], không lo quốc chính, mối giềng lỏng lẻo bên trong, lân bang gây hấn ở bên ngoài, chỉ lo hãm hại trung lương, giết người trong họ, người trong nước cũng như bầy tôi đều chạy về với thần, xin xuất binh trừ loạn.
Thần vẫn biết rằng nước đây đã được thiên triều sách phong, đâu dám tự ý phế lập. Mùa đông năm Đinh Mùi mới sai một tiểu tướng đem binh ra hỏi tội bọn tả hữu dám giúp cho kẻ Kiệt kia, hay đâu Duy Kỳ mới nghe tiếng đã bỏ chạy, tự mình làm khổ mình. Đến mùa hạ năm Mậu Thân thần đến Lê thành, đưa con của vua trước là Duy Cẩn trông coi việc thờ tự và giám quốc, rồi sai người sang gõ cửa quan trình bày mọi việc trong nước.
Khi đó người biên thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) lại trả lại thư, đuổi sứ về, không chịu đề đạt lên. Mùa đông năm ngoái y lại điều động đại binh, xuất quan qua đánh, thần ở xa nghe tin, tự nghĩ xưa nay một lòng kính sợ thiên triều, định đem tấc lòng giãi bày lên trên, nên mới bảo vương tử Lê Duy Cẩn và thần dân gõ cửa trình ba bẩm văn, ngờ đâu đại binh tiến thẳng đến Lê thành, giết binh trấn giữ nhiều vô số kể.
Thần chẳng biết tiến thoái ra sao, việc đó chính là do Lê Duy Kỳ không biết tính toán, nên đến ngày mồng năm tháng giêng năm nay tiến đến Lê thành, đâu có dám chống cự lại quan binh. Thế nhưng quan binh tàn sát quá lắm, thế không thể thõng tay chịu trói nên đành chống trả. Việc đó cũng khiến cho thần sợ hãi nên đã đem những kẻ dám đối địch chính pháp cả rồi.
Cũng mong đại hoàng đế theo mệnh trời hành hoá, tài bồi cho kẻ ngả nghiêng, thuận theo tự nhiên, tha thứ cho kẻ man di không biết, thấu cho lòng thành của kẻ cầu xin được chăn dắt ở một cõi mà để cho thần được đứng chắn ở một phương, làm chư hầu tuân phục thì mọi sự được thống nhiếp, dân chúng được yên ổn làm ăn, cũng đều do đức nhân của đại hoàng đế ban cho cả.
Thần nguyện triều cống theo lệ phiên vương, dâng biểu chí thành, hướng về phương bắc, không khỏi cảm kích trông đợi mệnh lệnh kính cẩn dâng lên tờ biểu này.
Cung kính đệ lên tiến vật gồm mười dật vàng, hai mươi dật bạc.
Cung kính sai hai hành nhân là Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long năm thứ 54, tháng hai.
Đây là lần đầu tiên sau cuộc chiến, cửa ải Nam Quan được chính thức mở ra để đón phái bộ Đại Việt. Chính vì thế hai bên phải tổ chức đại lễ để tiễn đưa và để đón sứ thần qua Trung Hoa, chánh phó sứ không còn phải đến gõ cửa như những lần qua đàm phán trước đó.
Trước khi sang Tàu sứ bộ Đại Việt nghỉ tạm ở một công quán có tên là Ngưỡng Đức Đài bên trong lãnh thổ nước ta (Ngưỡng Đức Đài ở bên này cửa ải Nam Quan, đối xứng với Chiêu Đức Đài bên phía Trung Hoa). Theo Đại Nam nhất thống chí và Phương Đình địa dư chí, năm Giáp Thìn (1784) đời Lê Hiển Tông, đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang đã tu bổ lại, lợp ngói cho khang trang.
Trước hết, chánh sứ Nguyễn Hữu Chu sai người qua ải cùng quan lại nhà Thanh ấn định nhật kỳ cử hành lễ, Thang Hùng Nghiệp cho biết nhà Thanh định vào ngày 18 tháng 3 năm Kỷ Dậu[16], tức là chỉ hơn 2 tháng sau khi Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy về. Với tình hình liên lạc thời đó, việc chạy đi chạy lại giữa Bắc Kinh và Quảng Tây diệu vợi, gian nan trong 2 tháng nhà Thanh đã chấp thuận phong vương, quả thật đây là một thành tích xưa nay chưa từng có.
