Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Vương triều Angkor từng là vương triều hùng mạnh nhất lịch sử Khmer, dưới sự trị vì của vua Suryavarman II - vị vua được mệnh danh là “vị vua bách chiến bách thắng”. Cũng chính ông là người xây dựng nên Angkor Wat - một công trình vĩ đại mà người đời sau nghiêng mình thán phục. Đế chế Khmer dưới sự trị vì, mở mang bờ cõi của ông đã bành trướng đến biên giới Bắc Lào ngày nay, phía Nam đến tận bán đảo Malay, phía Tây đến tận vương quốc Pagan-Myanmar.
Sau khi nhà vua Suryavarman II tử trận, cái chết của ông cùng với vương triều Angkor Wat rực rỡ đã chìm sâu vào quên lãng. Người ta không biết và cũng không ai có thể giải thích về những bí mật của vương triều.
Theo tư liệu người Pháp để lại tại Viện Viễn Đông Bác cổ, năm 1954, các nhà khoa học Pháp đã có thông tin về một khu đền lớn như một phiên bản của Angkor Wat nằm trong khu rừng già cách Angkor Wat không xa, nhưng hoàn toàn không có đường vào. Qua những tư liệu cổ, trên các bia ký còn đặt trong đền, người ta mới biết đền Boeng Mealea chính là nơi chôn cất thi hài vua Suryavarman II cùng nhiều vàng bạc, châu báu của vương triều.
Toàn cảnh Angkor Wat.
Nhưng do chiến tranh triền miên, khu đền Boeng Mealea lại chìm đắm giữa rừng hoang. Năm 2003, chính phủ khai phá một con đường mòn dẫn vào Boeng Mealea. Đây là khu vực còn rất nhiều bom mìn vẫn chưa gỡ bỏ hết sau chiến tranh Ponpot, nên xung quanh khu vực đền, lực lượng CMAC - lực lượng rà phá bom mìn quốc tế - vẫn đang hoạt động. Khu vực rà soát bom mìn được căng cờ đỏ và có khi bom mìn chỉ cách con đường độc đạo vào đền không đầy nửa mét.
Gần như toàn bộ đền tháp đã sụp đổ hoang tàn, nhưng vẫn có thể nhận ra dáng dấp vĩ đại và sự hoành tráng của nó không thua kém gì Angkor Wat. Thậm chí, các khối đá xây đền nơi này còn to hơn cả đền Angkor, nặng trung bình 8 tấn so với 3 - 5 tấn của Angkor Wat. Đền Boeng Mealea ngày xưa như một thành phố nhỏ với diện tích 108ha và có hào nước bao bọc quanh thành, có nơi rộng đến 45m. Đền có ba lớp tường bao bọc và được trấn giữ bởi những cánh cổng bằng đá khổng lồ, chính giữa là ngọn tháp cao đến 42m nhưng đã bị gãy đổ.
Đặc biệt hơn, Boeng Mealea có đến bốn thư viện ở bốn góc thành trong cảnh hoang tàn, trong khi hầu hết các đền đài thời kỳ Angkor chỉ có hai thư viện. Trung tâm của đền có quan tài của vua Suryavarman II nằm lăn lóc dưới đất. Theo Ủy ban Apsara, từ những năm chiến tranh, không chỉ các nhà nghiên cứu khảo cổ học mà còn những băng nhóm đào bới mộ cổ đã tìm đến đây và khai quật ngôi mộ cổ này, nhiều vàng bạc, châu báu đã bị lấy đi, những mảng phù điêu tuyệt mỹ trên tường của đền cũng bị đục lấy mất và xô ngã chiếc quan tài từ trên đền xuống đất. Nhưng họ không tìm thấy được thi hài của Suryavarman II.
Vũ nữ APSARA tai Angkor Wat. Phù hiệu trên tường Angkor Wat.
