Chiến tranh không phải trò đùa

Nhìn mấy tay cụt chân này tui nhớ mấy cha xóm tui đi Cam năm 79 về quá , đmn , lúc đi khỏe mạnh bình thường lúc về còn được mấy mống mà toàn cụt chân chống nạng về mới vãi lol :vozvn (8):
Hàng xóm tôi, cựu lính bộ binh chiến trường K.
Ông kể về trận đánh, phục nhau khi đối phương đi lấy nước quanh ao nước nhỏ. Hai bên cách nhau ngoài tầm ném lựu. Sau khi đẩy lùi đc địch thì phát hiện đủ các loại xương dưới ao mà vẫn phải lấy nước dùng. Ông nghĩ vì trận này, chắc do thiếu nước quá lâu mà về sau ông bị suy thận.
Còn về chiến trận thì ổng nói đùa tất cả hệt như trò chơi đánh trận giả ngày nhỏ,.. chỉ có chết người là thật.
 
Chuyen Hai Nguoi Linh..webp
Ở đây anh em ta số đông chắc chẳng ai kinh qua các cuộc chiến tranh, chắc cũng không mấy ai mất đi một phần cơ thể do bom đạn trong chiến trận.

Âu đó cũng là điều may mắn. Và cố gắng duy trì để hết cái cuộc đời này chúng ta không phải chỉa súng vào nhau.

Còn thanh niên nào máu chiến thì có thể chui qua trung đông theo tiếng gọi của thánh Allah.
 
Ông già tao thuộc lớp cán bộ cũ, chú tao là đại tá đi khắp chiến trường B,K. Trên đùi, trên tay đầy những vết thương kỷ niệm. Tao lớn lên và nghe rất nhiều nhưng chưa bao giờ, chưa 1 lần nào tao được dạy về lòng hận thù từ cha chú dành cho phía bên kia.
 
có chiến tranh thì thanh niên trai tráng bị bắt phải đi tòng quân may mắn thì què cụt , k may thì chết mất xác. Hy sinh cho 1 khái niệm tự viễn "yêu nước" mà các giai cấp thống trị nghĩ ra để dễ dàng điều khiển mấy thằng dân đen chết thay để bảo vệ quyền lợi của mình :embarrassed:

p.s tao ko nói riêng bất kì quốc gia, thể chế nào, t nói đến toàn bộ cả cái xã hội loài người này luôn nhé :)
Đúng đo m. Yêu nước là cái để khơi dậy tinh thần và để người lãnh đạo dẫn dắt dân đen thôi. Nhưng m nói tự viễn thì hơi quá. Vì cái đấy nên là ai cũng phải có. Có chăng là phê phán nếu nó bị lợi dụng. Yên ổn mà làm ăn vẫn là tốt nhất.
 
Không phải ngẫu nhiên người ta nói chiến tranh là nền móng của chi thức, từ thời nguyên thủy con người đã giết chóc nhau hòng chiếm tài nguyên, chiếm địa lợi, và chính lòng tham và ham muốn đẩy con người ta tìm tòi những cái mới, những cách thức tối tân để tiêu diệt kẻ thù, nếu không sẽ có một khoảng thời gian chững lại (giống như thế giới ở thời điểm hiện tại), nhưng không có nghĩa là nó sẽ bình yên tiếp tục, mà chỉ là chờ đợt sóng ngầm đủ lớn để càn quét nhân loại dưới ách thống trị của một nền văn minh mới, vấn đề chỉ là thời gian, không có quốc gia nào mãi cường đại, ngay như Mông Cổ xâm lấn toàn thế giới rồi cũng có lúc suy tàn, Trung Quốc đã và đang vét cạn tài nguyên hòng chiếm lợi ích tối đa cho mình nên việc Mỹ kiềm chế là điều đương nhiên, hoặc nói thẳng ra việc Trung Quốc mạnh mẽ chạm vào lòng tự ái của siêu cường thế giới đang ngày một suy yếu. Mấy thằng trẻ trâu đừng có bảo là ng ta hô hào đánh tàu khựa hay gì mà đi nghĩa vụ thì sợ tụt quần, xin thưa mày đang nói tâm can của mày ra chứ thiên hạ thì chưa chắc nhé, chỉ có mấy bọn quan chức mới sợ chết, chứ dân nghèo thì còn cái mẹ gì để mà sợ, đừng lôi quá khứ ra để lòe thiên hạ, chiến tranh khốc liệt hơn lời kể của mày nhiều, đừng có văn, nhưng không có nghĩa là bọn tao sợ phải cầm súng, nếu có thể thằng đầu tiên tao muốn bắn là mày đấy, bọn rảnh háng.
M ơi, bọn t cũng biết là m k sợ. Nhưng thớt thằng kia nó đâu có sai. Đã là con người thì ai chả muốn sống, sợ chết. T đi trên đường lắm lúc còn nghĩ bâng quơ nhỡ có con xe điên nào nó lao rầm vào mình thì sao? Bản năng mà m. Đấy là t chưa kể đến những thành phần như bọn ma cô ăn bám phò, bọn bay lắc đập đá, bọn gay lọ yếu ớt, bọn fan cuồng ụp pa, những thành phần đấy thì m nghĩ sao? M k sợ chết nhưng k phải ai cũng như m. T nhắc lại thế. Tốt nhất là mong sao VN mình đu dây đủ khéo, và khu vực vẫn cứ bình ổn đi. Có rất nhiều cách để phát triển chứ k phải là cứ phải chiến tranh thì mới tiến bộ nhé m. Đó chỉ là bước đường cùng của xug đột thôi.
 
