THÓI XẤU NGƯỜI VIỆT GHI NHẬN TRONG LỊCH SỬ

Tính Giao

Thích phó đà
Để khảo cứu thói xấu người Việt từ khoảng 400 năm trở về trước là một việc rất khó, vì không đủ tài liệu. Các sử gia truyền thống (như Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn...) dường như rất ít khi chú ý đến khía cạnh này. Chỉ đến khoảng giữa thế kỷ thứ XVII trở đi, khi bắt đầu có nhiều giáo sĩ, thương nhân, quân nhân người Âu sang Việt Nam vì những mục đích khác nhau, họ mới bắt đầu ghi nhận về đời sống, lối sống của dân tộc bản xứ, qua đó chúng ta có thể biết được đôi chút về tính cách người Việt, tốt cũng như xấu.

Vả chăng, trong thời kỳ này (giữa thế kỷ XVII), dân số Việt Nam, chủ yếu ở Đàng Ngoài, chỉ vào khoảng gần 5 triệu người (xem Li Tana, Xứ Đàng Trong, bản tiếng Việt của Nguyễn Nghị, Nxb. Trẻ, 2014, tr.53), mức độ đấu tranh xã hội còn thấp trong một môi trường đất rộng người thưa, nên tính cách con người có lẽ vẫn còn ở trong trạng thái tự nhiên, chưa bộc lộ rõ các thói xấu.

Theo ghi nhận khá rời rạc của một số nhà truyền giáo tiên phong tiếp xúc với xã hội Việt Nam, như Christoforo Borri (1583 - 1632), Alexandre De Rhodes (1591 - 1660),... thì đặc điểm xấu chung phổ biến của người Việt thời kỳ này là thói mê tín dị đoan, ưa tin vào phép thuật của các thầy phù thủy... (Xem Alexandre De Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, bản tiếng Việt của Hồng Nhuệ, Tủ Sách Đại Kết, 1994, tr.49). Theo Jean-Baptiste Tavernier, một thương nhân lữ hành người Pháp, ghi lại trong cuốn Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài xuất bản ở Paris năm 1681, thì "Những mê tín dị đoan của dân tộc này nhiều lắm, có thể viết thành một cuốn sách" (xem bản tiếng Việt của Lê Tư Lành, Nxb. Thế giới, 2011, tr.103).

Về tính tốt, Borri ghi nhận lòng quảng đại của người Việt di dân ở xứ Đàng Trong (miền Nam bây giờ). Họ rất dễ động lòng trắc ẩn và sẵn sàng chia sẻ của cải với những người khác có hoàn cảnh sống khó khăn hơn (xem Li Tana, sđd., tr. 227-228). Theo Tavernier, "Bản tính của người xứ Đàng Ngoài hòa dịu, rất biết phục tùng, lễ phép và rất ghét những sự nổi giận..." (sđd., tr.47)

Baldinotti ghi vắn tắt về con nguwofi Việt Nam ghi ông tới Đàng Ngoài năm 1626 như sau: "Về diện mạo thì họ khá cao ráo, vạn vỡ và can đảm... Binh sĩ thì đeo gươm mang kiếm, đó là những người bệ vệ dễ giao thiệp, trung thành, vui vẻ; họ không có những tật xấu như người Trung Hoa và Nhật Bản (TVC nhấn mạnh). Dân thường thì hay trộm cắp, vì thế người ta phạt kẻ ăn trộm ăn cắp cũng như ngoại tình bằng án tử hình." (theo Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, bản thảo chưa đặt tên, chưa xuất bản viết về đất nước và con nguwofi Việt Nam thế kỷ XVII, hoàn thành tháng 6.1991, tài liệu đánh máy do Nguyễn Nghị cung cấp).

