Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Là một nhà quân sự có tài, Vua Suryavacman II cũng là một tay kiến trúc lỗi lạc. Nếu như những hành động quân sự và tài năng trị nước của vua có thể bây giờ người ta chỉ biết đến trong phạm vi hẹp nhưng bây giờ, xin nhắc lại là thế giới bây giờ mà cụ thể là Liên Hiệp Quốc (LHQ) đều biết đến tên tuổi của ông vì những công trình xây dựng đền chùa và danh lam thắng cảnh ở miền Bắc Campuchia nơi quê hương ông. Đó là đền Pơnong Chiso, đền Pơnongsandao Đền Vạt Phu, đền Preah Vihear. Một trong những công trình vĩ đại nhất của ông là Angkor Wat.
Vua Suryavacman II đã ghi tên tuổi của mình vào thời kỳ cực thịnh nhất của nền nghệ thuật Khmer! Trong đó đền Preah Vihear và Angkor Wat đã được LHQ công nhận là Di sản thế giới! Ngôi đền tọa lạc trên đỉnh một vách đá cao 525 mét của núi Dangrek thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia, và một phần biên giới tỉnh Si Sa Ket ở đông bắc Thái Lan.
Đền Preah Vihear được xây dựng thờ thần Shiva và các thần núi Sikharesvara, Bhadresvara. Những tài liệu, bản khắc, di vật tìm thấy trong đền đã tái hiện chi tiết hình ảnh dưới thời Suryavarman II trong việc thực hiện nghi lễ, tổ chức lễ hội tôn giáo, tặng quà cho cố vấn tinh thần của đức Vua (như voi, bát vàng...).
Kiến trúc phức hợp của ngôi đền chạy theo trục bắc nam dài 800m, bao gồm một bờ đường đắp cao và những bậc tam cấp dẫn lên điện thờ nằm trên đỉnh khu vực đền thờ phía nam. Kiến trúc đền tương tự kiến trúc của đền khu vực Angkor Wat với điêu khắc trên đá sa thạch cực kỳ tinh xảo. Phần khu vực xung quanh đền với nhiều thư viện và các tháp cao nhưng hiện nay phần lớn các kiến trúc phụ xung quanh đền đều bị đổ nát nghiêm trọng.
Có lẽ Vua Suryavacman II không ngờ công trình của mình sau cửu bách dư niên hậu lại gây bao phiền toái cho hậu thế như vậy? Đền Preah Vihear đã được UNESCO xếp hạng là di sản văn hóa thế giới, cũng là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Campuchia và Thái Lan. Năm 1904, Vương quốc Xiêm (tên gọi chính thức của Thái Lan trước năm 1949) và thực dân Pháp thành lập một ủy ban chung thực hiện công việc phân định ranh giới. Năm 1907, sau khi điều tra nghiên cứu, người Pháp đã đưa ra bản đồ, trong đó thể hiện vị trí chính xác khu vực đền Preah Vihear và vùng lân cận. Căn cứ theo tấm bản đồ này, Preah Vihear nằm bên Campuchia.
Năm 1954, Thái Lan chiếm giữ ngôi đền sau khi quân đội Pháp rút khỏi Campuchia, Campuchia phản đối và yêu cầu Tòa án Thế giới phân xử. Tòa án xem xét vụ việc không chỉ dựa trên những di sản văn hóa, mà còn cân nhắc những biện pháp chuyên môn kỹ thuật phân định ranh giới. Ngày 15/6/1962, tòa ra phán quyết phần thắng thuộc về Campuchia và yêu cầu Thái Lan trả lại mọi di vật (kể cả những bức tượng thờ) đã đưa ra khỏi ngôi đền.

Preah Vihear là một ngôi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc núi Dângrêk ở Campuchia, gần biên giới với Thái Lan. Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak thuộc tỉnh Sisaket của Thái Lan, một nửa đền thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia.
Binh lính Việt Nam năm 1979 ở đền Preah Vihear,
Ngày 7-9-1982, từ vùng quê ở xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Khánh (nay là 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa), ông Chung lên đường nhập ngũ ở tuổi 18 để bảo vệ Tổ quốc và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. “Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa” là cách ông dẫn lời trong ca khúc “Mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn để kể về những năm tháng mình đã trải qua.
