traitrethichmaybay
Gió lạnh đầu buồi
Truyện đọc hay vcl, cho thấy sự ưu việt của chế độ cùng-nhau-xuống-hố là như nào. Cái Oasis Láng Hạ hồi trc rất nổi tiếng mà bây h đóng cửa mẹ rồi
Tác giả: Trương Hữu Thắng
Điểm đầu tiên mà tôi “kinh doanh” là một gốc cây gần Cống Ngọc Hồi. Ngồi từ sáng tới trưa dưới một tán cây không đủ sức làm dịu đi cái nắng mùa hè mới có một ông khách dắt xe tới. Bao nhiêu mong mỏi dồn cả vào một mình ông lão. Như chưa đủ gửi gắm vận may vào một lỗ thủng duy nhất trên chiếc săm xe vốn đã mòn mục của ông cụ, tôi đã bí mật… chọc thủng thêm một lỗ nữa.
LTS: Cuối năm 1988, thành phố Hà Nội cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân đầu tiên – Doanh nghiệp tư nhân Toàn Thắng. Theo Nghị định 27 và 28 của Bộ Chính trị (khóa VI), ngoài văn bản công nhận Việt Nam có 5 thành phần kinh tế với thứ tự cuối cùng là doanh nghiệp tư nhân, chưa có văn bản hướng dẫn pháp quy nào khác, cũng không có chính sách gì đãi đằng cho cái thành phần mới bị dẹp bỏ ở phía Nam cách đó hơn chục năm (1978).
Tên đầy đủ của ông chủ doanh nghiệp này là Trương Hữu Thắng, nhưng trong suốt mấy chục năm chìm nổi cùng sự nghiệp kinh doanh, tên ông gắn liền với biệt danh “Thắng doa” – một cái tên lừng lẫy trong giới sản xuất và thương mại ở thủ đô, theo cả hướng tích cực và tiêu cực, nổi tiếng và “tai tiếng”. Ông là người một mình “dám” xây một căn nhà 2 tầng, rộng 100m2 sàn tại 27 Tống Duy Tân. Khi nhà vừa đổ xong mái tầng 2 cũng là lúc ông được ‘mời’ về ở nhà tù Hỏa Lò một tháng ba ngày. Thời gian không phải quá dài nhưng đủ để ông lấy thêm tấm ‘bằng’ của đường lối kinh tế thời bấy giờ! Ông thường bảo, trong cái rủi cũng có cái may, nhờ có trường đời đó mà ông đã tồn tại và phát triển được đến ngày hôm nay(!)
Theo một cách nào đó, Thắng “doa” chính là một chứng nhân lịch sử gắn liền với thời kỳ đổi mới của đất nước. Sự thăng trầm của cuộc đời ông gắn liền với những đổi thay, xu thế và biến cố của nền kinh tế – xã hội ở miền Bắc, trải dài suốt những năm chiến tranh, bao cấp và đổi mới.
Đến nay, ông Trương Hữu Thắng đã trải qua nhiều lĩnh vực kinh doanh từ công nhân đến tổ trưởng hợp tác xã, từ chủ nhiệm hợp tác xã đến giám đốc xí nghiệp tư nhân đầu tiên của Việt Nam. Hiện nay ông là Chủ tịch HĐQT Công ty đầu tư cổ phần khách sạn Oasis.
Chúng tôi coi đây là một gương mặt doanh nhân khá điển hình của thời kỳ Đổi mới, đã trải nghiệm nhiều giai đoạn phát triển xã hội. Để tôn trọng tính khách quan của thông tin ,Tuần Việt Nam xin giới thiệu hồi ký – là những lời tự sự khá thẳng của chính ông Thắng – như một cách nhìn đa chiều về lịch sử.
