[Luận đàm] Điều gì giúp nền văn minh phương Tây vượt trội thế giới ở hiện tại ?? (mời các sĩ phu Nam-Bắc)

Little$King Tran ✓

Chú bộ đội
VĂN MINH
phương Tây & phần còn lại của thế giới
(Civilization – The West and The Rest)

Naill Ferguson

Có ai đã từng hỏi:
– Tại sao phương Tây văn minh?
– Tại sao cùng là người phương tây di cư đến châu Mỹ mà lại có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ & Nam Mỹ (trừ Mexico)?
– Trung hoa, từng có nhiều phát minh cho nhân loại… từng được gọi là “nền văn minh”, giờ sao thế nhỉ?
– Nước Nga, một phần của châu Âu, to lớn vậy, giờ sao thế nhỉ?
– Các nước Hồi giáo, đặc biệt Hồi giáo Trung đông từng là “nền văn minh”, sao thế nhỉ?
– Và nhiều câu hỏi kiểu này…

Thời sự nổi bật với Venezuela hỗn loạn, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, Brexit, biểu tình “áo vàng” tại Pháp… Cảm hứng từ chuyến đi về miền quê Australia. Khai xuân với đề tài về thế giới văn minh, lựa chọn là cuốn “VĂN MINH phương Tây & phần còn lại của thế giới”

Ai cũng biết đến di sản vĩ đại của hàng ngàn năm trước – các Kim tự tháp Ai Cập mà điển hình là tháp Giza. Nó được tạo thành bởi khoảng 2,3 triệu khối đá, mỗi khối nặng chừng 50 tấn, Giza cao cỡ 140m… rồi 2 lần chiều cao chia cho diện tích đáy bằng đúng số Pi – hằng số mà Archimedes được cho là người phát hiện ra mãi sau này. Siêu tưởng tượng!

Hôm nay, cầm iPhone trên tay, ai cũng kinh ngạc bởi tính năng và tác dụng của nó. Một trong những từ thường xuất hiện ngay lập tức đó là “văn minh thật”. Nguyên nghĩa nó là “một cái alo” nhưng lại được tích hợp để là rất nhiều thứ: Computer, Calculator, TV, máy thu phát âm nhạc, thư viện, la bàn, bản đồ, trung tâm khí tượng thủy văn … nằm gọn trong lòng bàn tay mà hầu như ai cũng sử dụng được.

Những thứ này chắc chắn không thể được tạo ra bởi chỉ một cá nhân mà bởi Một Nền Văn Minh.

Hiểu thế nào thì hiểu, chỉ biết rằng một nền văn minh được tạo ra trong một khoảng thời gian rất dài bởi rất nhiều người. Bên cạnh các di sản hữu hình, nó còn phải được nhìn nhận bởi các giá trị vô hình như thẩm mỹ, tinh thần, chất lượng cuộc sống, ngôn ngữ…

Naill nói về phương Tây thế nào?

Vào khoảng năm 1500, các đế quốc tương lai của Châu Âu chỉ chiếm khoảng 10% bề mặt thế giới và cùng lắm chiếm 16% dân số toàn cầu; đô thị lớn nhất TG bấy giờ là Bắc Kinh có khoảng 700k dân; Top 10 đô thị lớn nhất lúc đó chỉ có Paris là thuộc Châu Âu với dân số xấp xỉ 200k; London lúc này chỉ khoảng 50k dân. Hơn 400 năm sau, vào thập niên 1913s, 11 đế quốc phương Tây kiểm soát khoảng 3/5 tổng lãnh thổ & dân số, hơn ¾ sản lượng kinh tế toàn cầu; Châu Á chỉ có 1 đô thị lớn duy nhất là Tokyo trong Top 10; London lúc này đã trở thành đại đô thị toàn cầu với dân số khoảng 6,5 triệu. Sau ngót 100 năm nữa, ngôi thống trị của phương Tây không suy tàn sụp đổ mà khoảng cách với phương Đông ngày càng nới rộng bởi sự trỗi dậy của Hoa Kỳ; năm 1990 một người Mỹ trung bình giàu có gấp 73 lần một người Trung Quốc trung bình.

Kết quả là nền văn minh phương Tây đã trở thành mẫu hình mà phần còn lại TG mong mỏi đi theo, trong đó điển hình là Nhật Bản ở phương Đông.

Tại sao?

Naill Ferguson tóm lược 6 nhân tố tạo nên sự khác biệt của phương Tây với phần còn lại của TG:
1. Cạnh tranh: sự phi tập trung hoá đời sống chính trị và kinh tế, từ đó tạo cơ sở cho các nhà nước dân tộc và CNTB;
2. CM khoa học: một phương thức nghiên cứu, tìm hiểu và cuối cùng làm thay đổi TG tự nhiên. Nó mang lại ưu thế quân sự cùng nhiều thứ khác so với phần còn lại;
3. Quyền tư hữu đất đai (pháp trị & CP đại diện): luật pháp bảo vệ sở hữu tư nhân, giải quyết trong hoà bình đối với các tranh chấp – nền tảng cho hình thái bền vững của chính phủ đại diện;
4. Y học: ngành khoa học cải thiện quan trọng về sức khoẻ & tuổi thọ;
5. Xã hội tiêu dùng: phương thức sinh hoạt vật chất trong đó hoạt động sản xuất và mua sắm đóng vai trò trung tâm;
6. Đạo đức lao động: một khuôn khổ đạo đức và phương thức hoạt động xuất phát từ Tin lành & các nguồn khác. Nhân tố này là chất keo kết dính đối với XH năng động và đầy bất ổn tiềm tàng được hình thành từ việc ứng dụng 5 yếu tố phía trên.

Ông nhấn mạnh sự khác biệt then chốt nằm ở thể chế. Tây Âu bắt kịp và vượt Trung Hoa một phần quan trọng là do phương Tây có nhiều sự cạnh tranh hơn cả về chính trị lẫn kinh tế. Thế kỷ XX đã thực hiện một loạt “thí nghiệm” theo đó các thể chế khác nhau đã áp dụng cho 2 khối người Chinese ở bên trong và ngoài Trung Hoa; Nam – Bắc Triều Tiên; Đông – Tây Đức. Bài học đã quá rõ!

Phương Tây bao hàm nhiều thứ hơn chứ không chỉ về địa lý. Đó là hàng loạt các tiêu chuẩn, hành vi và thể chế với ranh giới rất mờ ảo. Samuel Huntington (tác giả cuốn Sự va chạm giữa những nền văn minh) giới hạn phương Tây ko bao gồm Nga và các nước Chính thống giáo; nó chỉ gồm Tây & Trung Âu, Bắc Mỹ trừ Mexico, và Úc.

Cạnh tranh

Naill lý giải về nền văn minh phương Tây bắt đầu từ “cạnh tranh” trong khung 6 nhân tố trên, điển hình bằng việc so sánh với Trung Hoa – nơi từng là một trong 5 trung tâm phát nguyên xã hội loài người cổ đại và đã là quốc gia công nghệ hàng đầu vào TK 15. Rằng cách đây chừng 30 năm, ai mà tiên đoán trong nửa thế kỷ Trung Hoa sẽ là nền kinh tế lớn nhất TG, chắc bị cho là điên khùng; ngược trở về năm 1420, bạn mà tiên đoán Tây Âu sẽ có ngày sản xuất lớn hơn toàn bộ Châu Á và trong vòng 500 năm sau thu nhập bình quân đầu người Anh cao gấp 9 lần Trung Hoa, bạn sẽ bị xem là mất trí.

Giờ thì ai cũng biết rằng người Trung Hoa đã có hàng loạt phát minh cho nhân loại như đồng hồ, la bàn, lưỡi cày, giấy, máy in, hóa chất khử trùng … Các nghiên cứu còn cho thấy Cuộc cách mạng công nghiệp đã được báo trước ở Trung Hoa từ rất sớm: lò luyện kim đầu tiên để luyện sắt không phải ở Coalbrookdale năm 1709 mà là ở Trung Hoa năm 200 tr.CN; chính Trung Hoa đã cách mạng hóa ngành dệt sau đó du nhập vào Italy TK XIII; người ta thường cho rằng Jethro Tull (Anh) đã phát minh ra máy xay bột mì 1701 nhưng thực ra người Trung Hoa đã sáng chế ra nó hơn 2000 năm trước; ngạc nhiên hơn khi tìm thấy tài liệu Hỏa Long Kinh (Huolongjing) xuất bản TK XIV đã mô tả địa lôi, thủy lôi, tên lửa và đạn rỗng nhồi thuốc nổ. Như vậy là trước triều Minh vĩ đại rất lâu, văn minh Trung Hoa đã vượt lên trước TG nhờ các đổi mới công nghệ.