Khi chiến thắng rồi người ta tìm cách để che giấu sự xấu xa của mình để người sau tưởng họ là rộng lượng,vị tha,xin hỏi nếu không có những lời tuyên truyền bạo lực,khát máu, không dạy cho binh sĩ phải có lòng hờn căm cao ngút trời,ý chí căm thù giặc sâu sắc,quyết chiến quyết thắng bằng mọi giá thì lấy đâu ra biển người sẵn sàng lao vào mưa bom bão đạn,đại bác nổ đùng đùng,pháo cao xạ dập tan xác không tiếc đời mình để đem vinh quang về cho tổ chức,cho lãnh đạo
Chắc tao là người may mắn.
 
Sửa lần cuối:
dm thằng nào động vào đồng bào dân tộc tao , tao khô máu với chúng nó , tao luôn tự hứa với bản thân nếu VN mà chiến tranh tao quyên hết tiền cho tổ quốc mua súng 10 triệu eu của tao cũng đủa mua vài quả tên lửa sợ Lồn gì thằng nào
 
Tao góp 2 mẩu truyện vào đây không hề có ý nhận xét gì về hiện thực. Chỉ có 1 điều tao chắc chắn: chiến tranh nào cũng buồn, và nhân dân luôn là người gánh chịu, dù ở bên nào cũng vậy thôi.
Mày nói đúng đấy.
 
"bom rơi.. cây ổi của ông ngoại để dành lấy trái đem ra chợ đổi gạo cho cả nhạ, rồi đổ sập đè lên mảng tường gạch mỏng.. phía sau là 2 cậu đang ôm nhau khóc nức nở, máu tanh.. bụi mù mịt.. máu từ lỗ tai cậu từ mũi cậu chảy ra thành dòng nhỏ.. ông ngoại khóc, bà ngoại ngất.. nhưng không kịp nấc đã phải ôm mẹ chạy..."
Mẹ kể.
 
Tao thấy thớt này rất hay. Chúng ta không ngồi để than van, phân chia giới tuyến, phán xét, rủa xả nhau về những chuyện của ngày hôm qua. Đơn giản là chia sẻ những câu chuyện, cảm nhận những gì đã qua đi, và không ai chắc nó không bao giờ trở lại: Chiến tranh.
 
Sửa lần cuối:
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

"Kiên ơi! Thương anh đừng bắt lê lết mãi! Cho anh được chết đi… một phát thôi mà… là xong....

Cho đến mãn đời Kiên còn nhớ tới Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của mình. Bấy giờ là mùa khô năm 66, chiến dịch Đông Sa Thầy, và Kiên còn là lính mới, lần đầu dự trận. Suốt ba ngày đêm ác liệt quần nhau với bọn Ngựa bay, Kiên theo sát Quảng, được Quảng lẫn dắt, kèm cặp và thực chất là che chắn cho. Đứng, nằm, lăn, bắn, vọt tiến, chạy, nhất nhất Kiên theo Quảng. Nhưng rồi Quảng bị đốn ngã trên đường vận động chiến, khi toàn đại đội đang băng qua vùng rừng le dưới đồi 300 để áp sát bọn Mỹ đang từ trực thăng đổ xuống. Một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên, quăng bổng theo đường vòng cung rồi giáng quật xuống. Kiên quỳ cạnh anh, luống cuống không biết băng thế nào. Bụng rách trào ruột. Nhưng điều đáng sợ là xương xẩu dường như gãy hết, mạng sườn lõm vào, tay lủng liểng, và hai đùi tím ngắt. Thế mà Quảng chỉ lịm đi một lúc. Có lẽ vì quá đau đớn nên tỉnh lại ngay. Vốn là một dân chài quê Móng Cái, Quảng cực khỏe, to cao, thô thiển và tốt bụng, tính tình liều lĩnh, trầm lặng, giờ đây anh rống lên:

- Đừng chạm vào tao… đừng băng nữa… Ô… ô… đừng… a…

Kiên vẫn loay hoay tìm cách bó nẹp hai đùi của Quảng.

- Thôi ôi thôi… Giời ơi…? Quảng nấc, mép ứa máu. Lịm đi một lát, Quảng cựa cựa đầu và lại mở mắt.

- Kiên… Kiên…

- Kiên! Bắn anh đi em… - Quảng khóc khe khẽ và gầm lên hung tợn - Bắn!

- Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau! Trời ơi! Trời ơi bắn đi mà em, bắn! Bắn! Mẹ mày chứ, bắn đi, giời!