Phải đợi đến giữa thế kỷ XVIII trở đi, tài liệu ghi chép về Việt Nam nói chung và về người Việt nói riêng mới được phong phú hơn. Về tính cách, lối sống cá nhân thì mê tín dị đoan, nát rượu và cờ bạc là ba thói xấu thường thấy. Trong quan hệ với công quyền và xã hội, người Việt có thói ganh tị với người giàu, ham thích quan tước, tham nhũng hối lộ, vu cáo nói xấu người khác, ưa kiện tụng và không biết tôn trọng luật pháp.

Có thể dẫn chứng vài đoạn trong một bức thư dài sinh động và có lẽ khá xác thực của Giám mục Reydellet viết tại Đông Kinh (tức Hà Nội bây giờ) năm 1766. Nói xác thực vì đây là bức thư Giám mục Reydellet viết cho người em trai ruột của mình ở Pháp để phản ánh cho người nhà những gì ông đã từng mắt thấy tai nghe khi vào Việt Nam để truyền giáo. Về tệ nát rượu và cờ bạc, tác giả nêu nhận xét: "Ở Đông Kinh cũng như ở Âu Châu, cũng có những kẻ nát rượu và những con bạc nhà nghề. Những kẻ ấy, thông thường đến khi chết mới thay đổi được tính nết và đều nghèo xơ nghèo xác. Họ phung phá tất cả mọi thứ và thường làm cho cha mẹ, họ hàng phải nghèo lây" (xem Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học, tr76).

Người Việt di dân vào Nam thời trước cũng rất mê cờ bạc. Léopold Pallu, một sĩ quan từng đi theo đoàn quân của Phó thủy sư đề đốc Charner đánh chiếm Nam Kỳ đầu tiên, đã viết trong cuốn Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1961 (Histoire de l'Expédition de Cochinchine en 1861, Hachette xuất bản năm 1864, bản tiếng Việt của Hoàng Phong, Nxb. Phương Đông, tr.203): "Người An Nam có thói ham mê cờ bạc cao độ. Những phu khuân vác do công binh ta mướn ở các công trường xây cất vừa lãnh lương xong được vài đồng kẽm là tụm nhau mà đánh bạc... Thoáng là đã thua sạch, chỉ có một người ăn duy nhất. Họ lại mượn trước tiền lương của ngày hôm sau và tiếp tục chơi... Những người An Nam ta thấy lúc nào cũng hối hả đem những gì họ kiếm ra để chơi cờ bạc và hình như họ không tìm thấy sự thích thú khi tom góp của cải để làm giàu; họ có những rung cảm cao độ về cảnh nghèo khó...".

Về những tệ nạn xã hội liên quan tính xấu người Việt, bức thư đã dẫn trên của Giám mục Reydellet kể tiếp: "Miền xuôi, miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh là một miền rất đông đúc dân cư có đời sống nghèo nàn cơ cực vì đất không nuôi đủ được người. Ngoài ra còn có rất nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để cho người khác phải tán gia bại sản. Ở xứ này, giàu có nhiều tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sinh sự và hãm hại người giàu mãi cho đến lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn phải thức để canh giữ trong nhà. Người Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước và tiền của nên đều thích quan và làm giàu. Những kẻ có ít chữ nghĩa và khôn khéo trong việc vu cáo và nói xấu người khác thì rốt cục có thể trèo lên tới chức quan. Do trong nước không thiếu những hạng người như vậy nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nảy nở vô số ở khắp nơi. Những kẻ nghèo khổ trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị đã làm tình làm tội đám dân đen, bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp bóc đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi, làm người hàng xóm phải lo âu e ngại, và quấy rối kẻ nghèo..." (sđd, tr. 71 - 72).

Ở đoạn tiếp sau, tác giả nhận xét về tình trạng tiêu cực trong xử lý luật pháp của đám quan lại Việt Nam thời phong kiến: "... Nhìn tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn, rất hợp lý và được quy định rõ ràng. Chỉ tệ một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả. Chính những người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước hơn ai hết. Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác. Dù có là đại g ian hùng nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính cảu mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những kẻ vụng về, những kẻ ngờ nghệch, ngây ngô, những kẻ nghèo hèn là bị trừng phạt thôi..." (sđd., tr. 74).

Những tác phẩm mô tả người Việt trong giai đoạn tiếp xúc đầu tiên của người Pháp khi mới đến xứ ta (1860) đã được Malleret tập hợp gới thiệu khá đầy đủ trong quyển Exotisme indochinois dans la littérature francais depuis 1860 (ấn bản của Société des Etudes Indochinoises, Pái, 1934), qua đó chúng ta ngày nay còn đọc được một vài nhận xét của họ về tính của người Việt cách nay trên dưới 150 năm.

Đây là nhận xét của một người lính Pháp về thói ở dơ của người Việt giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX: "Năm 1883, ngược dòng sông Hồng Hà, Thiếu tá Peroz đã mô tả những người bản xứ rách rưới, bẩn thỉu cũng lên thuyền với ông ta. Bằng một giọng khinh bỉ, ông phàn nàn vì phải ngửi những mùi hôi thối của nước mắm và mùi buồn nôn của thuốc phiện: Phải cố mà chịu đựng sự tiếp xúc xấu xa đó" (Malleret, tr. 50, dẫn lại của Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam, Thực chất và huyền thoại, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 64).

Một quan tòa Pháp viết: "Người An Nam ở bẩn kinh khủng; người họ đầy rận chấy và bị các bệnh ngoài da tàn phá, làm mụn nhọt mủ, khắp mình; lúc nào cũng gần gũi với súc vật ở ngay trong nhà họ..." (Malleret, tr.265, Nguyễn Văn Trung, tr.65).

Một cố đạo nghĩ về tính nhẹ dạ, hời hợt của người Việt: "Tính nết họ hay thay đổi, nhẹ dạ lạ lùng. Tôi tin rằng họ không thể theo dõi một cách chăm chỉ một ý tưởng gì. Chính vì thế mà họ kém cỏi về mặt buôn bán, kỹ nghệ, văn nghệ khi so sánh với người Tàu mà họ đã vay mượn tất cả những gì là văn minh bề ngoài... Thực ra, mặc dầu có cái vỏ bề ngoài lễ nghi nghiêm trang, họ vẫn còn là một dân tộc ấu trĩ, hay thay đổi trái chứng như trẻ con..." ( Malleret, tr. 52, Nguyễn Văn Trung, tr.64 ).

Một người khác phê phán nặng nề nền văn minh Việt Nam: "Trong các nước tự xưng là văn minh, tôi không thấy có nước nào phong tục thả lỏng như thế... Xứ An Nam là một xứ có tổ chức, không phải có văn minh. Tính cách văn minh bề ngoài của nó là một sự phủ nhận tuyệt đối mọi văn minh vì văn minh của nó chỉ là sự bóc lột dã man đa số, do một thiểu số thối nát và thiếu mọi tư cách" (Malleret, tr. 66, Nguyễn Văn Trung, tr. 64).

Lẽ tất nhiên, trong cuốn sách sưu tập của Melleret, cũng như ở nhiều sách khác, lối diễn đạt của một số tác giả nước ngoài về người Việt trong bước đầu tiếp xúc đôi khi có phần quá đáng, thiếu chính xác, thiếu tế nhị, thậm chí miệt thị và trịch thượng, vì họ phát biểu từ góc độ của kẻ thực dân xâm lược, kẻ "bề trên". Nhưng thôi, chúng ta cũng hay tạm ráng "nuốt" trong sự thông cảm với đồng bào ta thời đó, đê khách quan xét lại tật mình cầu lấy sự tiến bộ.
 
Lâu quá xam mới có 1 bài hay để tao đọc đi đọc lại.
 