Kỳ 1 – Tiền bạc và nước mắt
Quê tôi ở làng Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh. Cái khắc nghiệt của cuộc sống trong chiến tranh đã rèn giũa cho tôi ý thức vươn lên không ngừng trong cuộc sống. Nếu như bom đạn đã không huỷ hoại được mình thì đừng bao giờ để những khó khăn trong cuộc sống làm mình chùn bước. Tôi vẫn luôn ghi nhớ điều đó.
Năm 1946 bố tôi đi bộ đội kháng chiến chống Pháp. Mẹ và tôi theo ông tản cư lên vùng tự do. Phải nói rằng tản cư khỏi làng quê khi ấy là một điều gì đó thật đáng sợ. Bao kỷ niệm tuổi thơ, bao tâm huyết của mẹ cha đổ ra mong đợi đến mùa thu hoạch cuối cùng phải bỏ lại. Đó là còn chưa kể những vất vả, nguy hiểm trên con đường tản cư…
Tôi đã tận mắt chứng kiến hai cảnh bắn giết: Lần đầu tiên là cảnh giặc ngoại xâm khui hầm và bắn chết một người du kích Việt Minh ở làng tôi và lần thứ hai là năm 1957 – năm của cuộc cải cách ruộng đất. Tôi lại chứng kiến lòng căm phẫn của những người nông dân lập toà án bắn tên địa chủ cường hào, gian ác (nhà có 2 mẫu ruộng) ở tỉnh Thái Nguyên.
Trong thời gian ở chiến khu Việt Bắc, bố tôi đi chiến dịch Điện Biên có gửi tôi cho một người bạn trông nom kèm theo một lọ muối sườn (thực phẩm đựng trong cái lọ thuỷ tinh đó gồm 1 cân sườn và 2 cân muối) và nói rằng đó là thức ăn tươi của tôi trong 3 tháng ông đi chiến dịch!
Năm 1952, khi lên Việt Bắc, tôi bắt đầu đi học ở Chợ Chu – Bắc Kạn rồi về Đồng Hỷ – Thái Nguyên. Lớp học chỉ là những căn phòng vách nứa tạm bợ, những ngọn đèn dầu leo lét. Một lớp học chỉ giúp cho con người ta thời ấy biết đọc, biết viết, biết tính toán những phép tính giản đơn.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tôi được bố đưa về Hà Nội sinh sống. Với tôi Hà Nội lúc đó vừa lạ lẫm, vừa thân quen. Kỷ niệm không bao giờ quên là suất cơm đĩa với sốt cà chua. Một món ăn với bây giờ là giản dị thậm chí đạm bạc, thế nhưng với tôi, đó là suất cơm ngon nhất trong cuộc đời mà sau này khi đã thành công tôi không thể tìm lại được vị ngon của nó trong bất kỳ một sơn hào hải vị nào. Cái hương vị của món ăn ấy mãi còn đọng lại trong tiềm thức. Cuộc sống khó khăn không chỉ của riêng tôi mà của cả đất nước lúc bấy giờ biến những món ăn đạm bạc nhất thành những món ăn ngon nhất, khó quên nhất trong cuộc đời.
Hai ‘tiền án’ và ngã rẽ cuộc đời
Cho đến nay, kỉ niệm khó quên nhất trong lòng tôi là hai ‘trọng tội’: trèo me, trèo sấu và “ăn trộm hai bộ quần áo của thằng bạn thân” tạo nên những ngã rẽ cuộc đời.
Tiền sự thứ nhất…
Tôi nhớ rất rõ hồi học lớp 7 tại trường Lý Thường Kiệt tôi thân với một anh bạn tên là Đông. Nhà Đông ở phố Cát Linh xảy ra một vụ trộm, Đông mất hai bộ quần áo. Có thể bây giờ không đáng bỏ công đi tìm nhưng ngày xưa, hai bộ quần áo là cả một gia tài, phải dành dụm bao nhiêu lâu mới có. Mất của, Đông trách mắng em gái sao không trông nhà cẩn thận. Không chịu nổi trận đòn, em gái Đông lại bảo trông thấy tôi lấy 2 bộ quần áo ấy.
