Năm 1960 đi luyện thép, kỹ sư Trung Quốc qua dạy cho luyện kim, nhìn rất hiện đại! Việt Nam Cộng Hoà có nằm mơ cũng không được như này Mỹ đéo cho! Bắc Hàn năm đó còn chưa được vậy!
Năm 2024 thế này đây! Đi cán thép nhìn rất chi là tục tĩu! Đụ mẹ 65 năm sau mà thế này đó hả?
Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên bắt đầu được xây dựng vào năm 1959 dưới sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Trung Quốc, trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung lúc đó đang rất chặt chẽ, Việt Nam có nhà máy luyện kim trước cả Bắc Hàn!
Đây là dự án chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp nặng của Việt Nam, tận dụng nguồn tài nguyên quặng sắt và than phong phú tại khu vực Thái Nguyên. Nhà máy được thiết kế với dây chuyền sản xuất khép kín, từ khai thác quặng, luyện cốc, luyện gang, đến cán thép. Lò cao đầu tiên của nhà máy đã cho ra mẻ gang đầu tiên vào ngày 29 tháng 11 năm 1963, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong công nghiệp hóa miền Bắc Việt Nam. Đây là một trong những dự án công nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20, được xây dựng với sự hỗ trợ từ hai nước xã hội chủ nghĩa này.
Thời điểm khởi công và hoàn thành ban đầu: Ngày 24/10/1959, công trình được khởi công với sự hỗ trợ toàn diện từ Trung Quốc, bao gồm thiết bị, công nghệ, chuyên gia và vốn đầu tư. Ngày 29/11/1963, mẻ gang đầu tiên ra lò từ Lò cao số 1, đánh dấu bước khởi đầu của ngành luyện kim Việt Nam. Năng lực sản xuất khi Trung Quốc tài trợ: Khu liên hợp được thiết kế với dây chuyền sản xuất khép kín từ khai thác quặng sắt, luyện gang, luyện thép đến cán thép, công suất ban đầu khoảng 100.000 tấn thép cán mỗi năm. Lò cao số 1 có công suất luyện gang khoảng 50.000-60.000 tấn mỗi năm, cung cấp nguyên liệu chính cho khâu luyện thép. Mỏ quặng sắt Trại Cau, được khánh thành năm 1963, cung cấp 250.000-300.000 tấn quặng sạch mỗi năm để phục vụ sản xuất gang. Các phân xưởng hỗ trợ bao gồm xưởng thiêu kết với công suất khoảng 120.000 tấn mỗi năm và lò cốc với công suất khoảng 130.000 tấn than cốc mỗi năm, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho lò cao.
Trung Quốc cung cấp toàn bộ thiết bị, công nghệ luyện kim hiện đại cơ bản (lò cao, lò luyện thép), cùng hàng nghìn chuyên gia để hướng dẫn vận hành. Tổng giá trị viện trợ ước tính hàng chục triệu USD, nhưng không có số liệu chính xác công khai
Sau khi quan hệ Việt-Trung xấu đi vào cuối thập niên 1960, Liên Xô trở thành đối tác chính hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, bao gồm công nghiệp nặng. Tại TISCO, Liên Xô không xây dựng từ đầu mà tham gia cải tạo, nâng cấp và mở rộng năng lực sản xuất.
Thời điểm và phạm vi hỗ trợ: Từ giữa thập niên 1960, đặc biệt sau năm 1975 (khi chiến tranh kết thúc), Liên Xô cung cấp chuyên gia, thiết bị và vốn để hiện đại hóa. Năng lực sản xuất khi Liên Xô tài trợ: Lò cao số 2 (khánh thành 1965, cải tiến sau đó) có công suất khoảng 80.000-100.000 tấn gang mỗi năm. Lò cao số 3 (hoàn thiện 1965-1970) nâng tổng sản lượng gang lên khoảng 140.000-150.000 tấn mỗi năm vào cuối thập niên 1970. Nhà máy luyện thép Lưu Xá, với sự hỗ trợ của Liên Xô, đạt công suất sản xuất phôi thép khoảng 200.000-240.000 tấn mỗi năm vào thập niên 1980. Về thép cán, năm 1978, phân xưởng cán thép hình đầu tiên hoàn thành, nâng công suất thép cán lên khoảng 200.000-250.000 tấn mỗi năm.
Liên Xô cung cấp thiết bị hiện đại hơn (lò điện nhắc lại LÒ LUYỆN KIM BẰNG ĐIỆN, máy cán), đào tạo hàng nghìn kỹ sư Việt Nam, và viện trợ khoảng 272 triệu rúp (1955-1971) cho nhiều dự án công nghiệp tại Việt Nam, trong đó TISCO là một phần quan trọng.
Đến cuối thập niên 1980, tổng công suất thiết kế đạt khoảng 300.000 tấn thép cán mỗi năm cơ hội hoá rồng ngay trước mặt.
---
Nhưng nhờ đức tính ăn hại của Việt Cộng,
Và nay:
Dự án mở rộng giai đoạn 2 Nhà máy Gang thép Thái Nguyên hàng nghìn tỷ đồng bỏ hoang, thiết bị hoen gỉ gần 20 năm và vẫn gánh lãi vay hàng năm