Câu chuyện về hạm đội của Đô đốc Trịnh Hòa thời Vua Vĩnh Lạc đầu TK XV đã cho thấy sự phát triển vượt trội của Trung Hoa so với TG thế nào. Hạm đội gồm hơn 300 chiến thuyền, 28.000 thủy thủ – lớn hơn bất kỳ hạm đội nào từng thấy ở phương Tây cho đến WWI. Chiếc thuyền Columbus 1492 chỉ bằng 1/5 so với chiếc thuyền trong hạm đội Trịnh Hòa. Hạm đội của Ông đã giương buồm khắp ĐNÁ, Ấn Độ, châu Phi, Trung Cận Đông. Theo Adam Smith (bằng chứng bia khắc) thì mục đích ở đây là phô trương sức mạnh & quyền lực. Việc phái một hoạn quan đến bờ biển Đông Phi năm 1416 được ví như người Mỹ chinh phục mặt trăng năm 1969. Rất tiếc, Vĩnh Lạc chết, người kế vị đã ra sắc lệnh cấm phát triển hàng hải. Từ 1500 ai bị phát hiện đóng thuyền có 2 cột buồm trở lên sẽ bị tử hình. Một cá nhân quyết định tất cả. Trung Hoa bắt đầu một thời kỳ tụt hậu.

Cùng thời đó phương Tây thì sao:
– Sông Thames so với sông Dương Tử được ví như ao tù;
– Kỹ thuật hàng hải Anh rất thô sơ, chỉ loanh quanh vùng nước chật hẹp;
– Nơi ở của Vua Anh Henry V 1421 chỉ là một thị trấn với vách tường chắp vá dài 3 dặm;
– Đại dịch Black Death 1439 làm cho dân số London chỉ còn khoảng 40.000 bằng 1/10 dân số Nam Kinh; đường phố không có hệ thống cống rãnh;
– Tuổi thọ trung bình dân châu Âu thời kỳ 1540 – 1800 là 37, riêng Anh là 20; Vua Henry V lên ngôi năm 26, chết vì kiết lỵ năm 35 tuổi;
– Chiếc cầu sắt cổ nhất TG không phải ở Anh mà là ở Trung Hoa;
– Đến năm 1788 sản lượng sắt của Anh còn thấp hơn Trung Hoa năm 1708 và còn nhiều thứ khác nữa…

Nhưng 1492 Columbus đã đến châu Mỹ; ngày 8.7.1497 Vasco da Gama (BĐN) ra khơi và tháng 2.1498 đặt chân đến Malindi châu Phi, rồi Ấn Độ… mở ra con đường giao thương. Tiếp đó người Tây Ban Nha chiếm tân thế giới, thiết lập tiền đồn ở Philippines. Người Hà Lan, Pháp, Anh, Nga cùng lao vào xâm chiếm các vùng đất mở rộng giao thương, buôn bán.

Trung Hoa đang hưng thịnh, đóng cửa, quyết định bởi 1 cá nhân vị hoàng đế. Châu Âu u tối, bệnh dịch, chiến tranh liên miên, đua nhau mở mang giao thương nhằm tìm lối thoát. Mấu chốt nằm ở chỗ “cạnh tranh”: nhìn bản đồ từ vùng biển miền Tây tới Baltic rồi Địa Trung Hải, thấy hàng trăm nước châu Âu, hàng nghìn tổ chức nhà nước đang tranh giành nhau. Naill nói rằng chiến tranh dẫn tới 3 vấn đề: thứ nhất nó thúc đẩy đổi mới quân sự; thứ hai chiến tranh liên miên nói lên rằng họ đã biết nâng tổng thu nhập hầu bù đắp chiến phí; cuối cùng việc xung đột hết đời này sang đời khác cho thấy không có 1 vương triều châu Âu nào đủ mạnh để có thể cấm đoán việc chinh phục đại dương như người Trung Hoa.

Lời đáp chính là “địa lý”. Sự vỡ vụn chính trị, cạnh tranh bên trong lòng châu Âu hóa ra lại ngăn chặn sự xuất hiện một cái gì đó mơ hồ giống như Đế chế Trung Hoa. Sự chia vụn này hóa ra lại có thể giúp châu Âu thống trị TG.

Khoa học

Vương quốc Hồi giáo Caliphate được dựng lên TK VIII kéo dài từ TBN – Bắc Phi – Ả Rập – Syria – Caucasus – quay về Ba tư & Afghanistan. Phương Tây mang một món nợ với thế giới Hồi giáo Trung cổ khi được kế thừa những tinh hoa tri thức cổ xưa: vẽ bản đồ, y học, triết học, toán học, quang học. Triết gia người Anh Roger Bacon (1214-1294) còn nhấn mạnh rằng “triết học có nguồn gốc từ người Hồi giáo”.

Vậy sao thế giới Hồi giáo lại tụt hậu? Ottoman là đế chế kế thừa chuẩn mực của đạo Hồi từ khi họ chiếm được Constantinople 1453. Ottoman đại diện cho cuộc chiến khốc liệt tôn giáo với người Kito. Sử viết rằng 2 lần thất bại trong việc bao vây thành Vienna đã đánh dấu cho kết thúc tham vọng đế chế lâu dài Ottoman. Đến những năm 1697 người Ottoman bị đuổi ra khỏi hầu hết vùng đất châu Âu mà họ đã chiếm được. Sultan độc tài, sa sút phẩm cách, tham nhũng, tranh chấp tôn giáo nội bộ đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế. Đồng thời lúc này, phương Tây trỗi dậy.

Những năm sau 1683, cách phương Tây tư duy trong khoa học tự nhiên và cai trị đã thay đổi sâu sắc: Issac Newton xuất bản cuốn Principia (những nguyên lý); 1690 John Locke xuất bản cuốn Second Treatise of Government (chuyên luận thứ 2 về cai trị). Sự khác biệt giữa phương Tây & phương Đông ở đây chính là sự theo đuổi & áp dụng một cách có hệ thống, sâu sắc tri thức mới mẻ. Naill nhấn mạnh rằng TK XV do cạnh tranh về chính trị & kinh tế đã tạo cho phương Tây những ưu thế căn bản vượt trội so với Trung Hoa. Đến TK XVIII sự đe dọa của phương Tây với phương Đông nằm ở “trí lực & hỏa lực”.

Cuộc cách mạng công nghiệp phương Tây lại được phân tích dưới khía cạnh tôn giáo, ở chỗ giáo lý Kito phân biệt giữa Nhà thờ (Giáo hội) và Nhà nước (Thế quyền): “trả lại Ceasar những gì của Ceasar và trả lại cho Chúa những gì của Chúa”; nó khác biệt hoàn toàn với giáo huấn Đạo Hồi trong kinh Koran rằng không thể phân chia giữa Luật của Chúa với cấu trúc quyền lực. Mô tả sơ lược sự phân biệt giữa Thế quyền & Thần quyền này vào TK XV đảm bảo cho nhà cai trị châu Âu có thể chống lại những yêu sách chính trị của Giáo hoàng.

Thời kỳ phục hưng nhiều tri thức cổ điển đã được tái hiện nhờ sự tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Cuộc cải cách Kito sau đó gắn với Cuộc cách mạng ngành in đã tạo nên thời kỳ cách tân công nghệ tiền Cách mạng công nghiệp. Chính nhờ ngành in mà những lời giao giảng, những tranh luận cải cách tôn giáo mới được phổ biến rộng rãi. Theo đó nhà thần học Đức Luther Martin đã truyền tải được rộng rãi thông điệp “chỉ có lòng trung thực – không cần chứng minh – cho ta tự do và cứu rỗi” và rằng tất cả mọi người đều là “linh mục vĩnh viễn…xứng đáng trình diện trước Chúa, cầu nguyện cho người khác và dạy cho nhau những lời Đức Chúa dạy bảo”. Quan điểm về “linh mục tự phong của mọi tín hữu” này tự nó đã rất cấp tiến. Nhưng chính ngành in ấn bùng nổ đã giúp nó sinh sôi nảy nở.

Những năm sau 1500, Kinh thánh được dịch sang tiếng Anh, hàng ngàn các tác phẩm cổ điển, công trình khoa học & toán học được in ấn phổ biến rộng rãi. Điển hình là cuốn Micrography (kính hiển vi) của Thomas Hooke (1635-1703), đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa duy nghiệm khoa học. Việc Hooke sử dụng từ “tế bào” như đơn vị nhỏ nhất của thể hữu cơ là một trong hàng loạt đột phá nhận thức xuất hiện khiến những hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên phải mang ra định nghĩa lại. Cuộc cách mạng khoa học đã bắt đầu với những tiến bộ gần như đồng thời trong việc nghiên cứu sự vận động của hành tinh & tuần hoàn máu. Kính hiển vi đã đưa khoa học lên hàng tiên phong qua việc khám phá ra những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Cuối cùng là cuộc cách mạng về triết học khi Rene Descartes & Baruch Spinoza vứt bỏ các lý tuyết truyền thống trong cả 2 lĩnh vực: nhận thức và lý trí.

Vào giữa những năm 1600, tri thức khoa học được phổ biến rộng rãi với tốc độ chóng mặt bởi sự thúc đẩy của nghề in ấn & thư tín. Trong khi các phát minh khoa học then chốt được xuất hiện ở châu Âu thì điều này dường như không thấy xuất hiện ở đế chế Ottoman. Lời giải thích tối thượng cho sự khác biệt này nằm ở chỗ quyền tối thượng của tôn giáo trong thế giới Đạo Hồi. Việc cố gắng dùng khoa học lý giải những “điều thiêng liêng của thượng đế” bị coi là báng bổ.
 