Trận đánh rung chuyển rừng cây. Kình! Kình! Kình! Cối nã dồn dập. Tiếng reo hò dội tới qua màn khói. Kiên run cầm cập nhưng vẫn cố băng bó cho Quảng. Vừa gắng gượng nhẹ tới quá mức có thể, Kiên vừa âm thầm hy vọng có thể là tiểu đội trưởng sẽ ngất đi mà nhãng khỏi cái đau rùng rợn đang dày xéo cả lên chính cả bản thân Kiên. Nhưng cái chết như muốn nhất định bắt Quảng phải tỉnh để chịu đến cùng sự hành hạ của nó.

Lát sau lại một trận pháo nữa dập tới cấp tập trong vài phút, xé toang vạt rừng thưa và lấp đầy đất lên hai người. Mãi sau Kiên mới moi được Quảng lên: Vẫn sống, vẫn tỉnh, mồm ứa máu nhưng còn thở, sủi bong bóng đỏ, mắt mở trừng như muốn mà không nhắm lại được. Và môi vẫn mấp máy gượng nói. Kiên cúi sát xuống, nghe:

- Thương anh đừng bắt lê lết mãi… Anh khổ quá rồi, xương gãy hết cả, ruột nữa… đứt hết… - Cái giọng lào thào lí nhí như thể tiếng của loài kiến mà đầy vẻ tâm tình của Quảng làm Kiên rùng rợn, ớn lạnh - Cho anh được chết đi… một phát thôi mà… là xong… nào.

Kiên giật mình. Bất ngờ, cực lẹ thu hết tàn lực, Quảng đưa cánh tay chưa gãy lên rút thoắt quả u-ét Kiên cài bên hông.

- Nào…! - Quảng cao giọng hầu như đắc thắng, hoan hỉ và cả cười lên nữa, ha ha, khàn khàn dễ sợ - Ha hà… nào, lùi mau! Kiên, lùi xa ra, nào! Hà hà… ha ha ha ha…

Kiên nhỏm dậy lùi, lùi, lùi, mắt dán vào cái mỏ vịt và vụt quay lưng, lao đầu chạy, chạy lướt qua cái lùm le gãy nát ngút khói. Ha ha ha… Tiếng cười cuồng loạn nức nở rượt sát sau lưng… ha ha ha ha…

Tôi nghĩ, có lẽ là loài quỷ rừng hay cười mà người Triêng gọi là ma ỏm. Hay là quỷ cùi? Nhưng không phải người cười là cái chắc. Rũ rượi. Sằng sặc. Vọng ra dưới đồi 300.

Chín năm sau, một người trong tổ hài cốt, khi nghe thấy tiếng cười điên rồ vọng lên từ phía đồi 300 bên bờ sông Sa Thầy, vào buổi chiều tối đã ngỡ rằng mình nghe thấy yêu quái. Anh ta hồi hộp kể. Mọi người xúm quanh, sa sầm.

- Chỉ cất lên trong chốc lát, nhưng tiếng cười làm tôi lạnh hết người. Nhưng mà tôi cứ thử liều lần về hướng phát ra tiếng cười. Chợt gặp một cái tràng hẹp khoanh một khoang giữa rừng. Mẹ kiếp, và tôi thấy gì… một túp lều. Thoảng gió qua tôi ngửi thấy mùi khét và mùi sắn nướng. Nghĩa là người. Nhưng… Các cậu hiểu không, trước cửa lều trong ánh nhá nhem tôi thấy một hình thù lồm xồm lông lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, cởi trần, trần truồng đang ngồi trên một thân cây đổ nhìn thẳng về chỗ bụi cây tôi đang núp. Và tôi thấy, một quả lựu đạn các bạn ạ, ở trong tay hắn. Tôi bò lui. Hình như có làm động cành cây nên con ma để ý hơn, nó đứng lên, chăm chú nhìn, và đi tới. Tôi bật lên vùng chạy. Lập tức tiếng cười kinh dị khi nãy lại cất lên đuổi theo tôi.

- Hay là “xà niên”? - Một người phỏng đoán.

- Nhưng xà niên sao lại có vũ khí, với lại họ đâu có ở lều cũng không phải tàn tích của một bản làng nào vì chẳng hề có vết tích nương rẫy nào ngoài cái rẫy tự giác của lính ta. Mà nhất là người không ai cười như thế.

- Hay là thằng Tùng, anh Kiên?

- Tùng nào?

- Tùng điên chứ Tùng nào, ở vệ binh trung đoàn ấy, anh quên à. Nó hóa điên và bỏ vào rừng khi trung đoàn mình về chốt gần ngã ba đường 90 hồi năm 71 ấy. Rất gần khu vực này.

- À, Tùng… nhớ rồi. Cũng chả biết chừng, thằng đó lên cơn toàn cười. Nghe rất ớn. Người ta bảo rằng trong rừng có những mạch suối ma, uống phải nước của những mạch đó có thể mắc đủ thứ bệnh, kể cả bệnh điên. Nhưng Tùng thì điên do bị một viên bom bi lọt vào não, bác sĩ trung đoàn bảo thế.