Ngày 16 tháng 3, tổng đốc Phúc Khang An đem quan binh bản bộ đến đóng ở cửa Nam Quan, một mặt truyền cho tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh xây một lễ đài (mà sử Trung Hoa gọi một cách phách lối là thụ hàng thành), cách cửa ải 90 dặm. Các quan nhà Thanh thì đóng tại một vị trí cách ải 20 dặm để trông coi việc nghi thức, sau đó Thang Hùng Nghiệp mới cho mời sứ thần nước ta qua tương kiến.
Đến kỳ hạn, phái đoàn ta qua ải, Thang Hùng Nghiệp liền tiếp vào nghỉ tại Chiêu Đức Đài (đối xứng với Ngưỡng Đức Đài của nước ta) để thảo luận về nghi thức. Chánh sứ nước ta đưa ra một phó bản của biểu văn cầu phong, kèm theo lễ vật, thổ sản gửi cho vua Thanh cũng như các quan lại làm quà ra mắt. Trong biểu văn này, vua Quang Trung cũng đặc biệt ghi thêm “sẽ sai con trưởng của anh cả Nguyễn Quang Hoa là Nguyễn Quang Hiển”[17] theo sứ bộ đi sang để tỏ lòng thành. Phúc Khang An đọc biểu văn, tuy đã hoàn toàn đồng ý nhưng cũng sửa đổi vài chữ để cho sứ bộ nước ta viết lại một bản khác gửi về triều đình nhà Thanh coi như chính thức thần phục.
Ngày 19 tháng 3, lúc giờ Dần, tổng đốc Phúc Khang An ra lệnh cho tướng sĩ trấn thủ ở Nam Quan dàn đội ngũ, dựng cờ quạt rồi bày hương án ở Chiêu Đức Đài để làm lễ tiếp nhận biểu văn của nước ta. Nguyễn Quang Hiển cùng với phái bộ mấy trăm người đã dự bị sẵn, Phúc Khang An sai Thang Hùng Nghiệp mời Nguyễn Quang Hiển cùng 6 viên chức của sứ bộ nước Nam, thêm một thông ngôn và 60 tùy tòng, tổng cộng 68 người tiến qua Trấn Nam Quan.[18]
Đến giờ Thìn, Thang Hùng Nghiệp dẫn phái đoàn tới, mời vào Chiêu Đức Đài. Phúc Khang An bước ra nghênh tiếp, sau nghi lễ tương kiến, phái đoàn nước ta do chánh sứ Nguyễn Hữu Chu đứng ra trao lại biểu văn, tổng đốc Lưỡng Quảng thay mặt Thanh đình tiếp nhận. Sau đó nhà Thanh mở đại tiệc khoản đãi sứ bộ nước ta, đích thân Phúc Khang An bồi tiếp. Trong câu chuyện ngoài lề, Nguyễn Quang Hiển cũng cho hay những kẻ phạm tội sát hại các tướng lãnh nhà Thanh đã bị xử tội rồi, Phúc Khang An nghe xong coi như việc đã giải quyết, đề nghị sau này không nhắc tới nữa, chỉ xin nước Nam lập cho một cái miếu, xuân thu cúng tế những binh sĩ nhà Thanh tử trận. Để chính thức hóa việc dâng biểu cầu phong, Nguyễn Quang Hiển sẽ thay mặt triều đình Quang Trung cầm đầu phái đoàn lên Bắc Kinh triều kiến hoàng đế và cho biết đến năm sau (Canh Tuất 1790), Càn Long thứ 55 là năm khánh thọ bát tuần của vua Thanh, vua nước ta sẽ đích thân sang chúc mừng cùng các sứ thần phiên thuộc khác.[19]
Đến đây, việc thông hiếu của hai nước coi như đã quyết định, những lễ lạc khác chỉ là thủ tục. Hai bên đồng ý giảm thiểu số quân trấn đóng tại biên giới. Ngày mồng 10 tháng 4 năm Càn Long thứ 54, vua Cao Tông ra lệnh cho Phúc Khang An rút các đạo quân Quảng Đông, Vân Nam đang trú đóng ở Quảng Tây về doanh trại. Tôn Sĩ Nghị sau khi thua trận, thân thể hư nhược, bị bệnh phong thấp lúc đó đang nằm dưỡng bệnh nay cũng được lệnh cho về Nam Ninh nghỉ ngơi, còn Phúc Khang An cũng không còn phải chầu chực ở Trấn Nam Quan nữa. Vua Quang Trung cũng ra lệnh cho các đồn ải giảm bớt quân số phòng ngự.