Jayavarman VII (1181- 1220) là vua của Đế quốc Khmer, được xem là một trong ba vị vua tài năng, anh hùng lỗi lạc của dân tộc Khmer dưới triều đại Angkor. Ông là con trai của vua Dharanindravarman II (trị vì từ 1150 - 1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau khi bà qua đời, ông cưới em gái bà là Indradevi. Người ta cho rằng hai người phụ nữ này đã truyền cảm hứng lớn cho ông, đặc biệt là lòng mộ đạo của ông đối với Phật giáo.
Nhiều giả thuyết cho rằng sau khi vua Suryavarman II tử nạn trong vùng rừng núi Vụ Quang, châu Nghệ An (Đại Việt), để tránh bị xâm hại, trả thù đời sau nên hoàng tộc đã cho làm lễ trọng đại hỏa táng thi hài vua như một cách trấn an người dân và quân binh đế chế Khmer. Sau đó tro cốt được đưa vào thờ trong đền Angkor Wat, còn quan tài và ngôi đền này được xây nên chỉ làm nơi thờ cúng hình bóng quốc vương.
Trước đó, chỉ có một vị vua khác của Đế quốc Khmer là một Phật tử. Ông là người đã cho xây dựng rất nhiều đền đài to lớn còn lưu dấu đến ngày nay như: Ta Prohm, Preah Khan, Angkor Thom, Bayon, Jayatataka Baray, Neak Pean, Ta Som, Ta Nei, Ban Teay Chhmar, Prasats Chrung, Sân Voi, Ta Prohm Kel, Hospital Chapel, Krol Kô, Srah Srang, Royal Place.
Trong số những ngôi đền đó, nổi tiếng nhất là kinh thành Angkor Thom với đền Bayon là sự tuyệt mỹ về kiến trúc và điêu khắc. Nơi đây còn có tên gọi là Đền Đế Thích - một kiệt tác kiến trúc chỉ sau Angkor Wat mà tổ tiên ngài là vua Suryavarman II đã xây dựng nên.
Jayavarman VII lúc sinh thời được sử sách lưu truyền là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, tu niệm theo Phật, tỏ ra rất thờ ơ với mọi biến động trong đời sống chính trị, xã hội Khmer. Tuy nhiên, nhìn thấy đất nước Chân Lạp quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm giày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn, mang lại no ấm cho muôn dân và sự cường thịnh của một vương quốc từng kiêu hãnh, hùng mạnh.
Lúc bấy giờ, đất nước Chân Lạp đã rơi vào tay Chiêm Thành, đền Angkor Wat và mọi thể chế hùng mạnh của vương triều Suryavarman II hoàn toàn bị xóa sổ. Ông dấy binh khởi nghĩa từ rừng núi Kulen nơi Tiên đế dựng nghiệp và tập hợp các thế lực hùng mạnh đang cát cứ trong các tỉnh thành lúc bấy giờ chống lại quân xâm lược Chiêm Thành. Sau bốn năm chiến đấu, ông đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi đất nước, khôi phục lại sự thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi, Jayavarman VII bắt đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một trận hải chiến oanh liệt và hiển hách nhất lịch sử đã được miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Bantay Cherma ngày nay. Sau khi giành lại độc lập, Jayavarman VII lên ngôi Quốc vương. Ông liền bắt tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi là thành Yaxodarapura.
Bản văn bia có thuật lại với những lời lẽ rất nên thơ trong ngày đó như sau: “Buổi lễ đăng quang của vua Jayavarman VII tổ chức bốn năm sau ngày thất thủ kinh đô. Kinh thành Yaxodarapura giống như một cô thiếu nữ hiền hậu, xứng đôi vừa lứa với người yêu của mình, nhiệt tình và say đắm, được trang trí bằng một tòa lâu đài dát vàng ngọc với những dãy thành quách bao bọc như một dải lụa che thân: cô thiếu nữ đó được nhà vua cưới để tạo ra hạnh phúc cho muôn loài trong một buổi lễ huy hoàng, dưới đài vinh quang sáng chói”.
Nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom và cách Angkor Wat khoảng 300m, Bayon là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia bởi sự kỳ vĩ về quy mô cũng như cảm xúc mà nó đem lại.