Sau 3 tháng huấn luyện, ông được biên chế về Sư đoàn 307 (Quân khu 5) đóng quân ở Preah Vihear. Nơi đây có dãy núi Dangrek dài hàng trăm cây số án ngữ, trở thành bức trường thành biên giới giữa 2 nước Campuchia-Thái Lan và được quân Khmer Đỏ chọn đặt bộ chỉ huy đầu não. Vì thế, tại khu vực này, Sư đoàn 307 liên tục đụng độ với Pol Pot.
Càng thử thách khi người lính quân tình nguyện Việt Nam phải chiến đấu giữa cái nóng nung người có khi lên đến 45 độ C, dưới chân toàn đá, trên đầu nắng đổ lửa, “máu đặc lại đến giới hạn cuối cùng, cơ thể khô kiệt vì thiếu nước”. Bủa vây họ còn là các loại mìn mà địch cài dày đặc, như những kẻ thù giấu mặt.

Vừa đặt chân đến vùng đất Đông Bắc Campuchia, ông Chung lập tức cảm nhận rõ sự khốc liệt của cuộc chiến. “Hòn đá tảng chiến tranh đè nặng lên vai người lính”-ông mô tả. Đến giờ, trở đi trở lại trong tâm trí ông Chung vẫn là sự hy sinh của đồng đội, là tình đồng chí trong những lúc gian nguy.
Cựu Đại đội trưởng Đại đội 9, 10, 11 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 95, Sư đoàn 307) nhớ lại: Trước khi hành quân chuẩn bị cho trận đánh chiếm cao điểm 677 (núi Cụt) vào tháng 12-1984, ông ngạc nhiên thấy ông Ngô Hồng Khoan, một đồng hương nhập ngũ cùng đợt tranh thủ nhét vào túi áo những tấm hình của người thân. Hỏi lý do, ông Khoan đáp, sợ trận này mất hết hình ảnh vợ con.
“Lúc đó, tôi đã có linh cảm không lành. Khi trận địa tạm im tiếng súng, tôi phát hiện anh Khoan đã hy sinh”-ông Chung hồi tưởng. Hình ảnh cuối cùng của đồng đội găm vào lòng ông Chung nỗi đau mất còn: máu loang đỏ những tấm hình vợ con nơi ngực áo, phải vuốt mắt mấy lần đồng đội mới khép mắt lại.
Chiến tranh không tránh khỏi mất mát, đau thương. Cũng ở đó, tình đồng đội, đồng chí hiển hiện rỡ ràng hơn bao giờ hết. Ông Chung xúc động chia sẻ câu chuyện của một chiến sĩ tên Đông (Trung đoàn 95). Tháng 3-1985, trong lúc hành quân, anh Đông không may bị thương do giẫm mìn, còn đồng đội đi bên cạnh hy sinh. Do chiến trận gấp gáp, chưa thể đưa thương binh và tử sĩ về tuyến sau nên đành để 2 anh ở lại bên đường với súng đạn, gạo sấy, nước uống chờ tiếp cứu, còn đơn vị tiếp tục lên đường.
14 ngày sau, kết thúc chiến dịch, đơn vị vỡ òa vì anh Đông vẫn sống. Đáng nói, trong suốt quãng thời gian đó, tuy ban ngày khỉ rừng phá phách, ban đêm thú dữ rình rập nhưng anh Đông vẫn nén đau bảo vệ đồng đội. Khi được đơn vị tìm thấy, chân anh đã hoại tử, thân hình chỉ còn da bọc xương!
Ký ức người lính Preah Vihear còn gắn liền với nhiều trận đánh như trận núi Cụt, núi Hồng. Đặc biệt, đơn vị ông Chung đã tham gia nhiều trận đánh ác liệt tại cụm cứ điểm 547, nơi có đến 2 sư đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn hỏa lực cơ động của Pol Pot đóng giữ. Đến lần thứ 4, quân ta xóa sổ sào huyệt của Pol Pot.
Trong khi đó, tại cao điểm 606, những người lính Sư đoàn 307 cũng đổ bao xương máu canh giữ, bảo vệ ngôi đền cổ Preah Vihear khỏi sự tàn phá của chế độ Pol Pot-Iêng Sary, để sau đó, ngôi đền ngàn năm tuổi được UNESCO xếp hạng là Di sản văn hóa thế giới.