VĂN MINH
phương Tây & phần còn lại của thế giới
(Civilization – The West and The Rest)

Naill Ferguson

Có ai đã từng hỏi:
– Tại sao phương Tây văn minh?
– Tại sao cùng là người phương tây di cư đến châu Mỹ mà lại có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ & Nam Mỹ (trừ Mexico)?
– Trung hoa, từng có nhiều phát minh cho nhân loại… từng được gọi là “nền văn minh”, giờ sao thế nhỉ?
– Nước Nga, một phần của châu Âu, to lớn vậy, giờ sao thế nhỉ?
– Các nước Hồi giáo, đặc biệt Hồi giáo Trung đông từng là “nền văn minh”, sao thế nhỉ?
– Và nhiều câu hỏi kiểu này…

Thời sự nổi bật với Venezuela hỗn loạn, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, Brexit, biểu tình “áo vàng” tại Pháp… Cảm hứng từ chuyến đi về miền quê Australia. Khai xuân với đề tài về thế giới văn minh, lựa chọn là cuốn “VĂN MINH phương Tây & phần còn lại của thế giới”

Ai cũng biết đến di sản vĩ đại của hàng ngàn năm trước – các Kim tự tháp Ai Cập mà điển hình là tháp Giza. Nó được tạo thành bởi khoảng 2,3 triệu khối đá, mỗi khối nặng chừng 50 tấn, Giza cao cỡ 140m… rồi 2 lần chiều cao chia cho diện tích đáy bằng đúng số Pi – hằng số mà Archimedes được cho là người phát hiện ra mãi sau này. Siêu tưởng tượng!

Hôm nay, cầm iPhone trên tay, ai cũng kinh ngạc bởi tính năng và tác dụng của nó. Một trong những từ thường xuất hiện ngay lập tức đó là “văn minh thật”. Nguyên nghĩa nó là “một cái alo” nhưng lại được tích hợp để là rất nhiều thứ: Computer, Calculator, TV, máy thu phát âm nhạc, thư viện, la bàn, bản đồ, trung tâm khí tượng thủy văn … nằm gọn trong lòng bàn tay mà hầu như ai cũng sử dụng được.

Những thứ này chắc chắn không thể được tạo ra bởi chỉ một cá nhân mà bởi Một Nền Văn Minh.

Hiểu thế nào thì hiểu, chỉ biết rằng một nền văn minh được tạo ra trong một khoảng thời gian rất dài bởi rất nhiều người. Bên cạnh các di sản hữu hình, nó còn phải được nhìn nhận bởi các giá trị vô hình như thẩm mỹ, tinh thần, chất lượng cuộc sống, ngôn ngữ…

Naill nói về phương Tây thế nào?

Vào khoảng năm 1500, các đế quốc tương lai của Châu Âu chỉ chiếm khoảng 10% bề mặt thế giới và cùng lắm chiếm 16% dân số toàn cầu; đô thị lớn nhất TG bấy giờ là Bắc Kinh có khoảng 700k dân; Top 10 đô thị lớn nhất lúc đó chỉ có Paris là thuộc Châu Âu với dân số xấp xỉ 200k; London lúc này chỉ khoảng 50k dân. Hơn 400 năm sau, vào thập niên 1913s, 11 đế quốc phương Tây kiểm soát khoảng 3/5 tổng lãnh thổ & dân số, hơn ¾ sản lượng kinh tế toàn cầu; Châu Á chỉ có 1 đô thị lớn duy nhất là Tokyo trong Top 10; London lúc này đã trở thành đại đô thị toàn cầu với dân số khoảng 6,5 triệu. Sau ngót 100 năm nữa, ngôi thống trị của phương Tây không suy tàn sụp đổ mà khoảng cách với phương Đông ngày càng nới rộng bởi sự trỗi dậy của Hoa Kỳ; năm 1990 một người Mỹ trung bình giàu có gấp 73 lần một người Trung Quốc trung bình.

Kết quả là nền văn minh phương Tây đã trở thành mẫu hình mà phần còn lại TG mong mỏi đi theo, trong đó điển hình là Nhật Bản ở phương Đông.

Tại sao?

Naill Ferguson tóm lược 6 nhân tố tạo nên sự khác biệt của phương Tây với phần còn lại của TG:
1. Cạnh tranh: sự phi tập trung hoá đời sống chính trị và kinh tế, từ đó tạo cơ sở cho các nhà nước dân tộc và CNTB;
2. CM khoa học: một phương thức nghiên cứu, tìm hiểu và cuối cùng làm thay đổi TG tự nhiên. Nó mang lại ưu thế quân sự cùng nhiều thứ khác so với phần còn lại;
3. Quyền tư hữu đất đai (pháp trị & CP đại diện): luật pháp bảo vệ sở hữu tư nhân, giải quyết trong hoà bình đối với các tranh chấp – nền tảng cho hình thái bền vững của chính phủ đại diện;
4. Y học: ngành khoa học cải thiện quan trọng về sức khoẻ & tuổi thọ;
5. Xã hội tiêu dùng: phương thức sinh hoạt vật chất trong đó hoạt động sản xuất và mua sắm đóng vai trò trung tâm;
6. Đạo đức lao động: một khuôn khổ đạo đức và phương thức hoạt động xuất phát từ Tin lành & các nguồn khác. Nhân tố này là chất keo kết dính đối với XH năng động và đầy bất ổn tiềm tàng được hình thành từ việc ứng dụng 5 yếu tố phía trên.

Ông nhấn mạnh sự khác biệt then chốt nằm ở thể chế. Tây Âu bắt kịp và vượt Trung Hoa một phần quan trọng là do phương Tây có nhiều sự cạnh tranh hơn cả về chính trị lẫn kinh tế. Thế kỷ XX đã thực hiện một loạt “thí nghiệm” theo đó các thể chế khác nhau đã áp dụng cho 2 khối người Chinese ở bên trong và ngoài Trung Hoa; Nam – Bắc Triều Tiên; Đông – Tây Đức. Bài học đã quá rõ!

Phương Tây bao hàm nhiều thứ hơn chứ không chỉ về địa lý. Đó là hàng loạt các tiêu chuẩn, hành vi và thể chế với ranh giới rất mờ ảo. Samuel Huntington (tác giả cuốn Sự va chạm giữa những nền văn minh) giới hạn phương Tây ko bao gồm Nga và các nước Chính thống giáo; nó chỉ gồm Tây & Trung Âu, Bắc Mỹ trừ Mexico, và Úc.

Cạnh tranh

Naill lý giải về nền văn minh phương Tây bắt đầu từ “cạnh tranh” trong khung 6 nhân tố trên, điển hình bằng việc so sánh với Trung Hoa – nơi từng là một trong 5 trung tâm phát nguyên xã hội loài người cổ đại và đã là quốc gia công nghệ hàng đầu vào TK 15. Rằng cách đây chừng 30 năm, ai mà tiên đoán trong nửa thế kỷ Trung Hoa sẽ là nền kinh tế lớn nhất TG, chắc bị cho là điên khùng; ngược trở về năm 1420, bạn mà tiên đoán Tây Âu sẽ có ngày sản xuất lớn hơn toàn bộ Châu Á và trong vòng 500 năm sau thu nhập bình quân đầu người Anh cao gấp 9 lần Trung Hoa, bạn sẽ bị xem là mất trí.

Giờ thì ai cũng biết rằng người Trung Hoa đã có hàng loạt phát minh cho nhân loại như đồng hồ, la bàn, lưỡi cày, giấy, máy in, hóa chất khử trùng … Các nghiên cứu còn cho thấy Cuộc cách mạng công nghiệp đã được báo trước ở Trung Hoa từ rất sớm: lò luyện kim đầu tiên để luyện sắt không phải ở Coalbrookdale năm 1709 mà là ở Trung Hoa năm 200 tr.CN; chính Trung Hoa đã cách mạng hóa ngành dệt sau đó du nhập vào Italy TK XIII; người ta thường cho rằng Jethro Tull (Anh) đã phát minh ra máy xay bột mì 1701 nhưng thực ra người Trung Hoa đã sáng chế ra nó hơn 2000 năm trước; ngạc nhiên hơn khi tìm thấy tài liệu Hỏa Long Kinh (Huolongjing) xuất bản TK XIV đã mô tả địa lôi, thủy lôi, tên lửa và đạn rỗng nhồi thuốc nổ. Như vậy là trước triều Minh vĩ đại rất lâu, văn minh Trung Hoa đã vượt lên trước TG nhờ các đổi mới công nghệ.

Câu chuyện về hạm đội của Đô đốc Trịnh Hòa thời Vua Vĩnh Lạc đầu TK XV đã cho thấy sự phát triển vượt trội của Trung Hoa so với TG thế nào. Hạm đội gồm hơn 300 chiến thuyền, 28.000 thủy thủ – lớn hơn bất kỳ hạm đội nào từng thấy ở phương Tây cho đến WWI. Chiếc thuyền Columbus 1492 chỉ bằng 1/5 so với chiếc thuyền trong hạm đội Trịnh Hòa. Hạm đội của Ông đã giương buồm khắp ĐNÁ, Ấn Độ, châu Phi, Trung Cận Đông. Theo Adam Smith (bằng chứng bia khắc) thì mục đích ở đây là phô trương sức mạnh & quyền lực. Việc phái một hoạn quan đến bờ biển Đông Phi năm 1416 được ví như người Mỹ chinh phục mặt trăng năm 1969. Rất tiếc, Vĩnh Lạc chết, người kế vị đã ra sắc lệnh cấm phát triển hàng hải. Từ 1500 ai bị phát hiện đóng thuyền có 2 cột buồm trở lên sẽ bị tử hình. Một cá nhân quyết định tất cả. Trung Hoa bắt đầu một thời kỳ tụt hậu.