Tuy đã chính thức công nhận, nhà Thanh vẫn còn câu nệ về một số tiểu tiết, cốt để gây khó khăn cho bên ta. Ngày mồng 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu, vua Cao Tông gửi cho vua Quang Trung một đạo dụ, xác định là không truy cứu những việc đã qua nữa, nhưng chưa thể phong vương vì Nguyễn Quang Bình (tên mới của Nguyễn Huệ) chưa thân hành sang chầu mà chỉ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển thay mặt đem biểu tiến kinh để đón phong hiệu, lễ chế đó thiên triều chưa từng có. Nếu quả Nguyễn Quang Bình có bụng thành kính, chi bằng đợi khi vua Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ vào năm sau (Canh Tuất 1790) thì hãy thân hành sang Bắc Kinh để xin phong vương.
Sứ thần nước ta lại phải một phen biện bạch lời hơn lẽ thiệt để nhà Thanh thông qua những thủ tục nặng phần hình thức này. Sau cùng triều đình nhà Thanh đành phải dễ dãi và vua Cao Tông truyền lệnh Phúc Khang An báo cho Nguyễn Quang Hiển khởi trình tiến kinh, và sai Thang Hùng Nghiệp hộ tống[20]. Ngoài ra vua Càn Long còn ban cho vua Quang Trung một chuỗi ngọc trai (trân châu thủ xuyến nhất quải – 珍珠手串一 掛)[21]. Trước đây sách vở vẫn dịch là một chuỗi ngọc trai để đeo tay. Có hai vấn đề chúng ta cần ghi nhận:
– Thời này khi chưa có ngọc trai nhân tạo, trân châu là một sản phẩm cực hiếm trong thiên nhiên, thường do các phiên thuộc tiến cống. Được ban một chuỗi ngọc trai là một việc đặc biệt. Ngọc trai lại chỉ dành riêng cho vua chúa và nhất đẳng đại thần vì Nhà Thanh qui định rất chi ly hạng bậc, không lẫn lộn.
– Nhà Thanh có thói tục đeo chuỗi ngọc, gọi là triều châu (朝珠), tùy theo cấp bậc y phục và trường hợp mà màu sắc, phẩm loại khác nhau (san hô, thanh kim thạch, lục tùng thạch, mật lạp, hổ phách …). Chuỗi ngọc này để đeo vào cổ khi mặc triều phục, mỗi chuỗi bao gồm 108 hột do ảnh hưởng của niệm châu (số châu) của Lạt Ma giáo (tiếng nôm na gọi là tràng hạt).
Ngoài triều châu ra, còn một loại vòng ngắn hơn chỉ có 18 hạt gọi là thủ xuyến (手串) không phải để đeo ở tay mà để đeo ở trước ngực (đàn ông) hay đeo vào áo (đàn bà) như một loại trang sức. Loại vòng này gồm 18 hạt châu và hai viên ngọc để phân cách, thường có thêm một giải ngọc đính vào. Nếu vua Quang Trung được ban thủ xuyến bằng ngọc trai (trân châu) có thể coi như là một món quà đặc biệt.
Đến đây mọi việc coi như đã an bài, triều đình nhà Thanh sẽ làm lễ trao ấn và sắc ở điện Thái hòa để sứ thần nước ta đem về nước. Nhà Thanh cũng sẽ cho một sứ thần đi theo phái bộ đến Thăng Long làm lễ phong vương cho vua nước ta.