Từ lời khai của cô em gái Đông, tôi “được” mời lên công an Quận Đống Đa và bị giam tại đó. Đến lúc bị bắt rồi mà tôi vẫn không hiểu vì sao. Sau đó các chú công an ép tôi phải nhận là ăn cắp hai bộ quần áo. Tôi đã khẳng định rằng mình không hề biết chuyện này và cũng cam đoan là mình không ăn cắp hai bộ quần áo đó. Lúc đó, các chú công an cho tôi gặp mẹ tôi, xót con bị thẩm tra, mẹ tôi đã khuyên tôi nên nhận tội. Bà sẽ đền tiền để tôi được thả ra, còn học hành nữa. Nghe lời mẹ, tôi đã ký vào văn bản nhận mình có tội danh ăn cắp. Mẹ tôi đã bồi thường 20 đồng và tôi đã được thả ra!
Hồi đấy tôi học lớp 8 trường Chu Văn An. Đang trên đường đi học về trên đường Hoàng Hoa Thám qua công viên Bách Thảo, tôi thấy một cậu bé khoảng học lớp 3, lớp 4 đang cố gắng dùng một cái cần câu để kéo một quả muỗm nhưng mãi không tới. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ: Nếu có thể giúp được thì tại sao mình không giúp? Một ý nghĩ chỉ xuất phát từ lòng thương cảm, tôi hoàn toàn không thể ngờ được đây lại là điểm khởi đầu cho những bước ngoặt trong cuộc đời mình.
Đang lúi húi với cái cần câu chọc quả muỗm thì bỗng “Tuýt! Tuýt! Tuýt!…” – những tiếng còi của các chú bảo vệ vang lên inh ỏi. Mỗi người chạy một ngả để thoát thân còn cặp sách thì…
Chiếc cặp sách được Tổ bảo vệ chuyển tới trường học. Hậu quả là tôi bị nhà trường kỷ luật đuổi học với tội danh “trèo me, trèo sấu, phá hoại công viên”. Không được phép thanh minh, không được quyền giải thích, một nỗi oan đã theo tôi từ đó. Bố tôi đã vì tôi mà bỏ cơm nhiều ngày, nhưng rồi cuối cùng ông cũng tìm ra cho tôi một con đường: ông gửi tôi lên Bắc Giang ở nhờ một người bạn để học tiếp hai năm lớp 9, lớp 10 tại trường Ngô Sỹ Liên, Bắc Giang.
Tôi không được vào đại học như bao bạn bè cùng trang lứa vì đã có 2 tiền sự. Thất học rồi thất nghiệp, khó khăn chồng chất khó khăn nhưng không vì thế mà tôi từ bỏ. Không thể tiếp tục theo đèn sách, tôi bắt đầu một con đường mới: đi buôn.
Không gian lận không phải con buôn?
Nghề đầu tiên mà tôi đi kiếm tiền là vá săm xe đạp. Chuẩn bị đầy đủ đồ nghề rồi nhưng vì xấu hổ nên phải đi cách xa thật xa Hà Nội.
Điểm đầu tiên mà tôi “kinh doanh” là một gốc cây gần Cống Ngọc Hồi. Ngồi từ sáng tới trưa dưới một tán cây không đủ sức làm dịu đi cái nắng mùa hè mới có một ông khách dắt xe tới. Bao nhiêu mong mỏi dồn cả vào một mình ông lão. Như chưa đủ gửi gắm vận may vào một lỗ thủng duy nhất trên chiếc săm xe vốn đã mòn mục của ông cụ, tôi đã bí mật… chọc thủng thêm một lỗ nữa.
Nghĩ cuộc đời lúc đó sao mà cơ cực quá! Khi con người ta rơi vào hoàn cảnh túng bấn quá thì lại làm những việc người ta biết là không nên làm. Nhưng thật trớ trêu, khi tính tiền công là 4 hào thì ông cụ lại chỉ có đúng 2 hào – tiền công chỉ cho một lỗ thủng duy nhất. Vậy là thất bại đầu tiên đã xảy ra trong lần ra quân kinh doanh!