Những câu chuyện nối tiếp nhau khiến tôi càng hiểu thêm vì sao quân tình nguyện Việt Nam được người dân nước bạn gọi là “Đội quân nhà Phật”. Ông Chung kể: “Tôi nhớ mãi buổi sáng đánh trận Ngã Ba Biên (Thái Lan-Campuchia-Lào). Tầm 9 giờ sáng, tôi dẫn Trung đội 3 tiến lên cao điểm 531. Tôi đi trước, vừa lên gần tới đỉnh thì một tiếng nổ vang lên, khói mù mịt bao trùm. Tôi thụp xuống nép vào gốc cây, nghe phía sau đồng đội kêu lên: “Chung bị mìn rồi, lên tìm khiêng xuống!”.
Tôi tiếp tục vượt lên thì thấy một lính Pol Pot nữ còn trẻ đang ôm chân đau đớn. Thì ra, lúc phát hiện ra tôi, cô này bỏ chạy và bị dính mìn do chính quân Pol Pot gài lại!”. Dù trước mặt là kẻ thù nhưng lòng nhân ái đã thôi thúc ông để lại một ít gạo sấy, mì tôm và nước uống cho lính nữ này rồi lẳng lặng lui xuống.
Bác sĩ Xáng cho hay, tuy không cùng sư đoàn nhưng tinh thần nhiệt thành vì đồng đội của ông Chung đã gắn kết họ với nhau. Trong hành trình vô cùng ý nghĩa lần này, cả đoàn đã đến thăm Đài hữu nghị Việt Nam-Campuchia tại Stung Treng; viếng nghĩa trang cũ Sraem, nơi từng chôn cất nhiều liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam.
Họ cũng thăm đền Preah Vihear, thắp hương tưởng nhớ đồng đội Mặt trận 579 và Đại tá Trương Hồng Anh-Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, vị tướng tài đã hy sinh tại chân núi Dangrek ở tuổi 36.
Ngoài ra, đoàn còn thăm Hội Khmer-Việt Nam và tặng 10 suất quà (1 triệu đồng/suất) cho bà con Việt kiều có hoàn cảnh khó khăn. Đáng nói, suốt hành trình của đoàn có sự đồng hành của Trung tướng Try Som Rith-Phó Tham mưu trưởng Quân khu I (Quân đội Hoàng gia Campuchia).
Vua Suryavacman II đã ghi tên tuổi của mình vào thời kỳ cực thịnh nhất của nền nghệ thuật Khmer! Trong đó đền Preah Vihear và Angkor Wat đã được LHQ công nhận là Di sản thế giới! Ngôi đền tọa lạc trên đỉnh một vách đá cao 525 mét của núi Dangrek thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia, và một phần biên giới tỉnh Si Sa Ket ở đông bắc Thái Lan.
Đền Preah Vihear được xây dựng thờ thần Shiva và các thần núi Sikharesvara, Bhadresvara. Những tài liệu, bản khắc, di vật tìm thấy trong đền đã tái hiện chi tiết hình ảnh dưới thời Suryavarman II trong việc thực hiện nghi lễ, tổ chức lễ hội tôn giáo, tặng quà cho cố vấn tinh thần của đức Vua (như voi, bát vàng...).
Kiến trúc phức hợp của ngôi đền chạy theo trục bắc nam dài 800m, bao gồm một bờ đường đắp cao và những bậc tam cấp dẫn lên điện thờ nằm trên đỉnh khu vực đền thờ phía nam. Kiến trúc đền tương tự kiến trúc của đền khu vực Angkor Wat với điêu khắc trên đá sa thạch cực kỳ tinh xảo. Phần khu vực xung quanh đền với nhiều thư viện và các tháp cao nhưng hiện nay phần lớn các kiến trúc phụ xung quanh đền đều bị đổ nát nghiêm trọng.
Có lẽ Vua Suryavacman II không ngờ công trình của mình sau cửu bách dư niên hậu lại gây bao phiền toái cho hậu thế như vậy? Đền Preah Vihear đã được UNESCO xếp hạng là di sản văn hóa thế giới, cũng là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Campuchia và Thái Lan. Năm 1904, Vương quốc Xiêm (tên gọi chính thức của Thái Lan trước năm 1949) và thực dân Pháp thành lập một ủy ban chung thực hiện công việc phân định ranh giới. Năm 1907, sau khi điều tra nghiên cứu, người Pháp đã đưa ra bản đồ, trong đó thể hiện vị trí chính xác khu vực đền Preah Vihear và vùng lân cận. Căn cứ theo tấm bản đồ này, Preah Vihear nằm bên Campuchia.