Cùng thời đó phương Tây thì sao:
– Sông Thames so với sông Dương Tử được ví như ao tù;
– Kỹ thuật hàng hải Anh rất thô sơ, chỉ loanh quanh vùng nước chật hẹp;
– Nơi ở của Vua Anh Henry V 1421 chỉ là một thị trấn với vách tường chắp vá dài 3 dặm;
– Đại dịch Black Death 1439 làm cho dân số London chỉ còn khoảng 40.000 bằng 1/10 dân số Nam Kinh; đường phố không có hệ thống cống rãnh;
– Tuổi thọ trung bình dân châu Âu thời kỳ 1540 – 1800 là 37, riêng Anh là 20; Vua Henry V lên ngôi năm 26, chết vì kiết lỵ năm 35 tuổi;
– Chiếc cầu sắt cổ nhất TG không phải ở Anh mà là ở Trung Hoa;
– Đến năm 1788 sản lượng sắt của Anh còn thấp hơn Trung Hoa năm 1708 và còn nhiều thứ khác nữa…

Nhưng 1492 Columbus đã đến châu Mỹ; ngày 8.7.1497 Vasco da Gama (BĐN) ra khơi và tháng 2.1498 đặt chân đến Malindi châu Phi, rồi Ấn Độ… mở ra con đường giao thương. Tiếp đó người Tây Ban Nha chiếm tân thế giới, thiết lập tiền đồn ở Philippines. Người Hà Lan, Pháp, Anh, Nga cùng lao vào xâm chiếm các vùng đất mở rộng giao thương, buôn bán.

Trung Hoa đang hưng thịnh, đóng cửa, quyết định bởi 1 cá nhân vị hoàng đế. Châu Âu u tối, bệnh dịch, chiến tranh liên miên, đua nhau mở mang giao thương nhằm tìm lối thoát. Mấu chốt nằm ở chỗ “cạnh tranh”: nhìn bản đồ từ vùng biển miền Tây tới Baltic rồi Địa Trung Hải, thấy hàng trăm nước châu Âu, hàng nghìn tổ chức nhà nước đang tranh giành nhau. Naill nói rằng chiến tranh dẫn tới 3 vấn đề: thứ nhất nó thúc đẩy đổi mới quân sự; thứ hai chiến tranh liên miên nói lên rằng họ đã biết nâng tổng thu nhập hầu bù đắp chiến phí; cuối cùng việc xung đột hết đời này sang đời khác cho thấy không có 1 vương triều châu Âu nào đủ mạnh để có thể cấm đoán việc chinh phục đại dương như người Trung Hoa.

Lời đáp chính là “địa lý”. Sự vỡ vụn chính trị, cạnh tranh bên trong lòng châu Âu hóa ra lại ngăn chặn sự xuất hiện một cái gì đó mơ hồ giống như Đế chế Trung Hoa. Sự chia vụn này hóa ra lại có thể giúp châu Âu thống trị TG.

Khoa học

Vương quốc Hồi giáo Caliphate được dựng lên TK VIII kéo dài từ TBN – Bắc Phi – Ả Rập – Syria – Caucasus – quay về Ba tư & Afghanistan. Phương Tây mang một món nợ với thế giới Hồi giáo Trung cổ khi được kế thừa những tinh hoa tri thức cổ xưa: vẽ bản đồ, y học, triết học, toán học, quang học. Triết gia người Anh Roger Bacon (1214-1294) còn nhấn mạnh rằng “triết học có nguồn gốc từ người Hồi giáo”.

Vậy sao thế giới Hồi giáo lại tụt hậu? Ottoman là đế chế kế thừa chuẩn mực của đạo Hồi từ khi họ chiếm được Constantinople 1453. Ottoman đại diện cho cuộc chiến khốc liệt tôn giáo với người Kito. Sử viết rằng 2 lần thất bại trong việc bao vây thành Vienna đã đánh dấu cho kết thúc tham vọng đế chế lâu dài Ottoman. Đến những năm 1697 người Ottoman bị đuổi ra khỏi hầu hết vùng đất châu Âu mà họ đã chiếm được. Sultan độc tài, sa sút phẩm cách, tham nhũng, tranh chấp tôn giáo nội bộ đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế. Đồng thời lúc này, phương Tây trỗi dậy.

Những năm sau 1683, cách phương Tây tư duy trong khoa học tự nhiên và cai trị đã thay đổi sâu sắc: Issac Newton xuất bản cuốn Principia (những nguyên lý); 1690 John Locke xuất bản cuốn Second Treatise of Government (chuyên luận thứ 2 về cai trị). Sự khác biệt giữa phương Tây & phương Đông ở đây chính là sự theo đuổi & áp dụng một cách có hệ thống, sâu sắc tri thức mới mẻ. Naill nhấn mạnh rằng TK XV do cạnh tranh về chính trị & kinh tế đã tạo cho phương Tây những ưu thế căn bản vượt trội so với Trung Hoa. Đến TK XVIII sự đe dọa của phương Tây với phương Đông nằm ở “trí lực & hỏa lực”.

Cuộc cách mạng công nghiệp phương Tây lại được phân tích dưới khía cạnh tôn giáo, ở chỗ giáo lý Kito phân biệt giữa Nhà thờ (Giáo hội) và Nhà nước (Thế quyền): “trả lại Ceasar những gì của Ceasar và trả lại cho Chúa những gì của Chúa”; nó khác biệt hoàn toàn với giáo huấn Đạo Hồi trong kinh Koran rằng không thể phân chia giữa Luật của Chúa với cấu trúc quyền lực. Mô tả sơ lược sự phân biệt giữa Thế quyền & Thần quyền này vào TK XV đảm bảo cho nhà cai trị châu Âu có thể chống lại những yêu sách chính trị của Giáo hoàng.

Thời kỳ phục hưng nhiều tri thức cổ điển đã được tái hiện nhờ sự tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Cuộc cải cách Kito sau đó gắn với Cuộc cách mạng ngành in đã tạo nên thời kỳ cách tân công nghệ tiền Cách mạng công nghiệp. Chính nhờ ngành in mà những lời giao giảng, những tranh luận cải cách tôn giáo mới được phổ biến rộng rãi. Theo đó nhà thần học Đức Luther Martin đã truyền tải được rộng rãi thông điệp “chỉ có lòng trung thực – không cần chứng minh – cho ta tự do và cứu rỗi” và rằng tất cả mọi người đều là “linh mục vĩnh viễn…xứng đáng trình diện trước Chúa, cầu nguyện cho người khác và dạy cho nhau những lời Đức Chúa dạy bảo”. Quan điểm về “linh mục tự phong của mọi tín hữu” này tự nó đã rất cấp tiến. Nhưng chính ngành in ấn bùng nổ đã giúp nó sinh sôi nảy nở.

Những năm sau 1500, Kinh thánh được dịch sang tiếng Anh, hàng ngàn các tác phẩm cổ điển, công trình khoa học & toán học được in ấn phổ biến rộng rãi. Điển hình là cuốn Micrography (kính hiển vi) của Thomas Hooke (1635-1703), đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa duy nghiệm khoa học. Việc Hooke sử dụng từ “tế bào” như đơn vị nhỏ nhất của thể hữu cơ là một trong hàng loạt đột phá nhận thức xuất hiện khiến những hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên phải mang ra định nghĩa lại. Cuộc cách mạng khoa học đã bắt đầu với những tiến bộ gần như đồng thời trong việc nghiên cứu sự vận động của hành tinh & tuần hoàn máu. Kính hiển vi đã đưa khoa học lên hàng tiên phong qua việc khám phá ra những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Cuối cùng là cuộc cách mạng về triết học khi Rene Descartes & Baruch Spinoza vứt bỏ các lý tuyết truyền thống trong cả 2 lĩnh vực: nhận thức và lý trí.

Vào giữa những năm 1600, tri thức khoa học được phổ biến rộng rãi với tốc độ chóng mặt bởi sự thúc đẩy của nghề in ấn & thư tín. Trong khi các phát minh khoa học then chốt được xuất hiện ở châu Âu thì điều này dường như không thấy xuất hiện ở đế chế Ottoman. Lời giải thích tối thượng cho sự khác biệt này nằm ở chỗ quyền tối thượng của tôn giáo trong thế giới Đạo Hồi. Việc cố gắng dùng khoa học lý giải những “điều thiêng liêng của thượng đế” bị coi là báng bổ.
Vì uống sữa
 
Quyền tư hữu

W.Churchill nói rằng ít có từ nào mơ hồ như từ Văn Minh. Theo ông sự khác biệt chính trị giữa phương Tây với phần còn lại: đó là XH dựa trên ý kiến của nhân dân; nó có nghĩa là bạo lực sẽ được thay thế bởi các nghị viện – nơi luật pháp được tạo ra và các toà án độc lập đảm bảo luật pháp được duy trì ổn định lâu dài; đó là văn minh, và trên mảnh đất ấy, tự do, sự sung túc và văn hoá được phát triển không ngừng.