Tác giả: Trương Hữu Thắng
Điểm đầu tiên mà tôi “kinh doanh” là một gốc cây gần Cống Ngọc Hồi. Ngồi từ sáng tới trưa dưới một tán cây không đủ sức làm dịu đi cái nắng mùa hè mới có một ông khách dắt xe tới. Bao nhiêu mong mỏi dồn cả vào một mình ông lão. Như chưa đủ gửi gắm vận may vào một lỗ thủng duy nhất trên chiếc săm xe vốn đã mòn mục của ông cụ, tôi đã bí mật… chọc thủng thêm một lỗ nữa.
LTS: Cuối năm 1988, thành phố Hà Nội cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân đầu tiên – Doanh nghiệp tư nhân Toàn Thắng. Theo Nghị định 27 và 28 của Bộ Chính trị (khóa VI), ngoài văn bản công nhận Việt Nam có 5 thành phần kinh tế với thứ tự cuối cùng là doanh nghiệp tư nhân, chưa có văn bản hướng dẫn pháp quy nào khác, cũng không có chính sách gì đãi đằng cho cái thành phần mới bị dẹp bỏ ở phía Nam cách đó hơn chục năm (1978).
Tên đầy đủ của ông chủ doanh nghiệp này là Trương Hữu Thắng, nhưng trong suốt mấy chục năm chìm nổi cùng sự nghiệp kinh doanh, tên ông gắn liền với biệt danh “Thắng doa” – một cái tên lừng lẫy trong giới sản xuất và thương mại ở thủ đô, theo cả hướng tích cực và tiêu cực, nổi tiếng và “tai tiếng”. Ông là người một mình “dám” xây một căn nhà 2 tầng, rộng 100m2 sàn tại 27 Tống Duy Tân. Khi nhà vừa đổ xong mái tầng 2 cũng là lúc ông được ‘mời’ về ở nhà tù Hỏa Lò một tháng ba ngày. Thời gian không phải quá dài nhưng đủ để ông lấy thêm tấm ‘bằng’ của đường lối kinh tế thời bấy giờ! Ông thường bảo, trong cái rủi cũng có cái may, nhờ có trường đời đó mà ông đã tồn tại và phát triển được đến ngày hôm nay(!)
Theo một cách nào đó, Thắng “doa” chính là một chứng nhân lịch sử gắn liền với thời kỳ đổi mới của đất nước. Sự thăng trầm của cuộc đời ông gắn liền với những đổi thay, xu thế và biến cố của nền kinh tế – xã hội ở miền Bắc, trải dài suốt những năm chiến tranh, bao cấp và đổi mới.
Đến nay, ông Trương Hữu Thắng đã trải qua nhiều lĩnh vực kinh doanh từ công nhân đến tổ trưởng hợp tác xã, từ chủ nhiệm hợp tác xã đến giám đốc xí nghiệp tư nhân đầu tiên của Việt Nam. Hiện nay ông là Chủ tịch HĐQT Công ty đầu tư cổ phần khách sạn Oasis.
Chúng tôi coi đây là một gương mặt doanh nhân khá điển hình của thời kỳ Đổi mới, đã trải nghiệm nhiều giai đoạn phát triển xã hội. Để tôn trọng tính khách quan của thông tin ,Tuần Việt Nam xin giới thiệu hồi ký – là những lời tự sự khá thẳng của chính ông Thắng – như một cách nhìn đa chiều về lịch sử.
Kỳ 1 – Tiền bạc và nước mắt
Quê tôi ở làng Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh. Cái khắc nghiệt của cuộc sống trong chiến tranh đã rèn giũa cho tôi ý thức vươn lên không ngừng trong cuộc sống. Nếu như bom đạn đã không huỷ hoại được mình thì đừng bao giờ để những khó khăn trong cuộc sống làm mình chùn bước. Tôi vẫn luôn ghi nhớ điều đó.