Năm 1954, Thái Lan chiếm giữ ngôi đền sau khi quân đội Pháp rút khỏi Campuchia, Campuchia phản đối và yêu cầu Tòa án Thế giới phân xử. Tòa án xem xét vụ việc không chỉ dựa trên những di sản văn hóa, mà còn cân nhắc những biện pháp chuyên môn kỹ thuật phân định ranh giới. Ngày 15/6/1962, tòa ra phán quyết phần thắng thuộc về Campuchia và yêu cầu Thái Lan trả lại mọi di vật (kể cả những bức tượng thờ) đã đưa ra khỏi ngôi đền.

Preah Vihear là một ngôi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc núi Dângrêk ở Campuchia, gần biên giới với Thái Lan. Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak thuộc tỉnh Sisaket của Thái Lan, một nửa đền thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia.

Ngày 7-9-1982, từ vùng quê ở xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Khánh (nay là 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa), ông Chung lên đường nhập ngũ ở tuổi 18 để bảo vệ Tổ quốc và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. “Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa” là cách ông dẫn lời trong ca khúc “Mùa xuân” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn để kể về những năm tháng mình đã trải qua.
Sau 3 tháng huấn luyện, ông được biên chế về Sư đoàn 307 (Quân khu 5) đóng quân ở Preah Vihear. Nơi đây có dãy núi Dangrek dài hàng trăm cây số án ngữ, trở thành bức trường thành biên giới giữa 2 nước Campuchia-Thái Lan và được quân Khmer Đỏ chọn đặt bộ chỉ huy đầu não. Vì thế, tại khu vực này, Sư đoàn 307 liên tục đụng độ với Pol Pot.
Càng thử thách khi người lính quân tình nguyện Việt Nam phải chiến đấu giữa cái nóng nung người có khi lên đến 45 độ C, dưới chân toàn đá, trên đầu nắng đổ lửa, “máu đặc lại đến giới hạn cuối cùng, cơ thể khô kiệt vì thiếu nước”. Bủa vây họ còn là các loại mìn mà địch cài dày đặc, như những kẻ thù giấu mặt.

Vừa đặt chân đến vùng đất Đông Bắc Campuchia, ông Chung lập tức cảm nhận rõ sự khốc liệt của cuộc chiến. “Hòn đá tảng chiến tranh đè nặng lên vai người lính”-ông mô tả. Đến giờ, trở đi trở lại trong tâm trí ông Chung vẫn là sự hy sinh của đồng đội, là tình đồng chí trong những lúc gian nguy.
Cựu Đại đội trưởng Đại đội 9, 10, 11 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 95, Sư đoàn 307) nhớ lại: Trước khi hành quân chuẩn bị cho trận đánh chiếm cao điểm 677 (núi Cụt) vào tháng 12-1984, ông ngạc nhiên thấy ông Ngô Hồng Khoan, một đồng hương nhập ngũ cùng đợt tranh thủ nhét vào túi áo những tấm hình của người thân. Hỏi lý do, ông Khoan đáp, sợ trận này mất hết hình ảnh vợ con.
“Lúc đó, tôi đã có linh cảm không lành. Khi trận địa tạm im tiếng súng, tôi phát hiện anh Khoan đã hy sinh”-ông Chung hồi tưởng. Hình ảnh cuối cùng của đồng đội găm vào lòng ông Chung nỗi đau mất còn: máu loang đỏ những tấm hình vợ con nơi ngực áo, phải vuốt mắt mấy lần đồng đội mới khép mắt lại.
Chiến tranh không tránh khỏi mất mát, đau thương. Cũng ở đó, tình đồng đội, đồng chí hiển hiện rỡ ràng hơn bao giờ hết. Ông Chung xúc động chia sẻ câu chuyện của một chiến sĩ tên Đông (Trung đoàn 95). Tháng 3-1985, trong lúc hành quân, anh Đông không may bị thương do giẫm mìn, còn đồng đội đi bên cạnh hy sinh. Do chiến trận gấp gáp, chưa thể đưa thương binh và tử sĩ về tuyến sau nên đành để 2 anh ở lại bên đường với súng đạn, gạo sấy, nước uống chờ tiếp cứu, còn đơn vị tiếp tục lên đường.