Tầm quan trọng thực sự của việc chiếm lĩnh và thực dân hoá châu Mỹ là một thực nghiệm tự phát lớn nhất trong lịch sử: đem hai nền văn hoá phương Tây áp đặt lên các dân tộc ở vùng đất khác nhau – Anh quốc lên Bắc Mỹ, TBN & BĐN lên Nam Mỹ. Cho đến gần đây, châu Mỹ Latinh vẫn tụt hậu rất xa so với châu Mỹ Anglo-Saxon. Một trong những lý do là sự khác biệt trong cách người dân quản trị chính mình – chính xác hơn đó là quyền tự do cá nhân bất khả xâm phạm và sự bảo vệ quyền sở hữu đất đai được bảo vệ bởi chính phủ đại diện hợp hiến. Người TBN & BĐN chinh phục Nam Mỹ nhưng đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà vua; trong khi đó ở Bắc Mỹ, người Anh đã áp dụng chính sách sở hữu tư nhân, được thừa kế vĩnh viễn. Người Anh đi lên con đường dẫn tới dân chủ nghị viện; người TBN đi xuống con đường dẫn tới chủ nghĩa chuyên chế.

J.Locke đã soạn thảo một văn kiện phi thường, theo đó xác lập một XH tôn ti đẳng cấp, hình thành tầng lớp quý tộc cha truyền con nối. Gắn việc sở hữu đất đai với quyền tham gia nghị viện tại nơi người đó được bầu. Điều này đã ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Ở Anh đất đai chỉ nằm trong tay một số người; ngược lại ở Mỹ mọi người đều có cơ hội hữu sản. Đây chính là điểm mấu chốt của cái gọi là phổ thông đầu phiếu. Nó chính là sự năng động XH. Sự cai trị của TBN đồng nghĩa với Công giáo La Mã là tôn giáo thống lĩnh. Ngược lại Bắc Mỹ trở thành ngôi nhà chung cho rất nhiều phái Tin lành. Sự khác biệt và đa dạng là một trong những nguyên tắc tổ chức định cư của người Anh.

Nếu ai đã từng đọc cuốn Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào (Nguyễn Cảnh Bình biên soạn) kết hợp với những điều Naill Ferguson viết ra trong cuốn sách này sẽ cảm thấy vô vùng lý thú. Không gì có thể minh họa rõ hơn cho sự liên kết giữa sở hữu đất đai & quyền tự do bằng lịch sử thời đầu của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.

Articles of Confederation (Thỏa thuận liên bang) của 13 thuộc địa Anh đầu tiên trên đất Bắc Mỹ được phê duyệt năm 1781. Theo đó một chính phủ được dựng lên, nhưng lỏng lẻo, trước khi có Hiến pháp. Các vấn nạn kinh tế thời chiến và hậu chiến vô cùng nghiêm trọng: lạm phát 400%/năm, thu nhập đầu người giảm một nửa, các bang đánh thuế lẫn nhau, bạo loạn … Tất cả những điều này dẫn đến việc ra đời một “văn bản được coi là vĩ đại nhất mọi thời đại” – Hiến pháp Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ – bởi tầng lớp Tinh Hoa nước Mỹ. Theo đó, bộ tứ quyền lực then chốt được thiết lập: lưỡng viện lập pháp, hành pháp và tối cao pháp viện. Họ đã thống nhất quân đội, chính sách thương mại, tiền tệ duy nhất, và rất quan trọng là một Luật Phá sản duy nhất cùng với Luật bảo vệ cá nhân chống lại điều tra xét hỏi tịch biên bất hợp lý.

Xét đến tận gốc rễ, Naill nói rằng những thứ này đều liên quan đến đất đai. Theo suy xét thì Washington là một trong những người kiên định nhất đã tận lực thu lợi từ Cuộc chiến giành độc lập. Di chúc Ông thực hiện năm 1800 đã liệt kê 52.194 mẫu đất khắp nhiều vùng nước Mỹ. Naill kết luận: Bắc Mỹ thành công hơn Nam Mỹ thuần túy và duy nhất chỉ vì mô hình Anh với các quyền tư hữu đất đai được phân phối rộng rãi và chế độ dân chủ đã hoạt động tốt hơn so với mô hình TBN về tài sản tập trung & chủ nghĩa độc tài chuyên chế.

Y học

Đế quốc phương Tây vào đêm trước WWI thế nào? Anh chiếm ¼ bề mặt trái đất và ¼ dân số TG; Pháp nắm 9% đất đai TG; Nga mở rộng về phía vùng Cáp-ca-zơ, Siberia và Trung Á; Mỹ đánh chiếm Puerto Rico, Philippnes, Hawai & một số đảo TBD. Đến 1911, 11 đế quốc phương Tây chỉ có 10% diện tích bề mặt trái đất đã cai trị hơn một nửa TG: khoảng 57% dân số TG, tạo ra 4/5 sản lượng kinh tế toàn cầu.

Xâm chiếm, bóc lột, khai thác tài nguyên, đối xử tàn bạo … là điều không thể phủ nhận đối với những gì người phương Tây đế quốc đã làm. Ở chiều ngược lại, ta cũng phải thừa nhận phần còn lại của TG đã được hưởng những thành tựu từ y học phương Tây mang lại. Bằng chứng là tuổi thọ trung bình toàn cầu năm 1800 là 28,5; hai thế kỷ sau nó là 66,6 tuổi. Y học vĩ đại đã tạo ra vắc-xin, thuốc, kỹ thuật phẫu thuật, nối ghép, kháng sinh … Con người đã trở nên “miễn nhiễm” hơn rất nhiều.

TG chứng kiến Cuộc CM Pháp & Cuộc CM Mỹ. Edmund Burke, nhà tư tưởng chính trị vĩ đại Ireland, ủng hộ mạnh mẽ CM Mỹ; Ông không dành tình cảm đó cho cuộc CM Pháp do tính chất bạo lực đẫm máu của nó. Triết gia JJ.Rousseau (Khế ước XH) đề cao “ý chí tập thể phải là tối thượng”. Burke nghi ngờ và “hoảng sợ” trước lời bổ sung trong tuyên ngôn Dân quyền & Nhân quyền “Vì quyền tư hữu tài sản là một quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm, không ai sẽ bị tước đoạt mất nó trừ khi nhu cầu công cộng, được xác lập hợp pháp, cần đến nó”. Burke cho rằng “ý chí tập thể” là một cách chọn kẻ cai trị kém tin cậy hơn so với nguyên tắc kế thừa cha truyền con nối. Lịch sử đã xác nhận những tiên đoán và lo ngại của Ông là đúng.

Nhà trí thức quý tộc Alexis de Tocquevile (Democracy in America 1835 / The Old Regime and the Revolution 1856) lý giải sự khác biệt của 2 cuộc CM bởi 5 sự khác biệt căn bản giữa 2 XH:
– Pháp tập trung quyền lực ngày một tăng trong khi Mỹ là 1 liên minh tự phát từ XH công dân sinh động;
– Pháp có xu hướng đề cao ý chí tập thể hơn pháp luật trong khi Mỹ phản đối xu hướng này;
– Pháp tấn công tôn giáo & giáo hội, người ủng hộ CM của họ, trong khi Mỹ đã xây bức tường chống lại yêu cầu của thế lực thế tục;
– Pháp nhường lại quá nhiều quyền lực cho những trí thức vô trách nhiệm trong khi ở Mỹ những người thực dụng luôn giữ vững quyền lực tối cao;
– Người Pháp đã đặt “bình đẳng” lên trên “tự do” hay có thể ví họ đã đặt Rousseau lên trên Locke;
– Ông còn bổ sung thêm: Pháp say mê chiến tranh đến mức điên cuồng, coi khinh phúc lợi nhà nước đến nỗi một con người không còn xem mình là vinh dự đứng ra bảo vệ nó, dám hy sinh mạng sống vì nó.

Ông cho rằng với một nhà nước Pháp tập quyền mới dễ sản sinh ra một Napoleon hơn là nhà nước phân quyền như Mỹ. Người Pháp tiêu tốn nhân mạng gấp 20 lần Mỹ để bảo vệ cuộc CM của họ. CN đế quốc Pháp có đặc trưng chiến tranh kéo dài; Đế quốc Anh bảo thủ về mặt XH theo bản năng.
 
CN đế quốc đã truyền cảm hứng cho cả một thế hệ các phát minh y học châu Âu. Châu Phi đã trở thành Phòng thí nghiệm khổng lồ cho y học phương Tây. Song hành với các thực nghiệm, các đế quốc đã giúp bài trừ thói mê tín dị đoan trong chữa bệnh, cấm thầy lang, thực hiện chính sách y tế cộng đồng… Tháng 2.1905 Toàn quyền Roume đã ban hành sắc lệnh chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân bản địa – điều không hề có tại Pháp.