Năm 1946 bố tôi đi bộ đội kháng chiến chống Pháp. Mẹ và tôi theo ông tản cư lên vùng tự do. Phải nói rằng tản cư khỏi làng quê khi ấy là một điều gì đó thật đáng sợ. Bao kỷ niệm tuổi thơ, bao tâm huyết của mẹ cha đổ ra mong đợi đến mùa thu hoạch cuối cùng phải bỏ lại. Đó là còn chưa kể những vất vả, nguy hiểm trên con đường tản cư…
Tôi đã tận mắt chứng kiến hai cảnh bắn giết: Lần đầu tiên là cảnh giặc ngoại xâm khui hầm và bắn chết một người du kích Việt Minh ở làng tôi và lần thứ hai là năm 1957 – năm của cuộc cải cách ruộng đất. Tôi lại chứng kiến lòng căm phẫn của những người nông dân lập toà án bắn tên địa chủ cường hào, gian ác (nhà có 2 mẫu ruộng) ở tỉnh Thái Nguyên.
Trong thời gian ở chiến khu Việt Bắc, bố tôi đi chiến dịch Điện Biên có gửi tôi cho một người bạn trông nom kèm theo một lọ muối sườn (thực phẩm đựng trong cái lọ thuỷ tinh đó gồm 1 cân sườn và 2 cân muối) và nói rằng đó là thức ăn tươi của tôi trong 3 tháng ông đi chiến dịch!
Năm 1952, khi lên Việt Bắc, tôi bắt đầu đi học ở Chợ Chu – Bắc Kạn rồi về Đồng Hỷ – Thái Nguyên. Lớp học chỉ là những căn phòng vách nứa tạm bợ, những ngọn đèn dầu leo lét. Một lớp học chỉ giúp cho con người ta thời ấy biết đọc, biết viết, biết tính toán những phép tính giản đơn.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tôi được bố đưa về Hà Nội sinh sống. Với tôi Hà Nội lúc đó vừa lạ lẫm, vừa thân quen. Kỷ niệm không bao giờ quên là suất cơm đĩa với sốt cà chua. Một món ăn với bây giờ là giản dị thậm chí đạm bạc, thế nhưng với tôi, đó là suất cơm ngon nhất trong cuộc đời mà sau này khi đã thành công tôi không thể tìm lại được vị ngon của nó trong bất kỳ một sơn hào hải vị nào. Cái hương vị của món ăn ấy mãi còn đọng lại trong tiềm thức. Cuộc sống khó khăn không chỉ của riêng tôi mà của cả đất nước lúc bấy giờ biến những món ăn đạm bạc nhất thành những món ăn ngon nhất, khó quên nhất trong cuộc đời.
Hai ‘tiền án’ và ngã rẽ cuộc đời
Cho đến nay, kỉ niệm khó quên nhất trong lòng tôi là hai ‘trọng tội’: trèo me, trèo sấu và “ăn trộm hai bộ quần áo của thằng bạn thân” tạo nên những ngã rẽ cuộc đời.
Tiền sự thứ nhất…
Tôi nhớ rất rõ hồi học lớp 7 tại trường Lý Thường Kiệt tôi thân với một anh bạn tên là Đông. Nhà Đông ở phố Cát Linh xảy ra một vụ trộm, Đông mất hai bộ quần áo. Có thể bây giờ không đáng bỏ công đi tìm nhưng ngày xưa, hai bộ quần áo là cả một gia tài, phải dành dụm bao nhiêu lâu mới có. Mất của, Đông trách mắng em gái sao không trông nhà cẩn thận. Không chịu nổi trận đòn, em gái Đông lại bảo trông thấy tôi lấy 2 bộ quần áo ấy.
Từ lời khai của cô em gái Đông, tôi “được” mời lên công an Quận Đống Đa và bị giam tại đó. Đến lúc bị bắt rồi mà tôi vẫn không hiểu vì sao. Sau đó các chú công an ép tôi phải nhận là ăn cắp hai bộ quần áo. Tôi đã khẳng định rằng mình không hề biết chuyện này và cũng cam đoan là mình không ăn cắp hai bộ quần áo đó. Lúc đó, các chú công an cho tôi gặp mẹ tôi, xót con bị thẩm tra, mẹ tôi đã khuyên tôi nên nhận tội. Bà sẽ đền tiền để tôi được thả ra, còn học hành nữa. Nghe lời mẹ, tôi đã ký vào văn bản nhận mình có tội danh ăn cắp. Mẹ tôi đã bồi thường 20 đồng và tôi đã được thả ra!
Hồi đấy tôi học lớp 8 trường Chu Văn An. Đang trên đường đi học về trên đường Hoàng Hoa Thám qua công viên Bách Thảo, tôi thấy một cậu bé khoảng học lớp 3, lớp 4 đang cố gắng dùng một cái cần câu để kéo một quả muỗm nhưng mãi không tới. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ: Nếu có thể giúp được thì tại sao mình không giúp? Một ý nghĩ chỉ xuất phát từ lòng thương cảm, tôi hoàn toàn không thể ngờ được đây lại là điểm khởi đầu cho những bước ngoặt trong cuộc đời mình.
Đang lúi húi với cái cần câu chọc quả muỗm thì bỗng “Tuýt! Tuýt! Tuýt!…” – những tiếng còi của các chú bảo vệ vang lên inh ỏi. Mỗi người chạy một ngả để thoát thân còn cặp sách thì…
Chiếc cặp sách được Tổ bảo vệ chuyển tới trường học. Hậu quả là tôi bị nhà trường kỷ luật đuổi học với tội danh “trèo me, trèo sấu, phá hoại công viên”. Không được phép thanh minh, không được quyền giải thích, một nỗi oan đã theo tôi từ đó. Bố tôi đã vì tôi mà bỏ cơm nhiều ngày, nhưng rồi cuối cùng ông cũng tìm ra cho tôi một con đường: ông gửi tôi lên Bắc Giang ở nhờ một người bạn để học tiếp hai năm lớp 9, lớp 10 tại trường Ngô Sỹ Liên, Bắc Giang.
Tôi không được vào đại học như bao bạn bè cùng trang lứa vì đã có 2 tiền sự. Thất học rồi thất nghiệp, khó khăn chồng chất khó khăn nhưng không vì thế mà tôi từ bỏ. Không thể tiếp tục theo đèn sách, tôi bắt đầu một con đường mới: đi buôn.
Không gian lận không phải con buôn?
Nghề đầu tiên mà tôi đi kiếm tiền là vá săm xe đạp. Chuẩn bị đầy đủ đồ nghề rồi nhưng vì xấu hổ nên phải đi cách xa thật xa Hà Nội.
Điểm đầu tiên mà tôi “kinh doanh” là một gốc cây gần Cống Ngọc Hồi. Ngồi từ sáng tới trưa dưới một tán cây không đủ sức làm dịu đi cái nắng mùa hè mới có một ông khách dắt xe tới. Bao nhiêu mong mỏi dồn cả vào một mình ông lão. Như chưa đủ gửi gắm vận may vào một lỗ thủng duy nhất trên chiếc săm xe vốn đã mòn mục của ông cụ, tôi đã bí mật… chọc thủng thêm một lỗ nữa.
Nghĩ cuộc đời lúc đó sao mà cơ cực quá! Khi con người ta rơi vào hoàn cảnh túng bấn quá thì lại làm những việc người ta biết là không nên làm. Nhưng thật trớ trêu, khi tính tiền công là 4 hào thì ông cụ lại chỉ có đúng 2 hào – tiền công chỉ cho một lỗ thủng duy nhất. Vậy là thất bại đầu tiên đã xảy ra trong lần ra quân kinh doanh!