Tao cũng đang nghiên cứu về quantum computing. Phải quay lai học lý thuyết vật lý lượng tử cả tháng trời mới thấm.
Giờ vẫn còn mù mờ, không hiểu nổi cái superposition. A qubit can hold an undefined value that is neither 0 nor 1 until the qubit is measured.
Cái entanglement thì hiểu sơ sơ rồi.
Cái này khó thật, không dễ ăn. Nhưng tao nghĩ ai theo được từ bây giờ thì tầm 10 năm sau sẽ ngon.
Đối với tao lại ngược lại, cái superposition tao có thể hình dung và chấp nhận được, nhưng entanglement là cái gì đó rất khó nuốt. Mấy nay tao đang ngẫm tiếp và vì thế chưa có thêm nhiều cái để trao đổi.
+ Đầu tiên là khác với suy nghĩ tao đã chia sẻ, các cổng đo lường cho qubit dường như được môt tả bằng một toán tử là tích ngoài (out product) ket-bra (|0><0| và |1><1|). Điều này có nghĩa là một phép đo lường lên qubit sẽ chỉ trả một mức năng lượng của trạng thái suy sập hay cổng đo này không khác gì với cổng đo nhị phân (một kiểu với 2 mức). Mặc dù các phép toán logic trước khi đo vẫn là các phép toán ma trận. ???- tao sẽ tìm hiểu thêm để có phần bài viết cụ thể.
+ Thứ hai là vướng víu lượng tử (rối lượng tử, quantum entanglement).
Tao sẽ bàn luận cái này trong phạm vi hiểu biết của tao thôi, vì sâu hơn có những thứ tao chưa từng đọc qua và không có hiểu biết thì không nên bốc phét.
Rối lượng tử thường được mô tả khá cao siêu, mà thông thường nhất là một cái gì đó bí ẩn liên kết giữa hai hạt ở phạm vi lượng tử, mà khi xác định trạng thái của hạt này, hạt còn lại lập tức cũng tự nó xác định trạng thái đối xứng phù hợp bất chấp sự cách ly giữa chúng. (thằng này mầu xanh thì nhất định thằng kia mầu đỏ, dù trước khi đo chúng chồng chập)
Quan điểm của tao đơn giản hơn nhiều. Vụ rối lượng tử về mặt lịch sử bắt đầu từ sự phát hiện tính chất spin của điện tử, để mô tả đặc trưng từ riêng (hay momen từ riêng) thể hiện qua vạch tách tinh vi của quang phổ nguyên tử trong từ trường (Hiệu ứng Zeeman). Ban đầu người ta cho rằng, ngoài những gì thể hiện bên ngoài, trong nội tại các hạt điện tử còn tự quay (làm đéo gì có chuyện đó) và vì thế có một dòng điện xoắn và tạo ra từ trường riêng của hạt. Do chiều quay trái phải khác nhau mà định hướng từ có thể lên (up) hay xuống (down). Sau này thì quên vụ tự quay đi, chỉ cần biết là có định hướng từ thôi, giá trị tách mức trong từ trường của điện tử tỷ lệvới 1/2*h_bar nên thằng up ký hiệu là +1/2; thằng down -1/2.
Từ đây xuất hiện quy tắc quan trọng của lượng tử là quy tắc Pauli, trong đó điện tử đi theo cặp khi ở cùng mức năng lượng, với mỗi cặp phải có spin đối song. Ngoài ra còn có quy tắc Hund, nếu không đi theo cặp thì các spin lẻ ở các mức năng lượng phải có spin song song. Nếu hiểu thô thiển, thì mỗi điện tử là một nam châm, hai nam châm gần nhau thì phải ngược dấu để khép kín đường sức từ trường, còn ở xa nhau thì cần cùng định hướng theo từ trường ngoài. (À, Pauli là quy tắc bắt buộc, Hund theo tao không bắt buộc, sự tương tác cấu hình khác nhau với Hund tạo ra tương tác tương quan, được nghiên cứu trong phương pháp Tương tác cấu hình-CI)
Vấn đề là về mặt toán học, khi tác động toán tử phép đo xác định giá trị spin lên một điện tử này thì đương nhiên biết kết quả phép đo xác định spin của điện tử liên kết với nó. Dù trước đó chúng ở trạng thái chồng chập. Và một khi không có gì phản bác được những phép toán trong không gian toán học, thì nó cũng hoàn toàn có thể xảy ra trong không gian thực tế cho dù khoảng cách là bao xa, sự cách ly là chặt chẽ đến thế nào???. Đây là những thứ ban đầu về cái gọi là vướng víu hay rối lượng tử.
Mở rộng về vấn đề này, không chỉ điện tử có spin. Các hạt nhân cũng có spin, các nguyên tử hay ion cũng thế. Và spin của các hạt cơ bản khác cũng được xác định hoặc tiên đoán. Tức là những "vướng víu" trong không gian toán học có thể mở rộng cho tất cả các đối tượng lượng tử. Trong đó những hạt mang tích chất từ riêng có spin bán nguyên gọi là các fermion, các hạt không mang từ có spin nguyên gọi là các boson. Nhưng ngay cả các boson cũng có những "vướng víu" của nó.
Ở các hệ lượng tử phức tạp, nhiều hạt trong phạm vi lượng tử góp phần tạo ra hệ. Chúng cần được mô tả chung bằng một hàm sóng (hàm sóng tổng). Với các boson, chúng không bị quản bởi quy tắc Pauli, vì thế hàm sóng tổng là một tích cách hàm sóng thành phần của từng hạt (để đảm bảo cộng tổng xung lượng và năng lượng cho toàn hệ); tích này gọi la tích Hatree và vì nó rất đơn thuần, nên thích nhân thằng nào trước sau gì, đảo qua đảo lại đều đc người ta gọi nó là tích đối xứng.
Với các fermion thì khác, chúng phải đảm bảo quy tắc Pauli, thành thử vẫn là tích các hàm sóng thành phần như phải cân đối thành một định thức, gọi là định thức Slater. Để lỡ hai thằng ngồi lên đầu nhau lập tức định thức này có hai hàng hoặc cột bằng nhau và bằng không ngay tắp lự, tức là không tồn tại trạng thái vi phạm quy tắc Pauli. Dở người là định thức Slater sẽ bị đảo dấu khi đảo hai hàng hoặc hai cột, người ta gọi hàm tổng của fermion là phản xứng.
Tự nhiên tính đối xứng cũng trở thành những "vướng víu" đối với boson và fermion.
*Note: Các boson vì không chịu quy tắc Pauli nên có thể cùng nằm ở cùng trạng thái năng lượng thấp nhất hình thành Ngưng tụ Bose-Einstein; trong khi các Fermion thì tạo thành một miền tối thiểu chiến giữ mà mặt trên cùng gọi là mặt Fermi theo phân bố Fermi-Dirac. Tuy nhiên có những trường hợp Fermion ở nhiệt độ đủ thấp kết cặp với nhau để ứng xử như một boson (cặp cooper) gây ra những hiện tượng như siêu dẫn nhiệt độ thấp, siêu lỏng Helium...
Trong tính toán lượng tử, nếu hai qubit có biểu hiện từ bị đẩy vào một trạng thái năng lượng, nó sẽ có tương tác lên nhau theo cái "vướng víu" kia. Và vì vậy 2-qubit cũng sẽ có hành xử riêng chứ không giống sự kết hợp độc lập của từng qubit.