Sử chép lại cái được coi là “sự thật” nhưng hiểu và nghĩ về nó thế nào thì phụ thuộc vào mỗi người. Đằng sau những thành tựu về khoa học và y học mà phương Tây mang lại cho nhân loại, vẫn có góc tối của nó. Châu Phi vẫn còn một “phòng thí nghiệm” khác nữa, đó là thí nghiệm sinh học chủng tộc. Không ai đem lý thuyết đó vào thí nghiệm tàn bạo hơn người Đức ở Namibia (Tây-Nam Phi).

Cuộc khai hoá văn minh phương Tây đã quay về tính sổ với kẻ thù nguy hiểm nhất: chính mình. Cuộc chiến 1914-1918 là cuộc chiến của các đế quốc trên TG, nó là cuộc chiến bên trong nền văn minh Tây phương. Họ đã sử dụng chính những ứng dụng lợi hại của mình để chống lại chính mình. Chiến tranh là địa ngục nhưng nó cũng còn có thể là một động lực dẫn dắt sự tiến bộ: thành tựu phẫu thuật, sát trùng, ghép da, vắc-xin…

Khoa học y tế vốn giống một vị cứu tinh thần thánh trong cuộc chiến bệnh tật song nó cũng bị xuyên tạc bởi sự phân biệt chủng tộc và thuyết ưu sinh học giả khoa học, biến nhiều bác sỹ thành kẻ giết người. Vượt qua kỷ nguyên xấu xa này, một mô hình mới được hình thành – tập trung vào tiêu dùng.

Tiêu dùng

Cuộc cách mạng công nghiệp sẽ không thể bắt đầu ở Anh rồi lan khắp các nước phương Tây nếu không có sự phát triển đồng thời của một XH tiêu dùng – nhu cầu về quần áo giá rẻ. Công nhân vừa là người sản xuất đồng thời chính họ là người tiêu dùng. Xã hội tiêu dùng giống như một ứng dụng tuyệt vời mà quốc gia nào cũng muốn theo. Một trong những nghịch lý lớn nhất của lịch sử hiện đại là: một hệ thống được thiết kế nhằm mang lại sự lựa chọn vô hạn cho từng cá nhân cuối cùng lại làm cho nhân loại đồng nhất.

Công nghiệp hoá sớm ở Anh nằm ở chính trị & pháp luật. Những ưu thế về thể chế đã giúp nước Anh vươn lên. Có 2 điểm khác biệt khiến công nghiệp hoá ở Anh dễ dàng hơn các nước Bắc – Tây Âu khác chính là lương nhân công cao và than đá dồi dào dễ khai thác. Nhà tư bản Anh hiểu rõ sẽ là vô nghĩa nếu ép lương công nhân xuống thấp. Đỉnh điểm lương thực tế ở London gấp 6 lần ở Milan. Marx & Engels đã đánh giá thấp khả năng thích nghi của các nhà nước TK XIX, nhất là khi nó đã có thể tự hợp pháp hoá thành một quốc gia dân tộc.

Singer là ví dụ tiêu biểu cho lợi thế của Hoa Kỳ. Giữa các năm 1870-1913 tốc độ tăng trưởng Hoa Kỳ cao hơn Anh 80%. Việc ra đời máy khâu Singer là minh hoạ hoàn hảo cho sự tiến hoá của cuộc CM công nghiệp. Cũng giống như Marx, Singer làm thay đổi thế giới, khác là Marx không làm nó tốt hơn.

Phương Tây làm TG nhỏ lại. Nước xuất khẩu bông vải thứ 2 TG đã bắt đầu đua tranh ngoạn mục với phương Tây: Nhật Bản. Cuộc cách mạng trang phục của họ đã bắt đầu từ 1870 thời Minh Trị. Cảm hứng được lấy từ chuyến đi châu Âu & Mỹ nhiều tháng. Cùng với trang phục, họ sao chép mọi thứ: Hiến pháp nước Phổ, bản vị vàng giống Anh, hệ thống giáo dục kiểu Mỹ…

Anh phổ biến rộng rãi công nghệ ở tất cả các nước cai trị. Người Ấn Độ đã thấy máy dệt, máy hơi nước và đường sắt trước người Nhật rất lâu. Nhưng phát triển công nghiệp lại thất bại ở Ân Độ & Trung Quốc – nơi có giá nhân công rẻ. Sao vậy? Có lẽ câu trả lời nằm ở chỗ những người Â.Đ theo chủ trương dân tộc đã nỗ lực duy trì cách ăn mặc với chiếc khăn quấn quanh thắt lưng của Ghandi đến bộ Comple không cổ của Neru và chiếc khăn choàng Indira Ghandi. Có thể hiểu về tính thích nghi đối với phong cách Tây phương này giữa Â.Đ và Nhật Bản.

Theo các phân tích, Nhật Bản vừa kính trọng phương Tây về sự hiện đại vừa căm ghét nó về tính ngạo mạn. Để được đối xử ngang hàng, họ cần một thứ phụ gia nữa, điều đó đã sớm trở thành hiện thực – một đế quốc. Cuộc đụng độ đầu tiên với người phương Tây đó là trận chiến Nga – Nhật ở Mãn Châu 1904, Nhật Bản đã phát đi thông điệp “không hề tồn tại cái gọi là vận mệnh thống trị của phương Tây”. Tham vọng Đại Đông Á đã cho ta thấy người Nhật đã vươn lên là một cường quốc thế nào.

Ở một góc khác, cả Hitler và Stalin đều hứa hẹn tăng trưởng và việc làm nhờ sự kết hợp chủ nghĩa dân tộc & CNXH. Cả hai đã làm được. Năm 1938 tổng sản lượng Đức cao hơn 23% và của Liên Xô còn cao hơn. Năm 1939 dưới 100k người Đức không có việc làm so với khoảng 5 triệu người 4 năm trước đó. Hoa Kỳ lúc đó tỷ lệ thất nghiệp khoảng 12,5%. Nhưng với phân tích của các nhà kinh tế thì tăng trưởng ở các nước chuyên chế này không đồng nghĩa với tiêu chuẩn sống cao hơn. Mô hình đó không sử dụng biện pháp tăng chi tiêu công (mô hình Keynes) để kích cầu. Đúng hơn, nền kinh tế kế hoạch hoá đó chỉ động viên sức người vào công nghiệp nặng, hạ tầng cơ sở và vũ khí. Nó duy trì quá trình ấy bằng tiết kiệm cưỡng bức. Kết quả là tiêu dùng ngưng trệ. Họ lao động được trả lương nhưng không có hàng hoá để mua, chỉ còn lựa chọn là gửi tiết kiệm – nơi nó sẽ được quay vòng trở thành ngân quỹ nhà nước. WWII đã cho ta thấy cuộc chiến giữa 4 phiên bản của nền văn minh phương Tây là CNXH quốc gia, CNCS Xô viết, CNĐQ châu Âu và CNTB Hoa Kỳ. Tất cả đều buộc quyền tự do cá nhân phải phục tùng cái đích duy nhất là chiến thắng quân sự tổng lực với sự đầu hàng vô điều kiện của kẻ thù.

Suốt những năm đó, ta được chứng kiến rằng người lập kế hoạch đã làm tốt nhất việc đáp ứng vũ khí thiết yếu cho một khách hàng duy nhất là nhà nước. Nhưng họ lại không thể hy vọng việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của hàng triệu người tiêu dùng cá nhân với sở thích biến đổi không ngừng. Nền kinh tế Hoa Kỳ đã hồi sinh bằng những kích thích tài chính tiền tệ trong suốt cuộc chiến, đồng thời tránh được sự tàn phá và cướp bóc của chiến tranh tổng lực do vị trí địa lý. Nay bằng cách tạo ra và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nó được chứng minh là không thể đánh bại.

Chủ nghĩa bảo hộ người tiêu dùng đại trà với những tiêu chuẩn mà nó hướng đến có thể tương thích với chủ nghĩa cá nhân tràn lan chính là một trong những kế hoạch thông minh nhất mà nền văn minh phương Tây đã thực hiện. Ngắn gọn lại, phương Tây có 2 bước nhảy vọt về kinh tế đó là công nghiệp tiên tiến & XH tiêu dùng. Cả hai đều liên quan đến quần áo và may mặc. Đầu tiên họ làm ra chúng một cách hiệu quả, sau đó là mặc chúng thoải mái hơn.
 
Đạo đức lao động

Tiến trình 500 năm phương Tây đã vươn lên vị trị thống trị TG một cách ngoạn mục. Những năm 1990s, 5 cường quốc Mỹ, Liên hiệp Anh, Đức và Canada chiếm 44% tổng sản lượng toàn cầu. Cấu trúc thể chế phương Tây như tập đoàn, thị trường, quốc gia dân tộc đã trở thành tiêu chuẩn toàn cầu, là hình mẫu cho phần còn lại TG làm theo.

Một hình thái rất đặc thù của Kito giáo, phiên bản nảy nở cuối TK XVI ở Tây Âu, đã ban tặng cho nền văn minh phương Tây hiện đại nhân tố thứ 6 trong số những nhân tố then chốt giúp nó vượt lên phần còn lại của TG: đạo đức Tin Lành. Max Weber (1864-1920), cha đẻ môn XH học hiện đại và tác giả cụm từ “đạo đức Tin Lành”, đã giải thích thuyết phục nhất. Ông lý giải điều gì đặc biệt trong lời dạy của Luther và những người kế tục đã khích lệ dân chúng không chỉ lao động cần cù mà còn tích luỹ tiền bạc nữa.