Từ xa, du khách có thể cảm nhận cảnh đẹp tuyệt vời được phô bày ngay trên con đường chính dẫn tới cổng đền thờ. Dọc theo hai bên đường lát đá phiến bắc qua một con sông đào, hai bên là 54 bức tượng khổng lồ ôm ngang lưng rắn thần Nagar chia thành hai hàng cân xứng: bên trái là các thần, bên phải là các quỷ.
Một vài pho tượng khiếm khuyết từng bộ phận đầu, mình, tay chân do thời gian cùng các biến động của lịch sử và chiến tranh. Hầu hết các pho tượng này đều quay lưng lại đền, ngả người ra sau với dáng điệu mạnh mẽ mô tả lại điển tích “khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh” mà vị vua Jayavarman VII cùng thần dân từng mong mỏi tìm thấy được. Một kiệt tác kiến trúc ngàn năm vẫn làm lòng người hậu thế xao xuyến, bâng khuâng.
Nếu như Angkor Wat với năm ngọn tháp lớn đã trở thành biểu tượng của vương quốc Campuchia thì những khuôn mặt Phật tạc trên những ngọn tháp đền Bayon là niềm tự hào lớn lao của người dân xứ xở này. Đó là bức thông điệp ngàn xưa mà Bayon muốn gửi lại mai sau như một khát vọng về hòa bình, lòng từ mẫn, thánh thiện đã khắc họa nên nụ cười Bayon bất tử. Khuôn mặt của đức Phật khổng lồ được tạc trên đá, sừng sững giữa trời đất, thách thức mọi biến đổi của thời gian là đề tài cho những cuộc tranh luận không dứt về những điều huyền bí ẩn chứa trong nét chạm khắc của những người thợ đá vô danh xưa kia. Có bao nhiêu Phật, Thần trong chùa là có bấy nhiêu cách thể hiện nụ cười, hướng nhìn khác nhau.
Đại Việt lương duyên
Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng
Trong tâm cảm “Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long”, chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ “phá Tống bình Chiêm”, và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.
Sau khi nhà vua Suryavarman II tử trận, cái chết của ông cùng với vương triều Angkor Wat rực rỡ đã chìm sâu vào quên lãng. Người ta không biết và cũng không ai có thể giải thích về những bí mật của vương triều.
Theo tư liệu người Pháp để lại tại Viện Viễn Đông Bác cổ, năm 1954, các nhà khoa học Pháp đã có thông tin về một khu đền lớn như một phiên bản của Angkor Wat nằm trong khu rừng già cách Angkor Wat không xa, nhưng hoàn toàn không có đường vào. Qua những tư liệu cổ, trên các bia ký còn đặt trong đền, người ta mới biết đền Boeng Mealea chính là nơi chôn cất thi hài vua Suryavarman II cùng nhiều vàng bạc, châu báu của vương triều.

Toàn cảnh Angkor Wat.
Nhưng do chiến tranh triền miên, khu đền Boeng Mealea lại chìm đắm giữa rừng hoang. Năm 2003, chính phủ khai phá một con đường mòn dẫn vào Boeng Mealea. Đây là khu vực còn rất nhiều bom mìn vẫn chưa gỡ bỏ hết sau chiến tranh Ponpot, nên xung quanh khu vực đền, lực lượng CMAC - lực lượng rà phá bom mìn quốc tế - vẫn đang hoạt động. Khu vực rà soát bom mìn được căng cờ đỏ và có khi bom mìn chỉ cách con đường độc đạo vào đền không đầy nửa mét.
Gần như toàn bộ đền tháp đã sụp đổ hoang tàn, nhưng vẫn có thể nhận ra dáng dấp vĩ đại và sự hoành tráng của nó không thua kém gì Angkor Wat. Thậm chí, các khối đá xây đền nơi này còn to hơn cả đền Angkor, nặng trung bình 8 tấn so với 3 - 5 tấn của Angkor Wat. Đền Boeng Mealea ngày xưa như một thành phố nhỏ với diện tích 108ha và có hào nước bao bọc quanh thành, có nơi rộng đến 45m. Đền có ba lớp tường bao bọc và được trấn giữ bởi những cánh cổng bằng đá khổng lồ, chính giữa là ngọn tháp cao đến 42m nhưng đã bị gãy đổ.