Kiên nhớ là lần ấy trung đoàn bộ bị oanh tạc. Nhiều người chết và bị thương. Riêng Tùng hoàn toàn lành lặn. Chỉ có điều là Tùng kêu đau đầu lắm. Y tá cho thuốc cảm, chẳng thuyên giảm, càng đau. Rồi một buổi đêm các lán của cả trung đoàn bộ bị lay thức vì tiếng cười của Tùng. Phải rồi, chuyện đó xảy ra ở vùng này đây. Mọi người tổ chức vây lùng để đưa Tùng về cứu chữa. Nhưng người bệnh lẩn tránh rất tài. Thỉnh thoảng từ một lùm cây anh ta bật cười như để chọc dờn mọi người, nhưng mà tiếng cười ảo não và thương tâm vô cùng. Vờn đuổi, truy sục cả tháng trời rồi đơn vị để mất dấu tích của Tùng. Cậu ta mất hút vào rừng thẳm. Người ta bảo rằng, viên bi đã không chịu nằm yên ở một góc não mà trườn chạy, luồn lách đưa cơn điên vào tất cả những ngõ ngách trong đầu óc Tùng…

Tuy nhiên bây giờ nghe kể về tiếng cười ma quỷ ở góc đồi 300, Kiên ít nghĩ đến Tùng. Anh nhớ lại cái chết của Quảng. Cũng ở khoảng rừng này đây 9 năm về trước. Sự đau đớn như thế có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây thành rừng, gây nên những vang âm và những ảo hình không tan đi được về tấm thảm kịch. Nói chung, thời gian này Kiên đã bắt đầu tin tưởng vào những bóng ma, tin vào những ngọn gió âm hồn và những lời lẽ thần bí vọng lên từ đáy rừng âm u. Khi anh và những người trong tổ tiến tới gần túp lều thì bóng ma đã lên tiếng cười để ngăn lại. Tiếng cười dằn dữ như thể lời cảnh cáo.

- Anh là ai? - Kiên hỏi to - Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi.

Im lặng lan xa. Túp lều hoang, bãi trống, vùng cỏ xanh, rừng cây. Tiếng suối từ đồi 300 vọng tới nghe rì rầm như tiếng cầu nguyện.

- Chúng tôi muốn nói để anh hay rằng đã hòa bình rồi - Kiên lại lên tiếng, anh cảm thấy luồng mắt của cô hồn đang xói qua kẽ hở ở vách lều rọi vào mình - Hãy để chúng tôi đưa anh rời bỏ nơi hoang vu này.

Đáp lời Kiên là một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy. Có phải tiếng cười hay không, hay là khóc than, kêu gào, hay chỉ đơn thuần là tiếng hô hú điên loạn mất trí? Rền rĩ, rùng rợn, man rợ… Và, dường như không phải chỉ có một giọng cười. Bên dưới cái giọng khàn khàn là một giọng run run nho nhỏ cười nương theo.

Chờ, không biết là đã chờ bao lâu cho tới lúc tiếng cười kiệt hơi, Kiên bước tới, đi thong thả tới túp lều. Cái lều ọp ẹp rùng mình, Kiên và mọi người không ai kịp thấy rõ một cái gì. Từ trong lều băng ra phía sau, “họ” - nghĩa là không phải chỉ một cái bóng, vút lao đi bay biến và vô hình vào triền cỏ tranh cao lút đầu.

Thảng thốt một tiếng chim kêu lên. Vệt cỏ gianh rẽ giạt trườn lướt đi.

- Kìa! - Một người thốt lên đờ đẫn.

Ở nơi bãi gianh tiếp giáp rừng le, hiện thoáng lên chỉ trong tích tắc một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay. Còn một bóng ma nữa nhưng do rạp cúi xuống chạy nên chỉ lộ cho mọi người vụt thấy một cái sống lưng đen cháy như lưng vượn. Ảo giác và cảnh thực đan xen lẫn vào nhau như hai vòng sóng giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng. Thẫn thờ, rời khỏi khoảng rừng trống, bọn Kiên để lại trước cửa lều một hòm lương khô chứa ít gạo, muối và thuốc men. Nhưng, mấy bữa sau trở lại đó thì buồn thay chỗ quà vẫn nguyên đấy chẳng được ai đụng tới.

- Họ nghi có cạm bẫy - Một người nói - Họ sợ.

- Họ ư? Có nghĩa là người à?

Qua lỗ hổng hẹp dùng làm cửa ra vào, mọi người luồn vào bên trong lều. Chỗ nằm trải những giát lồ ô có phủ bên trên một lượt cỏ Mỹ làm đệm. Ba tảng đá kê lên thành một chiếc bếp ở góc lều. Vương rắc xung quanh bếp, vỏ sắn và lõi ngô. Bầu không khí hăng hắc mùi khói và lờ lợ một thứ mùi người.

- Đây này… - Kiên nói, gần như thành kính nhặt ở đệm lên một cái lược làm bằng nhôm máy bay. Kẽ lược giắt những sợi tóc rất dài và mềm.

- Nghĩa là không phải ma. Không phải xà niên.

- Nhưng là ai? - Một người thì thào - Là ngụy hay là lính mình đào ngũ sống ẩn trong rừng?

Không ai trả lời. Và trong một thời gian khá lâu sau đó cả tổ đã cố công tìm kiếm. Nhưng cặp uyên ương mất trí ấy đã được rừng che chắn trong vòng huyền hoặc. Mặc dù thỉnh thoảng trong gió hình như vẫn nghe văng vẳng họ cười song chẳng thể nào định hướng được để tìm đến. Một lần một người trong tổ nói là đã nom thấy chính người đàn bà nọ ở bờ sông dưới bóng chiều chạng vạng, đang tắm. Khi anh ta tiến gần lại thì người ấy bật lên cười, vẫn chuỗi cười rất rợn ấy và lập tức biến mất, không biết là biến vào các lùm cây ven bờ nước hay là biến vào trong sóng.

- Hình như chị ta còn lại có một mình. Người kia có thể là đã lưu lạc ra xa khỏi vùng này. Nhưng có lẽ chị ta không hoàn toàn cô lẻ. Tôi ngờ là chị ta có mang.

Chắc là do tưởng tượng ra thế thôi. Chắc anh ta cho rằng có thêm một đứa bé, một hài nhi tham gia vào thì câu chuyện tối tăm điên dở mịt mờ không lối thoát này sẽ đỡ thương tâm, sẽ có hương vị hy vọng và sẽ thành ra một chuyện có hậu. Bởi vậy anh ta nói thêm:

- Bệnh điên sẽ không nhiễm sang đứa bé. Và nó sẽ lớn lên. Người ta sẽ tìm ra, hoặc là chính nó sẽ tìm thấy mọi người.

- Thì cũng đành hy vọng thế - Một người khác nói - Phải có một lối thoát chứ. Cảnh ngộ này và những cảnh ngộ tương tự. Chưa nói tới những cảnh ngộ kinh khủng hơn.

Những người chết chẳng hạn. Phải rồi. Cả những người chết. Họ cũng phải được cứu rỗi bằng một cánh nào đó. Phải rồi. Kiên nghĩ. Mình, chính mình, sau từng ấy năm trời đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác loạn, đã ngập chìm trong tủi nhục, oán hờn và lú lẫn. Nhưng là người thì không thể thế mãi. Phải có được một con đường nào đấy để tự giải thoát chứ. Nhưng là con đường nào và đến bao giờ thì mình tìm được con đường ấy?"
View attachment 185083
Tao bị ám ảnh sau khi đọc xong cuốn này, mà thật sự khi đọc đến mấy đoạn tìm hài cốt đau đầu vl
 
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

"Kiên ơi! Thương anh đừng bắt lê lết mãi! Cho anh được chết đi… một phát thôi mà… là xong....

Cho đến mãn đời Kiên còn nhớ tới Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của mình. Bấy giờ là mùa khô năm 66, chiến dịch Đông Sa Thầy, và Kiên còn là lính mới, lần đầu dự trận. Suốt ba ngày đêm ác liệt quần nhau với bọn Ngựa bay, Kiên theo sát Quảng, được Quảng lẫn dắt, kèm cặp và thực chất là che chắn cho. Đứng, nằm, lăn, bắn, vọt tiến, chạy, nhất nhất Kiên theo Quảng. Nhưng rồi Quảng bị đốn ngã trên đường vận động chiến, khi toàn đại đội đang băng qua vùng rừng le dưới đồi 300 để áp sát bọn Mỹ đang từ trực thăng đổ xuống. Một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên, quăng bổng theo đường vòng cung rồi giáng quật xuống. Kiên quỳ cạnh anh, luống cuống không biết băng thế nào. Bụng rách trào ruột. Nhưng điều đáng sợ là xương xẩu dường như gãy hết, mạng sườn lõm vào, tay lủng liểng, và hai đùi tím ngắt. Thế mà Quảng chỉ lịm đi một lúc. Có lẽ vì quá đau đớn nên tỉnh lại ngay. Vốn là một dân chài quê Móng Cái, Quảng cực khỏe, to cao, thô thiển và tốt bụng, tính tình liều lĩnh, trầm lặng, giờ đây anh rống lên:

- Đừng chạm vào tao… đừng băng nữa… Ô… ô… đừng… a…

Kiên vẫn loay hoay tìm cách bó nẹp hai đùi của Quảng.

- Thôi ôi thôi… Giời ơi…? Quảng nấc, mép ứa máu. Lịm đi một lát, Quảng cựa cựa đầu và lại mở mắt.

- Kiên… Kiên…

- Kiên! Bắn anh đi em… - Quảng khóc khe khẽ và gầm lên hung tợn - Bắn!

- Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau! Trời ơi! Trời ơi bắn đi mà em, bắn! Bắn! Mẹ mày chứ, bắn đi, giời!

Trận đánh rung chuyển rừng cây. Kình! Kình! Kình! Cối nã dồn dập. Tiếng reo hò dội tới qua màn khói. Kiên run cầm cập nhưng vẫn cố băng bó cho Quảng. Vừa gắng gượng nhẹ tới quá mức có thể, Kiên vừa âm thầm hy vọng có thể là tiểu đội trưởng sẽ ngất đi mà nhãng khỏi cái đau rùng rợn đang dày xéo cả lên chính cả bản thân Kiên. Nhưng cái chết như muốn nhất định bắt Quảng phải tỉnh để chịu đến cùng sự hành hạ của nó.

Lát sau lại một trận pháo nữa dập tới cấp tập trong vài phút, xé toang vạt rừng thưa và lấp đầy đất lên hai người. Mãi sau Kiên mới moi được Quảng lên: Vẫn sống, vẫn tỉnh, mồm ứa máu nhưng còn thở, sủi bong bóng đỏ, mắt mở trừng như muốn mà không nhắm lại được. Và môi vẫn mấp máy gượng nói. Kiên cúi sát xuống, nghe:

- Thương anh đừng bắt lê lết mãi… Anh khổ quá rồi, xương gãy hết cả, ruột nữa… đứt hết… - Cái giọng lào thào lí nhí như thể tiếng của loài kiến mà đầy vẻ tâm tình của Quảng làm Kiên rùng rợn, ớn lạnh - Cho anh được chết đi… một phát thôi mà… là xong… nào.

Kiên giật mình. Bất ngờ, cực lẹ thu hết tàn lực, Quảng đưa cánh tay chưa gãy lên rút thoắt quả u-ét Kiên cài bên hông.

- Nào…! - Quảng cao giọng hầu như đắc thắng, hoan hỉ và cả cười lên nữa, ha ha, khàn khàn dễ sợ - Ha hà… nào, lùi mau! Kiên, lùi xa ra, nào! Hà hà… ha ha ha ha…

Kiên nhỏm dậy lùi, lùi, lùi, mắt dán vào cái mỏ vịt và vụt quay lưng, lao đầu chạy, chạy lướt qua cái lùm le gãy nát ngút khói. Ha ha ha… Tiếng cười cuồng loạn nức nở rượt sát sau lưng… ha ha ha ha…

Tôi nghĩ, có lẽ là loài quỷ rừng hay cười mà người Triêng gọi là ma ỏm. Hay là quỷ cùi? Nhưng không phải người cười là cái chắc. Rũ rượi. Sằng sặc. Vọng ra dưới đồi 300.

Chín năm sau, một người trong tổ hài cốt, khi nghe thấy tiếng cười điên rồ vọng lên từ phía đồi 300 bên bờ sông Sa Thầy, vào buổi chiều tối đã ngỡ rằng mình nghe thấy yêu quái. Anh ta hồi hộp kể. Mọi người xúm quanh, sa sầm.

- Chỉ cất lên trong chốc lát, nhưng tiếng cười làm tôi lạnh hết người. Nhưng mà tôi cứ thử liều lần về hướng phát ra tiếng cười. Chợt gặp một cái tràng hẹp khoanh một khoang giữa rừng. Mẹ kiếp, và tôi thấy gì… một túp lều. Thoảng gió qua tôi ngửi thấy mùi khét và mùi sắn nướng. Nghĩa là người. Nhưng… Các cậu hiểu không, trước cửa lều trong ánh nhá nhem tôi thấy một hình thù lồm xồm lông lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, cởi trần, trần truồng đang ngồi trên một thân cây đổ nhìn thẳng về chỗ bụi cây tôi đang núp. Và tôi thấy, một quả lựu đạn các bạn ạ, ở trong tay hắn. Tôi bò lui. Hình như có làm động cành cây nên con ma để ý hơn, nó đứng lên, chăm chú nhìn, và đi tới. Tôi bật lên vùng chạy. Lập tức tiếng cười kinh dị khi nãy lại cất lên đuổi theo tôi.

- Hay là “xà niên”? - Một người phỏng đoán.

- Nhưng xà niên sao lại có vũ khí, với lại họ đâu có ở lều cũng không phải tàn tích của một bản làng nào vì chẳng hề có vết tích nương rẫy nào ngoài cái rẫy tự giác của lính ta. Mà nhất là người không ai cười như thế.

- Hay là thằng Tùng, anh Kiên?

- Tùng nào?

- Tùng điên chứ Tùng nào, ở vệ binh trung đoàn ấy, anh quên à. Nó hóa điên và bỏ vào rừng khi trung đoàn mình về chốt gần ngã ba đường 90 hồi năm 71 ấy. Rất gần khu vực này.

- À, Tùng… nhớ rồi. Cũng chả biết chừng, thằng đó lên cơn toàn cười. Nghe rất ớn. Người ta bảo rằng trong rừng có những mạch suối ma, uống phải nước của những mạch đó có thể mắc đủ thứ bệnh, kể cả bệnh điên. Nhưng Tùng thì điên do bị một viên bom bi lọt vào não, bác sĩ trung đoàn bảo thế.

Kiên nhớ là lần ấy trung đoàn bộ bị oanh tạc. Nhiều người chết và bị thương. Riêng Tùng hoàn toàn lành lặn. Chỉ có điều là Tùng kêu đau đầu lắm. Y tá cho thuốc cảm, chẳng thuyên giảm, càng đau. Rồi một buổi đêm các lán của cả trung đoàn bộ bị lay thức vì tiếng cười của Tùng. Phải rồi, chuyện đó xảy ra ở vùng này đây. Mọi người tổ chức vây lùng để đưa Tùng về cứu chữa. Nhưng người bệnh lẩn tránh rất tài. Thỉnh thoảng từ một lùm cây anh ta bật cười như để chọc dờn mọi người, nhưng mà tiếng cười ảo não và thương tâm vô cùng. Vờn đuổi, truy sục cả tháng trời rồi đơn vị để mất dấu tích của Tùng. Cậu ta mất hút vào rừng thẳm. Người ta bảo rằng, viên bi đã không chịu nằm yên ở một góc não mà trườn chạy, luồn lách đưa cơn điên vào tất cả những ngõ ngách trong đầu óc Tùng…

Tuy nhiên bây giờ nghe kể về tiếng cười ma quỷ ở góc đồi 300, Kiên ít nghĩ đến Tùng. Anh nhớ lại cái chết của Quảng. Cũng ở khoảng rừng này đây 9 năm về trước. Sự đau đớn như thế có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây thành rừng, gây nên những vang âm và những ảo hình không tan đi được về tấm thảm kịch. Nói chung, thời gian này Kiên đã bắt đầu tin tưởng vào những bóng ma, tin vào những ngọn gió âm hồn và những lời lẽ thần bí vọng lên từ đáy rừng âm u. Khi anh và những người trong tổ tiến tới gần túp lều thì bóng ma đã lên tiếng cười để ngăn lại. Tiếng cười dằn dữ như thể lời cảnh cáo.

- Anh là ai? - Kiên hỏi to - Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi.

Im lặng lan xa. Túp lều hoang, bãi trống, vùng cỏ xanh, rừng cây. Tiếng suối từ đồi 300 vọng tới nghe rì rầm như tiếng cầu nguyện.

- Chúng tôi muốn nói để anh hay rằng đã hòa bình rồi - Kiên lại lên tiếng, anh cảm thấy luồng mắt của cô hồn đang xói qua kẽ hở ở vách lều rọi vào mình - Hãy để chúng tôi đưa anh rời bỏ nơi hoang vu này.

Đáp lời Kiên là một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy. Có phải tiếng cười hay không, hay là khóc than, kêu gào, hay chỉ đơn thuần là tiếng hô hú điên loạn mất trí? Rền rĩ, rùng rợn, man rợ… Và, dường như không phải chỉ có một giọng cười. Bên dưới cái giọng khàn khàn là một giọng run run nho nhỏ cười nương theo.

Chờ, không biết là đã chờ bao lâu cho tới lúc tiếng cười kiệt hơi, Kiên bước tới, đi thong thả tới túp lều. Cái lều ọp ẹp rùng mình, Kiên và mọi người không ai kịp thấy rõ một cái gì. Từ trong lều băng ra phía sau, “họ” - nghĩa là không phải chỉ một cái bóng, vút lao đi bay biến và vô hình vào triền cỏ tranh cao lút đầu.

Thảng thốt một tiếng chim kêu lên. Vệt cỏ gianh rẽ giạt trườn lướt đi.

- Kìa! - Một người thốt lên đờ đẫn.

Ở nơi bãi gianh tiếp giáp rừng le, hiện thoáng lên chỉ trong tích tắc một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay. Còn một bóng ma nữa nhưng do rạp cúi xuống chạy nên chỉ lộ cho mọi người vụt thấy một cái sống lưng đen cháy như lưng vượn. Ảo giác và cảnh thực đan xen lẫn vào nhau như hai vòng sóng giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng. Thẫn thờ, rời khỏi khoảng rừng trống, bọn Kiên để lại trước cửa lều một hòm lương khô chứa ít gạo, muối và thuốc men. Nhưng, mấy bữa sau trở lại đó thì buồn thay chỗ quà vẫn nguyên đấy chẳng được ai đụng tới.

- Họ nghi có cạm bẫy - Một người nói - Họ sợ.

- Họ ư? Có nghĩa là người à?

Qua lỗ hổng hẹp dùng làm cửa ra vào, mọi người luồn vào bên trong lều. Chỗ nằm trải những giát lồ ô có phủ bên trên một lượt cỏ Mỹ làm đệm. Ba tảng đá kê lên thành một chiếc bếp ở góc lều. Vương rắc xung quanh bếp, vỏ sắn và lõi ngô. Bầu không khí hăng hắc mùi khói và lờ lợ một thứ mùi người.

- Đây này… - Kiên nói, gần như thành kính nhặt ở đệm lên một cái lược làm bằng nhôm máy bay. Kẽ lược giắt những sợi tóc rất dài và mềm.

- Nghĩa là không phải ma. Không phải xà niên.

- Nhưng là ai? - Một người thì thào - Là ngụy hay là lính mình đào ngũ sống ẩn trong rừng?