Đi khắp nước Mỹ ông nhận thấy sự liên hệ thần thánh giữa thành tựu vật chất và đời sống tín ngưỡng sôi động nơi đây. Các tín đồ Tin Lành coi sản xuất và tiết kiệm là cách thể hiện lòng thành tín ngoan đạo của mình. Họ tin rằng làm việc hăng say là dấu hiệu chắc chắn nhất chứng tỏ một người nằm trong số những người được lựa chọn – nhóm được Chúa lựa chọn từ trước để cứu vớt. Đạo đức Tin Lành đã cung cấp cho nhà tư bản những công nhân lương tâm, điềm đạm, phi thường, hiến dâng mình cho công việc như ý nguyện thiêng liêng của cuộc đời. Weber gọi đây là sự nảy sinh “CNTB lương thiện” thiên về vật chất với việc tổ chức hợp lý các nguồn lao động tự do. Một sự thực lý thú về sự tiên đoán của Ông ” rằng các nước Tin Lành tại châu Âu tăng trưởng nhanh hơn so với các nước Công giáo”. Tư tưởng của Luther về tự đọc Kinh Thánh đã khuyến khích xoá mù chữ và in ấn – điều đã giúp cổ vũ sự phát triển kinh tế & nghiên cứu khoa học.

Tôn giáo & tín ngưỡng quan trọng. Theo Ông, “đạo lý bền vững” Khổng giáo đã đóng vai trò cho sự thất bại của Đế chế Trung Hoa khi không khuyến khích một cơ cấu thể chế cạnh tranh như cơ cấu đã thúc đẩy phương Tây đổi mới. Thực tế lịch sử cũng cho ta thấy quyền lực của các thầy tế và giáo sỹ Hồi giáo đã dập tắt mọi cơ hội thực hiện Cách mạng khoa học trong TG Hồi giáo. Ông cũng cho rằng Giáo hội Công giáo La Mã chính là trở lực đối với sự phát triển kinh tế ở Nam Mỹ. Đóng góp lớn nhất của tôn giáo vào lịch sử văn minh phương Tây không chỉ là lao động cần cù mà còn là tiết kiệm & đọc sách.

Nhưng gần đây nhiều nhà quan sát đang đặt ra câu hỏi “có phải phần lớn phương Tây ngày nay đã mất đi hai thứ: tín ngưỡng và đạo đức tín ngưỡng?”

Người châu Âu hiện nay là những người nhàn rỗi, họ làm việc ít hơn người Mỹ và càng ít hơn người châu Á. Thống kê 1980-2010, tỷ lệ người thất nghiệp châu Âu lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên TG. Họ cũng có khuynh hướng tham gia biểu tình nhiều hơn. Giai đoạn 2000-2009 người Mỹ làm việc khoảng 1711 giờ mỗi năm, con số này người Đức là 1437, người Nhật / Hàn Quốc / Singapore / Hôngkong nhiều hơn người Mỹ khoảng 1/3. Ngạc nhiên hơn là người châu Âu không những làm việc ít đi mà còn cầu nguyện ít hơn, tin đạo ít hơn. Từng có thời gian châu Âu coi mình là một cộng đồng Kito giáo. Họ đi khắp nơi nhằm cải hoá con người thành tín đồ chân chính. Giờ đây theo thống kê, chính họ lại là những kẻ ngoại đạo.

Khảo sát Giá trị TG 2005-2008 cho thấy chỉ có 4% người Nauy & Thuỵ Điển, 8% Pháp & Đức dự lễ nhà thờ mỗi CN hàng tuần; tỷ lệ này ở Mỹ 36%, 44% Ấn Độ, 48% ở Brazil và 78% ở châu Phi hạ Sahara. Khảo sát “Đức Chúa Trời rất quan trọng” với dân chúng ở Đức & Hà Lan là 10%, Pháp cao hơn chút, Mỹ là 58%, Mỹ Latinh và châu Phi hạ Sahara còn cao hơn. Anh là con số đáng suy ngẫm, họ là người truyền bá tư tưởng tôn giáo vào TK XIX, ngày nay chỉ 17% người Anh dự lễ nhà thờ ít nhất 1 lần trong tuần, tỷ lệ này cao hơn lục địa nhưng thấp hơn nhiều so với người Mỹ. Trên 1 số phương diện, Anh là một trong những XH vô thần nhất với 56% dân số không bao giờ dự lễ nhà thờ.

Một số nhìn nhận về việc “ai đã giết chết Kito giáo ở châu Âu, có phải chính linh hồn của CNTB đã tàn phá đạo đức Tin Lành – người thân sinh ra nó?”

Lev Tonstoy bày tỏ về mối xung khắc cơ bản giữa lời dạy của Đức Chúa Kito và những điều kiện sống hàng ngày mà ta gọi là văn minh, văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Vậy thì điều gì là thù địch với tôn giáo? Có phải là sự thay đổi vai trò phụ nữ và sự tụt giảm số lượng các gia đình hạt nhân, vốn cũng có lẽ lý giải sự nhỏ lại quy mô gia đình và suy giảm dân số phương Tây? Hay là nhận thức khoa học mà thuyết Darwin là ví dụ cho việc làm hỏng câu chuyện tạo hoá thiêng liêng của Kinh Thánh? Có phải sự nâng cao tuổi thọ, điều đã khiến cho TG bên kia không còn là nỗi sợ hãi? Hay Kito giáo đã bị giết chết bởi nỗi ám ảnh kinh niên về nền văn hoá hiện đại.

Sigmund Freud, người Do Thái Moravia, cha đẻ môn phân tâm học, cho rằng tôn giáo không phải là thứ dẫn dắt thành công của nền văn minh phương Tây, vì nó thực ra chỉ là một thứ “ảo tưởng”, một “chứng loạn thần kinh phổ quát” được bịa ra để ngăn ngừa dân chúng tránh xa khỏi bản năng của họ – nhất là khao khát tình dục và sự thôi thúc bạo lực, huỷ diệt họ.

Với tất cả các giả thuyết, cho dù chúng có thể lý giải điều gì đó khiến châu Âu với xu thế biến mất của đạo Tin Lành, từ bỏ Kito, thì chúng lại chẳng giải thích được điều gì về sự tiếp tục của đức tin Kito giáo ở Mỹ. Dường như văn minh phương Tây được chia làm đôi: một châu Âu không kính Chúa ở phía Đông và một nước Mỹ kính Chúa ở phía Tây. Lý giải sao đúng vào lúc niềm tin Kito giảm sút tại châu Âu thì điều đó lại kiên định ở Mỹ? Câu trả lời ở chỗ: sự cạnh tranh giữa các hệ phái tôn giáo (Tin Lành, Phúc Âm, Tin mừng…) trong một thị trường tôn giáo tự do khích lệ những đổi mới nhằm làm cho trải nghiệm thờ phụng và việc đóng vai trò là thành viên giáo hội được viên mãn hơn.

Câu chuyện về Springfield, Missouri cứ 1000 người dân thì có một nhà thờ các hệ phái. Tổng cộng có khoảng 400 nơi thờ phụng cho dân chúng. Điều quan trọng là tất cả nhà thờ này đều tham gia vào quá trình cạnh tranh giành linh hồn rất găy gắt. Theo Nial, nghiên cứu cho thấy: trong khi ở châu Âu Cuộc cải cách tôn giáo đã bị dân tộc hoá với việc thành lập Giáo hội Anh quốc hay Giáo hội Trưởng lão E-cot, thì ở Hoa Kỳ luôn có sự tách biệt rành rọt giữa tôn giáo & nhà nước, cho phép cạnh tranh cởi mở giữa nhiều hệ phái. Sự chuyên chế nhà nước luôn không mang lại hiệu quả cả trong kinh doanh & tôn giáo.

Ở Trung Quốc, giờ đây nhà thờ được xây dựng nhanh hơn, Kinh Thánh được in ra nhiều nhất TG. Dự báo sau vài ba thập kỷ nữa người theo Kito giáo sẽ chiếm khoảng 20-30% dân số. Điển hình là Ôn Châu – Chiết Giang, là một thành phố công nghiệp tinh hoa, nơi thị trường tự do làm chủ và vai trò nhà nước là tối thiểu. Thú vị ở chỗ Ôn Châu không chỉ nhập khẩu “cấu trúc kinh tế TB phương Tây” mà còn nhập khẩu đạo Tin Lành. Người ta gọi Ôn Châu là Jerusalem Trung Hoa. Trước CM Văn hoá chỉ có 480 nhà thờ, nay con số này là 1339. Giới chủ tư bản là tín đồ Kito nhận xét rằng họ có thể cảm thấy tin tưởng những Kito hữu làm việc cho họ, vì họ vừa chăm chỉ vừa trung thực trong bối cảnh Trung Quốc đang chuyển biến từ CNCS sang CNTB, ở đó “chữ tín” là của hiếm. Thậm chí có người còn nói rằng ngay trước khi rút, Giang Trạch Dân đã nói với một nhóm quan chức rằng, nếu có thể ban hành một sắc lệnh, mà Ông tin sẽ được tuân theo ở TQ, đó là “hãy biến Kito giáo thành tôn giáo chính thức ở TQ”. Người kế tục Ông, Hồ Cẩm Đào, đã chủ trì cuộc họp chưa có tiền lệ với 25 quan chức cao cấp nhất rằng “Tri thức và sức mạnh của quần chúng có tín ngưỡng cần được tập hợp lại để xây dựng một XH phồn vinh”.