Đặc biệt hơn, Boeng Mealea có đến bốn thư viện ở bốn góc thành trong cảnh hoang tàn, trong khi hầu hết các đền đài thời kỳ Angkor chỉ có hai thư viện. Trung tâm của đền có quan tài của vua Suryavarman II nằm lăn lóc dưới đất. Theo Ủy ban Apsara, từ những năm chiến tranh, không chỉ các nhà nghiên cứu khảo cổ học mà còn những băng nhóm đào bới mộ cổ đã tìm đến đây và khai quật ngôi mộ cổ này, nhiều vàng bạc, châu báu đã bị lấy đi, những mảng phù điêu tuyệt mỹ trên tường của đền cũng bị đục lấy mất và xô ngã chiếc quan tài từ trên đền xuống đất. Nhưng họ không tìm thấy được thi hài của Suryavarman II.

Vũ nữ APSARA tai Angkor Wat. Phù hiệu trên tường Angkor Wat.
Suryavarman II - người xây những đền tháp vĩ đại
Sau khi vua Suryavarman II qua đời, ánh sáng mặt trời đã tắt vụt, bóng đêm và sự tuyệt vọng của đế chế Angkor huy hoàng phủ trùm lên một màu đen tóc tang. Nội bộ triều đình mâu thuẫn, lục đục, tranh giành quyền lực, các công trình đền tháp xây dựng dở dang phải ngưng trệ, đình đốn. Chiến tranh tranh giành cát cứ và ngoại xâm bấy lâu dòm ngó chờ cơ hội xâm chiếm đế chế Khmer. Cả xã hội Chân Lạp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng cho đến khi một mặt trời mới rực rỡ xuất hiện trên bầu trời Angkor… đó là Hoàng tử Jayavarman VII.Jayavarman VII (1181- 1220) là vua của Đế quốc Khmer, được xem là một trong ba vị vua tài năng, anh hùng lỗi lạc của dân tộc Khmer dưới triều đại Angkor. Ông là con trai của vua Dharanindravarman II (trị vì từ 1150 - 1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau khi bà qua đời, ông cưới em gái bà là Indradevi. Người ta cho rằng hai người phụ nữ này đã truyền cảm hứng lớn cho ông, đặc biệt là lòng mộ đạo của ông đối với Phật giáo.
Nhiều giả thuyết cho rằng sau khi vua Suryavarman II tử nạn trong vùng rừng núi Vụ Quang, châu Nghệ An (Đại Việt), để tránh bị xâm hại, trả thù đời sau nên hoàng tộc đã cho làm lễ trọng đại hỏa táng thi hài vua như một cách trấn an người dân và quân binh đế chế Khmer. Sau đó tro cốt được đưa vào thờ trong đền Angkor Wat, còn quan tài và ngôi đền này được xây nên chỉ làm nơi thờ cúng hình bóng quốc vương.
Trước đó, chỉ có một vị vua khác của Đế quốc Khmer là một Phật tử. Ông là người đã cho xây dựng rất nhiều đền đài to lớn còn lưu dấu đến ngày nay như: Ta Prohm, Preah Khan, Angkor Thom, Bayon, Jayatataka Baray, Neak Pean, Ta Som, Ta Nei, Ban Teay Chhmar, Prasats Chrung, Sân Voi, Ta Prohm Kel, Hospital Chapel, Krol Kô, Srah Srang, Royal Place.
Trong số những ngôi đền đó, nổi tiếng nhất là kinh thành Angkor Thom với đền Bayon là sự tuyệt mỹ về kiến trúc và điêu khắc. Nơi đây còn có tên gọi là Đền Đế Thích - một kiệt tác kiến trúc chỉ sau Angkor Wat mà tổ tiên ngài là vua Suryavarman II đã xây dựng nên.