Và những bài như này thường đéo thằng nào thèm đọc
Thằng thớt đã từng viết rất nhiều
https://xamvn.chat/search/7023280/?q=Thói+xấu+người+Việt&c[users]=Hoangbach0&o=relevance
 
Nói chung gia đình mà cha mẹ tan vỡ thì con cái dễ hư hỏng , trách ông Quân và bà Cơ vì hạnh phúc cá nhân nên tan vỡ , con cái éo giáo dục đầy đủ nên thói hư tật xấu bao la.

Dân gần trăm triệu ai người lớn .
Nước 4000 năm vẫn trẻ con .
 
Nói chung gia đình mà cha mẹ tan vỡ thì con cái dễ hư hỏng , trách ông Quân và bà Cơ vì hạnh phúc cá nhân nên tan vỡ , con cái éo giáo dục đầy đủ nên thói hư tật xấu bao la.

Dân gần trăm triệu ai người lớn .
Nước 4000 năm vẫn trẻ con .
Mày có biết mỗi lần trích lại câu của Tản Đà là khối thằng nhột không :))
 
Thằng thớt đã từng viết rất nhiều
https://xamvn.chat/search/7023280/?q=Thói+xấu+người+Việt&c[users]=Hoangbach0&o=relevance
Chắc rồi lại bị ném đá, vì dân mình giờ thích ngạo nghễ cơ chứ đéo thích nhìn vào sự thật
 
Theo thằng thớt thì vì sao người Việt lại lắm thói hư tật xấu ?
 
Nói chung gia đình mà cha mẹ tan vỡ thì con cái dễ hư hỏng , trách ông Quân và bà Cơ vì hạnh phúc cá nhân nên tan vỡ , con cái éo giáo dục đầy đủ nên thói hư tật xấu bao la.

Dân gần trăm triệu ai người lớn .
Nước 4000 năm vẫn trẻ con .
chuẩn tất cả vì 2 ông bà vì không kiềm nén được dục vọng mà đẩy ra đời 1 dân tộc mạt hạng
 
1 dân tộc ưa phỉnh, đéo làm cái gì ra hồn cả
 
Nói chung gia đình mà cha mẹ tan vỡ thì con cái dễ hư hỏng , trách ông Quân và bà Cơ vì hạnh phúc cá nhân nên tan vỡ , con cái éo giáo dục đầy đủ nên thói hư tật xấu bao la.

Dân gần trăm triệu ai người lớn .
Nước 4000 năm vẫn trẻ con .
Ơ. Hoá za cuột tình ly dị đầu tiên của tọc Đại ngu nà giữa míttơ Quân và quý bà Cơ?
 
Còn đây là ghi chép của người Anh khi đến SG thời Nguyễn.
Năm 1822, khi người Anh ỏ Bengal (Ấn Độ) và Singpapore gởi ông John Crawfurd vào Gia Định gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt để tìm hiểu về thương mại, Crawfurd có viết về Chợ Lớn lúc đó gọi là Sài Gòn và Bến Nghé như sau:

“..Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng […] Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây […] Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp.”

Cho thấy SG đã sầm uất từ lâu rồi chứ chưa cần đợi người Pháp tới, nên người Pháp về sau gọi là hòn ngọc cũng có lý của nó.
 
Để khảo cứu thói xấu người Việt từ khoảng 400 năm trở về trước là một việc rất khó, vì không đủ tài liệu. Các sử gia truyền thống (như Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn...) dường như rất ít khi chú ý đến khía cạnh này. Chỉ đến khoảng giữa thế kỷ thứ XVII trở đi, khi bắt đầu có nhiều giáo sĩ, thương nhân, quân nhân người Âu sang Việt Nam vì những mục đích khác nhau, họ mới bắt đầu ghi nhận về đời sống, lối sống của dân tộc bản xứ, qua đó chúng ta có thể biết được đôi chút về tính cách người Việt, tốt cũng như xấu.