Mối liên kết giữa tinh thần TBCN và đạo đức Tin Lành đã góp phần quan trọng cho sự cất cánh của Ôn Châu.

Cuộc khủng hoảng tài chính 2006-2007 xuất phát từ “cho vay tiêu dùng quá mức bất động sản” dẫn đến nhà nước phải ra tay cứu trợ, đã biến nợ Tư thành nợ Công. Chủ nghĩa tiêu dùng Mỹ bị lên án, cái mà đã từng là nền tảng tạo nên nền văn minh phương Tây. Không chỉ các nhà thờ châu Âu vắng hoe mà còn có cảm giác nghi ngờ giá trị của những gì đã phát triển châu Âu sau cải cách. Sự cạnh tranh TBCN đã bị ô danh do khủng hoảng tài chính gần đây và lòng tham cuồng bạo của những ông chủ ngân hàng. Đế chế bị coi như một từ xấu xa. Tất cả có nguy cơ bị bỏ lại với một XH tiêu dùng vô ý thức và một thứ văn hoá “chủ nghĩa tương đối” – một thứ văn hoá cho rằng mọi lý thuyết và quan niệm dù kỳ quái đến đâu cũng chỉ tốt chừng nào nó còn được tin tưởng. Vô Thần!

Tất nhiên văn minh phương Tây không hoàn hảo. Mỗi đế quốc phương Tây đều đóng góp phần nào tội ác vào lịch sử. Nhưng món đồ Tây này vẫn có vẻ như vẫn được ưa chuộng và đóng góp tính ưu việt của nó cho phần còn lại. Xuyên suốt cuốn sách gần 500 trang, trả lời cho câu hỏi Tại sao phương Tây văn minh hơn phần còn lại? Nó là do 6 ứng dụng tuyệt vời:
(1) Cạnh tranh
(2) Cuộc CM khoa học
(3) Pháp trị và chính phủ đại diện
(4) Y học hiện đại
(5) Xã hội tiêu dùng
(6) Đạo đức lao động: lao động hiệu quả, cường độ cao, tiết kiệm cao hơn = bền vững

Naill kết luận: “Ngày nay cũng như sau này, mối đe doạ lớn nhất đối với văn minh phương Tây không phải do các nền văn minh khác mang lại, mà chính bởi sự nhu nhược yếu hèn của chúng ta và sự dốt nát về lịch sử đã nuôi dưỡng nó.”

Rất thích câu “Nếu chúng ta muốn mọi thứ vẫn như chúng vốn có, thì mọi thứ phải thay đổi” – Tiểu thuyết lịch sử của The Leopard của Giuseppe Tomasi di Lampedusa

Rõ là Tự do: sự tôn trọng quyền tự do của con người là cốt lõi.

Phải tiếp tục đi, đọc và học.
 
T nghĩ gốc nằm ở nền tảng triết học. Phương tây từ trước công nguyên nó đã có một nền triết học phát triển, qua đó thúc đẩy người dân khám phá thế giới, phản biện lại thực tại. Phương đông k có một nền triết học mang tinh thần đó. Nhất là TQ sau thời KHổng nho phát triển thì nó lụi cmn nó tinh thần đó rồi.
 
Bài dài quá, đọc không hiểu gì hết. Có thể tóm tắt cho tôi không ?
 
tao thich nhat phuong tay la ...bu lol, deo me, chau a, trung quoc, vn....xua kia thi che....nay cung bat chuoc. kaka
 
Tóm gọn lại thì cạnh tranh chính là động lực để đất nước tiến lên. Khi ko còn cạnh tranh nữa thì sẽ dẫn tới suy thoái vậy thôi. Đó chính là lý do tụi Mỹ mặc dù đứng ở đỉnh cao trật tự TG vẫn ko những ko ngừng chấp nhận cạnh tranh nội bộ mà còn liên tục tạo ra các đối thủ, dù xứng đáng hay chỉ là tưởng tượng để tạo động lực cạnh tranh.
 
Phương Tây vĩ đại vì nó sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại. Những bộ não đi trước thời đại, tạo ra cuộc chơi.
Dân thì cũng bình thường thôi. Nhưng đám đầu não nó giỏi.

Muốn quản lý một xã hội cả trăm triệu người theo khuôn khổ ko chỉ có pháp luật và sự hà khắc. Sớm muộn cũng sẽ bị đám dân nổi điên lật đổ.
Thế là đám đầu não tạo ra tôn giáo, dùng tâm linh để soát trật tự.
Vì bạo lực chưa chắc dân sợ, chỉ sợ những thứ vô hình, rằng nếu mày thế này thế kia sẽ bị xuống địa ngục..bla..bla.

Đó là một ví dụ nhỏ.
 
chỉ có cạnh tranh mới tiến bộ...còn không thì miễn.tất cả đều phải đánh đổi bằng chiến tranh-bệnh tật v.v...ngay cả thiên nhiên cũng vậy muốn phát triển mạnh cũng phải tự huỷ mới mạnh hơn hiện tại.
 
Dài quá, ngạiđọc. Tôi nghĩ do ChâuÂuđiăn cướp thuộcđịa nên mới giàu, người giàu nói gì haylàm gì chẳngđúng. :embarrassed:
 
phương Tây nó tiến bộ cực thịnh ngay từ thời La Mã cổ đại rồi mà
 
Dài quá, ngạiđọc. Tôi nghĩ do ChâuÂuđiăn cướp thuộcđịa nên mới giàu, người giàu nói gì haylàm gì chẳngđúng. :embarrassed:
Vấn đề đang đặt ra là tại sao lại là nó đi ăn cướp thuộc địa mà ko phải là tụi khác.

Cá nhân tao thì thấy do tụi nó dũng cảm chúng mày ạ. Cứ chế độ nào hay cái gì chúng nó ko hài lòng thấy sai là chúng nó đứng dậy đấu tranh để thay đổi. Nhà thờ ngày xưa có mạnh có ác ko? Ác vkl còn hơn cs bây giờ nhiều mà ko dập được Phong trào Phục Hưng. Các vua chúa của chúng nó có ác ko? Ác vkl ra nếu thằng nào chịu nghiên cứu lịch sử nhưng đều bị chặt đầu hoặc giết nếu ko biết đường thoả hiệp như vua Anh, vua Thụy Điển.

Phải nói chúng nó xứng đáng với những gì chúng nó đang được hưởng. Chúng nó đã hi sinh vô số mồ hôi xương máu để dành được đấy ko phải miễn phí đâu.
 
tao không nghi ngờ gì nữa " đó là nhờ hào quang và ánh sáng của Đảng"
 
Cạnh tranh không phải là động lực , mà dục vọng và sự ham muốn bất tận mới thực sự là động lực cho phương Tây . Quyển sách này chỉ viết về 1 mặt , mặt còn lại của phương Tây là gì , chiến tranh , giết chóc , diệt chủng , khát dục . Làm sao mà một chủng người với khát vọng tầm thường , dục vọng thấp hèn , ham muốn hạn chế mà lại có thể làm nên những thứ vĩ đại nếu chỉ đơn giản là áp dụng cơ chế của sự cạnh tranh được . Không thể !

Muốn vươn lên thì chỉ có duy nhất 1 cách là tìm cách khuyếch đại bản năng của mình lên , lên càng cao càng tốt , dùng lý trí để tự nói cho bản thân xem , mình phải làm gì để thỏa mãn mình ? mình thèm địt ư , vậy thì đi quyến rũ gái đi , dùng lời nói , dùng cử chỉ , mùi cơ thể , dùng tiền đưa gái đi địt . Mình muốn tiền ư , vậy làm việc đi cày cuốc nhiều vào . Muốn giàu có ư , vậy phải làm việc thật thông minh vào , nghĩ ra các phương pháp để tạo ra thật nhiều giá trị , để giải quyết vấn đề .
Nền kinh tế Mỹ đang bùng nổ dựa trên gì ? đó là tiêu thụ hàng hóa , cái thứ cốt lõi của việc này là gì ? là nhu cầu không có giới hạn của con người , lòng ham muốn bất tận về vật chất . Thiếu đi dục vọng như các sắc dân ở những vùng nóng ẩm , hoặc kiềm chế dục vọng và bản năng như văn hóa Trung Hoa , hoặc dục vọng thấp do của cải từ tự nhiên nhiều , không phải phấn đấu như thổ dân châu Mỹ thì không bao giờ có thể vươn lên được .
Hãy nhớ , dù cho thơ ca , triết học , âm nhạc , hội họa có tô điểm những thành tựu , những tri thức của con người như thế nào đi nữa thì chỉ có duy nhất một ngọn đuốc soi sáng cho loài người suốt hàng ngàn năm qua thôi . Đó là bản năng , là ham muốn sống, ham muốn sở hữu , ham muốn địt. là dục vọng !

Chỉ cần cơ chế khuyếch khích bản năng và giáo dục để làm chủ bản năng thôi
 
Sửa lần cuối:

Có thể bạn quan tâm

Top