14 ngày sau, kết thúc chiến dịch, đơn vị vỡ òa vì anh Đông vẫn sống. Đáng nói, trong suốt quãng thời gian đó, tuy ban ngày khỉ rừng phá phách, ban đêm thú dữ rình rập nhưng anh Đông vẫn nén đau bảo vệ đồng đội. Khi được đơn vị tìm thấy, chân anh đã hoại tử, thân hình chỉ còn da bọc xương!
Ký ức người lính Preah Vihear còn gắn liền với nhiều trận đánh như trận núi Cụt, núi Hồng. Đặc biệt, đơn vị ông Chung đã tham gia nhiều trận đánh ác liệt tại cụm cứ điểm 547, nơi có đến 2 sư đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn hỏa lực cơ động của Pol Pot đóng giữ. Đến lần thứ 4, quân ta xóa sổ sào huyệt của Pol Pot.
Trong khi đó, tại cao điểm 606, những người lính Sư đoàn 307 cũng đổ bao xương máu canh giữ, bảo vệ ngôi đền cổ Preah Vihear khỏi sự tàn phá của chế độ Pol Pot-Iêng Sary, để sau đó, ngôi đền ngàn năm tuổi được UNESCO xếp hạng là Di sản văn hóa thế giới.
Những câu chuyện nối tiếp nhau khiến tôi càng hiểu thêm vì sao quân tình nguyện Việt Nam được người dân nước bạn gọi là “Đội quân nhà Phật”. Ông Chung kể: “Tôi nhớ mãi buổi sáng đánh trận Ngã Ba Biên (Thái Lan-Campuchia-Lào). Tầm 9 giờ sáng, tôi dẫn Trung đội 3 tiến lên cao điểm 531. Tôi đi trước, vừa lên gần tới đỉnh thì một tiếng nổ vang lên, khói mù mịt bao trùm. Tôi thụp xuống nép vào gốc cây, nghe phía sau đồng đội kêu lên: “Chung bị mìn rồi, lên tìm khiêng xuống!”.
Tôi tiếp tục vượt lên thì thấy một lính Pol Pot nữ còn trẻ đang ôm chân đau đớn. Thì ra, lúc phát hiện ra tôi, cô này bỏ chạy và bị dính mìn do chính quân Pol Pot gài lại!”. Dù trước mặt là kẻ thù nhưng lòng nhân ái đã thôi thúc ông để lại một ít gạo sấy, mì tôm và nước uống cho lính nữ này rồi lẳng lặng lui xuống.
Sống thay cho đồng đội nằm xuống
Đầu tháng 12-2024, ông Chung có một chuyến đi đáng nhớ khi lần thứ 2 cùng đồng đội trở về chiến trường xưa nhân kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Trưởng đoàn là Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Văn Xáng-Cựu quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, nguyên Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa.Bác sĩ Xáng cho hay, tuy không cùng sư đoàn nhưng tinh thần nhiệt thành vì đồng đội của ông Chung đã gắn kết họ với nhau. Trong hành trình vô cùng ý nghĩa lần này, cả đoàn đã đến thăm Đài hữu nghị Việt Nam-Campuchia tại Stung Treng; viếng nghĩa trang cũ Sraem, nơi từng chôn cất nhiều liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam.
Họ cũng thăm đền Preah Vihear, thắp hương tưởng nhớ đồng đội Mặt trận 579 và Đại tá Trương Hồng Anh-Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, vị tướng tài đã hy sinh tại chân núi Dangrek ở tuổi 36.
Ngoài ra, đoàn còn thăm Hội Khmer-Việt Nam và tặng 10 suất quà (1 triệu đồng/suất) cho bà con Việt kiều có hoàn cảnh khó khăn. Đáng nói, suốt hành trình của đoàn có sự đồng hành của Trung tướng Try Som Rith-Phó Tham mưu trưởng Quân khu I (Quân đội Hoàng gia Campuchia).
Sửa lần cuối: