

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Đường phố Sài Gòn trong khoảnh khắc vừa kết thúc chiến tranh vào năm 1975
- Tác giả,Bùi Văn Phú
- Vai trò,Gửi cho BBC từ Đại học Texas Tech, Lubbock, Texas, Hoa Kỳ
- 2 giờ trước
Tuyết tháng Tư làm tôi nhớ trong sách sử về Chiến tranh Việt Nam có ghi lại sự kiện là vào sáng ngày 29/4/1975 trên sóng phát thanh FM ở Sài Gòn phát đi bài nhạc Mỹ: "I'm dreaming of a white Christmas…" (Tôi đang mơ một Giáng sinh tuyết trắng) mà tôi có biết gì đâu và chỉ nhớ ngày hôm sau, đang lênh đênh trên biển thì nghe tiếng rè rè trên đài Sài Gòn là lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh, rồi lời ca: "Rừng núi giang tay nối lại biển xa…" và bỗng dưng nước mắt tuôn trào.
Cuối tháng Tư Sài Gòn nóng đổ lửa, phượng bừng nở báo tin mùa hè sắp đến, nhưng ca khúc về mùa đông được đài FM phát đi phát lại là hiệu lệnh cho tất cả người Mỹ biết cuộc di tản khỏi Việt Nam đã bắt đầu.
Trưa ngày hôm sau, trên đài Sài Gòn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đưa ra lời kêu gọi mọi người ở lại góp tay xây dựng trong hòa bình. Ông cất tiếng ca mộc mạc, không đàn trống: "Mặt đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng, trời rộng bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…"
Mạch tự sự chủ đạo lúc bấy giờ là: Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm đứt. Quê hương đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược.
Rồi chuyện gì đã xảy ra sau ngày 30/4 năm đó, ở Việt Nam và ở hải ngoại? Đó là chủ đề của hội thảo 1975: The End of the Vietnam War (1975: Kết thúc Chiến tranh Việt Nam), tổ chức tại Đại học Texas Tech từ ngày 10 đến 13/4 vừa qua.
Dù cuộc chiến đã chấm dứt tại mốc thời gian 30/4/1975, sau nửa thế kỷ hai tiếng "Việt Nam" vẫn còn được nhiều người từ hai bên bờ Thái Bình Dương tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu. Những học giả, sinh viên, cựu chiến binh, nhà báo, nhà văn, nhạc sĩ, người làm từ thiện, hoạt động cộng đồng đã trình bày công trình học thuật hay chia sẻ kinh nghiệm, kỷ niệm trong 30 buổi thảo luận.
Về trải nghiệm của những người lính Mỹ ở Củ Chi là bài của Paloma Guerra, về tù binh Mỹ là bài của Brian Washam. Oscar Coles nói về những gì bộ đội mang theo khi vào nam chiến đấu, trong đó có báo Trường Sơn. Uyên Nguyễn nói về lực lượng Địa phương quân của Việt Nam Cộng hòa.
George "Jay" Veith nhìn lại chiến dịch quân sự của Hà Nội trong tháng Ba và tháng Tư trước khi bộ đội ******** tiến vào Sài Gòn. John F. Burn nói về chiến dịch Operation Frequent Wind (Chiến dịch Gió lốc) di tản người Mỹ và người Việt ra khỏi Việt Nam vào phút tối hậu của chiến cuộc.
Miguel Lechuga nói về thành công và thất bại trong việc di tản trẻ em trong chiến dịch Operation Babylift.
Sau di tản tháng 4/75 và vài tháng qua các trại tị nạn, 120.000 người Việt đã được Hoa Kỳ nhận cho định cư và cộng đồng người Việt tại Mỹ hình thành từ đó.
Tại hội thảo có Hải Cao, Steve Potts và Nghĩa M. Võ nói về những nỗ lực vươn lên của người tị nạn trên đất mới, từ California qua Georgia, Minnesota.
Sau cuộc chiến, nhiều vấn đề còn tồn tại và phải mất nhiều năm mới có tiến triển. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, được mở ra năm 1995, là bài nói chuyện của Mã Y Vân, sinh viên Đại học Fulbright Vietnam.

Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Một lễ tưởng niệm ngày 30/4 của các cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa tại Westminter, California, Mỹ
Amanda C. Demmer, tác giả của After Saigon's Fall: A 50-Year Retrospective (Sau ngày Sài Gòn thất thủ: 50 năm nhìn lại), ghi nhận những khó khăn và thành quả trong quan hệ Mỹ-Việt, từ POW-MIA đến tù cải tạo, H.O., con lai; từ nhân quyền đến thuyền nhân vượt biển, xử lí chất độc da cam.
Andrew Wells-Dang, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, làm việc cho United States Institute for Peace (Viện Hoa Kỳ vì Hòa bình) vừa bị chính quyền Donald Trump dẹp bỏ, nói đến quyền lợi quốc gia của hai nước trong việc xây dựng quan hệ dựa trên lòng tin và sự tôn trọng thể chế của nhau. Ông nói đến những trợ giúp mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam qua các dự án được tài trợ bởi USAID, nay bị cắt cùng với các chương trình Việt ngữ của đài VOA, RFA sẽ làm Hoa Kỳ mất ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam hậu chiến tranh là những chính sách cai trị đầy bạo lực do Alex-Thái Đình Võ, Đại học Texas Tech, trình bày. Bài về lịch sử của Điều 4 Hiến pháp là của Alec Holcome, Đại học Ohio. Cody J. Billock nói về Huế những tháng ngày sau khi được giải phóng, trong đó đề cập đến những người con của Huế như Nhã Ca, Trịnh Công Sơn, Phan Nhật Nam, Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý, người bị giam tù, người không còn được tự do sáng tác.
Tường Vũ, Đại học Oregon, nói về chính sách đàn áp sắt máu của Hà Nội qua vụ án Vinh Sơn, vụ án dòng Đồng Công. Tuấn Hoàng, Đại học Pepperdine, bàn về sinh hoạt và phát triển của giáo hội công giáo. Trinh Lưu nghiên cứu về các chính sách tiêu diệt văn hoá miền Nam sau 1975.
Hệ lụy của chiến tranh có bài nói chuyện của Diane Fox về chất độc da cam, bài của Michael Peavey Đỗ nhắc đến vết thương không lành của những ai từng bị bắt đi học tập cải tạo.
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa ngày trước, nay là Nghĩa trang Nhân dân Bình An, được ba sinh viên tuổi đôi mươi tìm hiểu, hai từ trong nước và một tại Hoa Kỳ, là Trần Nguyễn Phương Thảo, Tạ Bảo Long từ Đại học Fulbright Vietnam và Tiana Dương từ Đại học Dartmouth. Theo các bạn này, việc ra vào nghĩa trang còn giới hạn và khi gặp người đi thăm, hỏi chuyện thì hầu hết không muốn trả lời vì sợ bị phiền phức. Chỉ có một cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa tuổi đã 80 đang làm công việc chăm sóc các ngôi mộ trong nhiều năm qua là đồng ý cho các bạn phỏng vấn, quay phim.
Về cộng đồng người Mỹ gốc Việt, sự định hình đặc tính bảo thủ và chống ******** được nghiên cứu bởi Ý Nguyễn từ Đại học California, Dominguez Hills; Erica Allen-Kim, Đại học Toronto, nói về sự hình thành của những khu Little Saigon.

Nguồn hình ảnh,Phúc Ben
Chụp lại hình ảnh,Một góc Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, ảnh chụp đầu năm 2025
Sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật trước và sau 1975 cũng là đề tài của nhiều bài nói chuyện. Jason Nguyễn, Đại học Cerritos, so sánh âm nhạc miền nam trước và sau năm 1975; Phú Vũ từ trường St. Peter Claver phân tích nhạc miền bắc và miền nam, Nữ-Anh Trần, Đại học Connecticut, bàn về văn học hậu chiến.
Trong hội thảo về nhân quyền, tác giả bài viết này đã nói về những tù nhân lương tâm trong 50 năm qua, từ Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Thanh Liêm, Đoàn Viết Hoạt đến Lê Quốc Quân, Phạm Đoan Trang, Huy Đức, Nguyễn Sơn Lộ và những nỗ lực của người Việt hải ngoại để cải tiến tình hình nhân quyền ở đó. Ông Huỳnh Lương Thiện, chủ nhiệm tuần báo Mõ-SF, trình bày việc dùng truyền thông báo chí để dân chúng Mỹ biết về những vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Ông Nguyễn Minh Huy là ca nhạc sĩ đấu tranh, cùng cô Lê Diễm Chi Huệ và Phong trào Hưng Ca đã đem tiếng hát đến nhiều nơi vận động cho nhân quyền tại quê nhà. Hôm nay chúng tôi đã đồng ca vài bài nhạc đấu tranh, trong đó có Em vẫn mơ một ngày về của Nguyệt Ánh.
Nhiều người trẻ thuộc thế hệ 1.5 và thế hệ thứ 2 đã đến với hội nghị vì quan tâm đến Việt Nam, muốn hiểu hơn về cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Họ đã hoặc đang theo học khoa lịch sử, xã hội, nhân văn có liên quan đến đất nước, con người Việt Nam như Nguyễn Hồng Uyên, Trinh Lưu, Tiana Dương, Nguyễn Hoàng Thụy Kha, Christina Võ, Evyn Espiritu-Gandhi, Nguyễn Thị Kim Hoa, Tạ Bảo Long, Trần Nguyễn Phương Thảo, Mã Y Vân.
Đặc biệt tôi đã thấy có cả bố và con cùng đi tham dự hội thảo. Chương Đỗ và Chu Đỗ chia sẻ trải nghiệm về hành trình thoát khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Nghĩa M. Võ và Christina Võ có những khác biệt trong cách nhìn về quê hương Việt Nam, cha bỏ đi vào tháng 4/1975 trong ngậm ngùi, đã viết nhiều sách về thuyền nhân, về trại học tập cải tạo, trong khi cô con gái đến Việt Nam thì tìm thấy cội nguồn, không như hình ảnh quê hương trong tâm trí của người cha, như Christina đã viết trong tác phẩm My Vietnam, Your Vietnam mà hai bố con viết chung, được Kalynh Ngô dịch ra tiếng Việt là Việt Nam của con, Việt Nam của cha.
Sôi sục trong lòng một số người Việt tham dự hội thảo, nhưng giữ yên lặng, là lúc Lệ Lý Hayslip nói chuyện trong bữa ăn tối thứ Sáu 12/4. Tác giả của When Heaven and Earth Changed Places (Khi Đất Trời đảo lộn), đã được Oliver Stone chuyển thành phim, kể chuyện về đời mình, gốc Quảng Nam, gia đình theo ******** và bà đã bị hãm hiếp, có con rơi, qua Mỹ từ năm 1970. Bà kể là bị người Việt ở Dallas chống đối vì cho rằng bà ủng hộ chế độ ********. Khoảng 20 người Việt lặng lẽ rời phòng ăn để phản đối. Bài nói chuyện, chính ra là hỏi đáp, tâm tình cùng Nguyễn Hồng Uyên, nhưng mới câu hỏi đầu bà đã nói liên tục hơn 20 phút. Bà khóc cho số phận của mình, khiến cho cô Uyên cũng bật khóc theo.