Không ai trả lời. Và trong một thời gian khá lâu sau đó cả tổ đã cố công tìm kiếm. Nhưng cặp uyên ương mất trí ấy đã được rừng che chắn trong vòng huyền hoặc. Mặc dù thỉnh thoảng trong gió hình như vẫn nghe văng vẳng họ cười song chẳng thể nào định hướng được để tìm đến. Một lần một người trong tổ nói là đã nom thấy chính người đàn bà nọ ở bờ sông dưới bóng chiều chạng vạng, đang tắm. Khi anh ta tiến gần lại thì người ấy bật lên cười, vẫn chuỗi cười rất rợn ấy và lập tức biến mất, không biết là biến vào các lùm cây ven bờ nước hay là biến vào trong sóng.

- Hình như chị ta còn lại có một mình. Người kia có thể là đã lưu lạc ra xa khỏi vùng này. Nhưng có lẽ chị ta không hoàn toàn cô lẻ. Tôi ngờ là chị ta có mang.

Chắc là do tưởng tượng ra thế thôi. Chắc anh ta cho rằng có thêm một đứa bé, một hài nhi tham gia vào thì câu chuyện tối tăm điên dở mịt mờ không lối thoát này sẽ đỡ thương tâm, sẽ có hương vị hy vọng và sẽ thành ra một chuyện có hậu. Bởi vậy anh ta nói thêm:

- Bệnh điên sẽ không nhiễm sang đứa bé. Và nó sẽ lớn lên. Người ta sẽ tìm ra, hoặc là chính nó sẽ tìm thấy mọi người.

- Thì cũng đành hy vọng thế - Một người khác nói - Phải có một lối thoát chứ. Cảnh ngộ này và những cảnh ngộ tương tự. Chưa nói tới những cảnh ngộ kinh khủng hơn.

Những người chết chẳng hạn. Phải rồi. Cả những người chết. Họ cũng phải được cứu rỗi bằng một cánh nào đó. Phải rồi. Kiên nghĩ. Mình, chính mình, sau từng ấy năm trời đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác loạn, đã ngập chìm trong tủi nhục, oán hờn và lú lẫn. Nhưng là người thì không thể thế mãi. Phải có được một con đường nào đấy để tự giải thoát chứ. Nhưng là con đường nào và đến bao giờ thì mình tìm được con đường ấy?"
View attachment 185083
Cái đau đớn nhất là người đã bỏ lại chiến trường xương máu và có khi cả tính mạng thì người thân được gì được gì ngoài cái sự thăm hỏi cho có lệ hô hào ghi nhớ còn chẳng mấy người được trợ cấp chính đáng; cái lớp người hy sinh trực tiếp đã sắp đi cả rồi chưa được đền đáp mà đôi khi còn bị chèn ép uất ức, cái lớp ở sau lên phát tham lam, chạy chọt ,. vân vân và mây mây
 
Chúng mày có thể tìm đọc "Phố nhà binh" của Chu Lai, "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp. Đấy là những câu chuyện rất đáng đọc hình như lâu rồi không ai còn nhắc tới.
 
Chúng mày có thể tìm đọc "Phố nhà binh" của Chu Lai, "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp. Đấy là những câu chuyện rất đáng đọc hình như lâu rồi không ai còn nhắc tới.
Ông tướng ngán ngẩm khi vợ bán cà phê và mình phụ vợ thì một thằng đầu cắt moi phi vào quán láo toét: cho ly nâu đá lão già , rồi tình yêu đẹp trong bom đạn đã bị nước hoa quý phái đánh bật... Hiện thực xã hội luôn vậy, tiến hóa không ngừng. Mỗi giai đoạn sẽ phục vụ người của giai đoạn ấy. Sẽ không bao giờ có chuyện hài lòng tất cả.
 
Chiến tranh, " thanh niên thì chết như rạ, còn người già thì kể chuyện "
Nhưng rất nhiều người lính đã trở về và ko nói gì về cuộc chiến đã qua. Bố tao là 1 người như vậy.
Đi lính ai nghĩ được ngày về dù ai cũng mong muốn sau cuộc chiến trở về lành lặn với gia đình, vợ con, trồng lúa nuôi gà. Thế là được.
Bố t sau khi chứng kiến sự khốc liệt của chiến tranh ở tuyến đầu lửa đạn. Hoà bình lập lại, ông về quê, ko ở tỉnh hay trung ương gì hết ( ngày ấy là lính của Bộ nội vụ, phục vụ nhiều năm, có quân hàm được sắp đặt vị trí ấy). Ông về với mong muốn như khi còn cầm súng.
Giờ đây còn làm giả giấy tờ thương bệnh binh, chính sách đãi ngộ, xây bia mộ tượng đài. Ông thấy mà đau lòng. Những hình ảnh hiếm hoi mà ông lể lại là thịt nát xương tan, máu me, nội tạng phủ khắp trận địa. Ai nghĩ được như vậy
Tất cả vì cái đất nước này.
 
Đang xem thớt chiến tranh Nga-Ukraine thì có đứa link đến thớt này, cảm ơn những người đã nằm xuống cho đất nước này.
 

Có thể bạn quan tâm

Top