Vả chăng, trong thời kỳ này (giữa thế kỷ XVII), dân số Việt Nam, chủ yếu ở Đàng Ngoài, chỉ vào khoảng gần 5 triệu người (xem Li Tana, Xứ Đàng Trong, bản tiếng Việt của Nguyễn Nghị, Nxb. Trẻ, 2014, tr.53), mức độ đấu tranh xã hội còn thấp trong một môi trường đất rộng người thưa, nên tính cách con người có lẽ vẫn còn ở trong trạng thái tự nhiên, chưa bộc lộ rõ các thói xấu.

Theo ghi nhận khá rời rạc của một số nhà truyền giáo tiên phong tiếp xúc với xã hội Việt Nam, như Christoforo Borri (1583 - 1632), Alexandre De Rhodes (1591 - 1660),... thì đặc điểm xấu chung phổ biến của người Việt thời kỳ này là thói mê tín dị đoan, ưa tin vào phép thuật của các thầy phù thủy... (Xem Alexandre De Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, bản tiếng Việt của Hồng Nhuệ, Tủ Sách Đại Kết, 1994, tr.49). Theo Jean-Baptiste Tavernier, một thương nhân lữ hành người Pháp, ghi lại trong cuốn Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài xuất bản ở Paris năm 1681, thì "Những mê tín dị đoan của dân tộc này nhiều lắm, có thể viết thành một cuốn sách" (xem bản tiếng Việt của Lê Tư Lành, Nxb. Thế giới, 2011, tr.103).

Về tính tốt, Borri ghi nhận lòng quảng đại của người Việt di dân ở xứ Đàng Trong (miền Nam bây giờ). Họ rất dễ động lòng trắc ẩn và sẵn sàng chia sẻ của cải với những người khác có hoàn cảnh sống khó khăn hơn (xem Li Tana, sđd., tr. 227-228). Theo Tavernier, "Bản tính của người xứ Đàng Ngoài hòa dịu, rất biết phục tùng, lễ phép và rất ghét những sự nổi giận..." (sđd., tr.47)

Baldinotti ghi vắn tắt về con nguwofi Việt Nam ghi ông tới Đàng Ngoài năm 1626 như sau: "Về diện mạo thì họ khá cao ráo, vạn vỡ và can đảm... Binh sĩ thì đeo gươm mang kiếm, đó là những người bệ vệ dễ giao thiệp, trung thành, vui vẻ; họ không có những tật xấu như người Trung Hoa và Nhật Bản (TVC nhấn mạnh). Dân thường thì hay trộm cắp, vì thế người ta phạt kẻ ăn trộm ăn cắp cũng như ngoại tình bằng án tử hình." (theo Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, bản thảo chưa đặt tên, chưa xuất bản viết về đất nước và con nguwofi Việt Nam thế kỷ XVII, hoàn thành tháng 6.1991, tài liệu đánh máy do Nguyễn Nghị cung cấp).

Phải đợi đến giữa thế kỷ XVIII trở đi, tài liệu ghi chép về Việt Nam nói chung và về người Việt nói riêng mới được phong phú hơn. Về tính cách, lối sống cá nhân thì mê tín dị đoan, nát rượu và cờ bạc là ba thói xấu thường thấy. Trong quan hệ với công quyền và xã hội, người Việt có thói ganh tị với người giàu, ham thích quan tước, tham nhũng hối lộ, vu cáo nói xấu người khác, ưa kiện tụng và không biết tôn trọng luật pháp.

Có thể dẫn chứng vài đoạn trong một bức thư dài sinh động và có lẽ khá xác thực của Giám mục Reydellet viết tại Đông Kinh (tức Hà Nội bây giờ) năm 1766. Nói xác thực vì đây là bức thư Giám mục Reydellet viết cho người em trai ruột của mình ở Pháp để phản ánh cho người nhà những gì ông đã từng mắt thấy tai nghe khi vào Việt Nam để truyền giáo. Về tệ nát rượu và cờ bạc, tác giả nêu nhận xét: "Ở Đông Kinh cũng như ở Âu Châu, cũng có những kẻ nát rượu và những con bạc nhà nghề. Những kẻ ấy, thông thường đến khi chết mới thay đổi được tính nết và đều nghèo xơ nghèo xác. Họ phung phá tất cả mọi thứ và thường làm cho cha mẹ, họ hàng phải nghèo lây" (xem Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học, tr76).

Người Việt di dân vào Nam thời trước cũng rất mê cờ bạc. Léopold Pallu, một sĩ quan từng đi theo đoàn quân của Phó thủy sư đề đốc Charner đánh chiếm Nam Kỳ đầu tiên, đã viết trong cuốn Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1961 (Histoire de l'Expédition de Cochinchine en 1861, Hachette xuất bản năm 1864, bản tiếng Việt của Hoàng Phong, Nxb. Phương Đông, tr.203): "Người An Nam có thói ham mê cờ bạc cao độ. Những phu khuân vác do công binh ta mướn ở các công trường xây cất vừa lãnh lương xong được vài đồng kẽm là tụm nhau mà đánh bạc... Thoáng là đã thua sạch, chỉ có một người ăn duy nhất. Họ lại mượn trước tiền lương của ngày hôm sau và tiếp tục chơi... Những người An Nam ta thấy lúc nào cũng hối hả đem những gì họ kiếm ra để chơi cờ bạc và hình như họ không tìm thấy sự thích thú khi tom góp của cải để làm giàu; họ có những rung cảm cao độ về cảnh nghèo khó...".

Về những tệ nạn xã hội liên quan tính xấu người Việt, bức thư đã dẫn trên của Giám mục Reydellet kể tiếp: "Miền xuôi, miền đồng bằng gồm cả xứ Đông Kinh là một miền rất đông đúc dân cư có đời sống nghèo nàn cơ cực vì đất không nuôi đủ được người. Ngoài ra còn có rất nhiều kẻ ăn hại chỉ có độc một nghề là đi cướp phá mùa màng, dùng vũ lực hay dùng mưu mẹo để cho người khác phải tán gia bại sản. Ở xứ này, giàu có nhiều tiền lắm bạc là một tội to. Ai cũng sinh sự và hãm hại người giàu mãi cho đến lúc họ bị rơi vào cảnh nghèo nàn quẫn bách thì mới chịu thôi. Ban đêm, những người giàu không ngủ được vì còn phải thức để canh giữ trong nhà. Người Đông Kinh nào cũng ham thích quan tước và tiền của nên đều thích quan và làm giàu. Những kẻ có ít chữ nghĩa và khôn khéo trong việc vu cáo và nói xấu người khác thì rốt cục có thể trèo lên tới chức quan. Do trong nước không thiếu những hạng người như vậy nên bọn quan lại và bọn tai to mặt lớn sinh sôi nảy nở vô số ở khắp nơi. Những kẻ nghèo khổ trong phút chốc được trở thành quan lớn ấy, để giữ vững địa vị đã làm tình làm tội đám dân đen, bắt họ phải bò rạp dưới chân mình, cướp bóc đàn bà góa bụa và trẻ con mồ côi, làm người hàng xóm phải lo âu e ngại, và quấy rối kẻ nghèo..." (sđd, tr. 71 - 72).

Ở đoạn tiếp sau, tác giả nhận xét về tình trạng tiêu cực trong xử lý luật pháp của đám quan lại Việt Nam thời phong kiến: "... Nhìn tổng quát thì luật lệ ở đây rất đúng đắn, rất hợp lý và được quy định rõ ràng. Chỉ tệ một nỗi là chẳng được kẻ nào tôn trọng cả. Chính những người có phận sự thi hành luật pháp lại là những người phạm luật trước hơn ai hết. Tiền bạc và những tặng vật đút lót xóa sạch những tội ác. Dù có là đại g ian hùng nhưng nếu biết cách che giấu những hành động bất chính cảu mình thì vẫn là người lương thiện. Chỉ những kẻ vụng về, những kẻ ngờ nghệch, ngây ngô, những kẻ nghèo hèn là bị trừng phạt thôi..." (sđd., tr. 74).

Những tác phẩm mô tả người Việt trong giai đoạn tiếp xúc đầu tiên của người Pháp khi mới đến xứ ta (1860) đã được Malleret tập hợp gới thiệu khá đầy đủ trong quyển Exotisme indochinois dans la littérature francais depuis 1860 (ấn bản của Société des Etudes Indochinoises, Pái, 1934), qua đó chúng ta ngày nay còn đọc được một vài nhận xét của họ về tính của người Việt cách nay trên dưới 150 năm.

Đây là nhận xét của một người lính Pháp về thói ở dơ của người Việt giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX: "Năm 1883, ngược dòng sông Hồng Hà, Thiếu tá Peroz đã mô tả những người bản xứ rách rưới, bẩn thỉu cũng lên thuyền với ông ta. Bằng một giọng khinh bỉ, ông phàn nàn vì phải ngửi những mùi hôi thối của nước mắm và mùi buồn nôn của thuốc phiện: Phải cố mà chịu đựng sự tiếp xúc xấu xa đó" (Malleret, tr. 50, dẫn lại của Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam, Thực chất và huyền thoại, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr. 64).

Một quan tòa Pháp viết: "Người An Nam ở bẩn kinh khủng; người họ đầy rận chấy và bị các bệnh ngoài da tàn phá, làm mụn nhọt mủ, khắp mình; lúc nào cũng gần gũi với súc vật ở ngay trong nhà họ..." (Malleret, tr.265, Nguyễn Văn Trung, tr.65).

Một cố đạo nghĩ về tính nhẹ dạ, hời hợt của người Việt: "Tính nết họ hay thay đổi, nhẹ dạ lạ lùng. Tôi tin rằng họ không thể theo dõi một cách chăm chỉ một ý tưởng gì. Chính vì thế mà họ kém cỏi về mặt buôn bán, kỹ nghệ, văn nghệ khi so sánh với người Tàu mà họ đã vay mượn tất cả những gì là văn minh bề ngoài... Thực ra, mặc dầu có cái vỏ bề ngoài lễ nghi nghiêm trang, họ vẫn còn là một dân tộc ấu trĩ, hay thay đổi trái chứng như trẻ con..." ( Malleret, tr. 52, Nguyễn Văn Trung, tr.64 ).

Một người khác phê phán nặng nề nền văn minh Việt Nam: "Trong các nước tự xưng là văn minh, tôi không thấy có nước nào phong tục thả lỏng như thế... Xứ An Nam là một xứ có tổ chức, không phải có văn minh. Tính cách văn minh bề ngoài của nó là một sự phủ nhận tuyệt đối mọi văn minh vì văn minh của nó chỉ là sự bóc lột dã man đa số, do một thiểu số thối nát và thiếu mọi tư cách" (Malleret, tr. 66, Nguyễn Văn Trung, tr. 64).

Lẽ tất nhiên, trong cuốn sách sưu tập của Melleret, cũng như ở nhiều sách khác, lối diễn đạt của một số tác giả nước ngoài về người Việt trong bước đầu tiếp xúc đôi khi có phần quá đáng, thiếu chính xác, thiếu tế nhị, thậm chí miệt thị và trịch thượng, vì họ phát biểu từ góc độ của kẻ thực dân xâm lược, kẻ "bề trên". Nhưng thôi, chúng ta cũng hay tạm ráng "nuốt" trong sự thông cảm với đồng bào ta thời đó, đê khách quan xét lại tật mình cầu lấy sự tiến bộ.
"Người An Nam có thói ham mê cờ bạc cao độ.
Ham mê cờ bạc thì ở đâu cũng có nhưng đến mức "cao độ" thì mấy ông cha đạo người Tây này nhận xét đúng.
 
Top