Jayavarman VII lúc sinh thời được sử sách lưu truyền là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, tu niệm theo Phật, tỏ ra rất thờ ơ với mọi biến động trong đời sống chính trị, xã hội Khmer. Tuy nhiên, nhìn thấy đất nước Chân Lạp quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm giày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn, mang lại no ấm cho muôn dân và sự cường thịnh của một vương quốc từng kiêu hãnh, hùng mạnh.
Lúc bấy giờ, đất nước Chân Lạp đã rơi vào tay Chiêm Thành, đền Angkor Wat và mọi thể chế hùng mạnh của vương triều Suryavarman II hoàn toàn bị xóa sổ. Ông dấy binh khởi nghĩa từ rừng núi Kulen nơi Tiên đế dựng nghiệp và tập hợp các thế lực hùng mạnh đang cát cứ trong các tỉnh thành lúc bấy giờ chống lại quân xâm lược Chiêm Thành. Sau bốn năm chiến đấu, ông đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi đất nước, khôi phục lại sự thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi, Jayavarman VII bắt đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một trận hải chiến oanh liệt và hiển hách nhất lịch sử đã được miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Bantay Cherma ngày nay. Sau khi giành lại độc lập, Jayavarman VII lên ngôi Quốc vương. Ông liền bắt tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi là thành Yaxodarapura.
Bản văn bia có thuật lại với những lời lẽ rất nên thơ trong ngày đó như sau: “Buổi lễ đăng quang của vua Jayavarman VII tổ chức bốn năm sau ngày thất thủ kinh đô. Kinh thành Yaxodarapura giống như một cô thiếu nữ hiền hậu, xứng đôi vừa lứa với người yêu của mình, nhiệt tình và say đắm, được trang trí bằng một tòa lâu đài dát vàng ngọc với những dãy thành quách bao bọc như một dải lụa che thân: cô thiếu nữ đó được nhà vua cưới để tạo ra hạnh phúc cho muôn loài trong một buổi lễ huy hoàng, dưới đài vinh quang sáng chói”.
Nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom và cách Angkor Wat khoảng 300m, Bayon là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia bởi sự kỳ vĩ về quy mô cũng như cảm xúc mà nó đem lại.
Từ xa, du khách có thể cảm nhận cảnh đẹp tuyệt vời được phô bày ngay trên con đường chính dẫn tới cổng đền thờ. Dọc theo hai bên đường lát đá phiến bắc qua một con sông đào, hai bên là 54 bức tượng khổng lồ ôm ngang lưng rắn thần Nagar chia thành hai hàng cân xứng: bên trái là các thần, bên phải là các quỷ.
Một vài pho tượng khiếm khuyết từng bộ phận đầu, mình, tay chân do thời gian cùng các biến động của lịch sử và chiến tranh. Hầu hết các pho tượng này đều quay lưng lại đền, ngả người ra sau với dáng điệu mạnh mẽ mô tả lại điển tích “khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh” mà vị vua Jayavarman VII cùng thần dân từng mong mỏi tìm thấy được. Một kiệt tác kiến trúc ngàn năm vẫn làm lòng người hậu thế xao xuyến, bâng khuâng.
Nếu như Angkor Wat với năm ngọn tháp lớn đã trở thành biểu tượng của vương quốc Campuchia thì những khuôn mặt Phật tạc trên những ngọn tháp đền Bayon là niềm tự hào lớn lao của người dân xứ xở này. Đó là bức thông điệp ngàn xưa mà Bayon muốn gửi lại mai sau như một khát vọng về hòa bình, lòng từ mẫn, thánh thiện đã khắc họa nên nụ cười Bayon bất tử. Khuôn mặt của đức Phật khổng lồ được tạc trên đá, sừng sững giữa trời đất, thách thức mọi biến đổi của thời gian là đề tài cho những cuộc tranh luận không dứt về những điều huyền bí ẩn chứa trong nét chạm khắc của những người thợ đá vô danh xưa kia. Có bao nhiêu Phật, Thần trong chùa là có bấy nhiêu cách thể hiện nụ cười, hướng nhìn khác nhau.
Đại Việt lương duyên
Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng
Trong tâm cảm “Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long”, chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ “phá Tống bình Chiêm”, và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.