Little$King Tran ✓
Chú bộ đội
VĂN MINH
phương Tây & phần còn lại của thế giới
(Civilization – The West and The Rest)
Naill Ferguson
Có ai đã từng hỏi:
– Tại sao phương Tây văn minh?
– Tại sao cùng là người phương tây di cư đến châu Mỹ mà lại có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ & Nam Mỹ (trừ Mexico)?
– Trung hoa, từng có nhiều phát minh cho nhân loại… từng được gọi là “nền văn minh”, giờ sao thế nhỉ?
– Nước Nga, một phần của châu Âu, to lớn vậy, giờ sao thế nhỉ?
– Các nước Hồi giáo, đặc biệt Hồi giáo Trung đông từng là “nền văn minh”, sao thế nhỉ?
– Và nhiều câu hỏi kiểu này…
Thời sự nổi bật với Venezuela hỗn loạn, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, Brexit, biểu tình “áo vàng” tại Pháp… Cảm hứng từ chuyến đi về miền quê Australia. Khai xuân với đề tài về thế giới văn minh, lựa chọn là cuốn “VĂN MINH phương Tây & phần còn lại của thế giới”
Ai cũng biết đến di sản vĩ đại của hàng ngàn năm trước – các Kim tự tháp Ai Cập mà điển hình là tháp Giza. Nó được tạo thành bởi khoảng 2,3 triệu khối đá, mỗi khối nặng chừng 50 tấn, Giza cao cỡ 140m… rồi 2 lần chiều cao chia cho diện tích đáy bằng đúng số Pi – hằng số mà Archimedes được cho là người phát hiện ra mãi sau này. Siêu tưởng tượng!
Hôm nay, cầm iPhone trên tay, ai cũng kinh ngạc bởi tính năng và tác dụng của nó. Một trong những từ thường xuất hiện ngay lập tức đó là “văn minh thật”. Nguyên nghĩa nó là “một cái alo” nhưng lại được tích hợp để là rất nhiều thứ: Computer, Calculator, TV, máy thu phát âm nhạc, thư viện, la bàn, bản đồ, trung tâm khí tượng thủy văn … nằm gọn trong lòng bàn tay mà hầu như ai cũng sử dụng được.
Những thứ này chắc chắn không thể được tạo ra bởi chỉ một cá nhân mà bởi Một Nền Văn Minh.
Hiểu thế nào thì hiểu, chỉ biết rằng một nền văn minh được tạo ra trong một khoảng thời gian rất dài bởi rất nhiều người. Bên cạnh các di sản hữu hình, nó còn phải được nhìn nhận bởi các giá trị vô hình như thẩm mỹ, tinh thần, chất lượng cuộc sống, ngôn ngữ…
Naill nói về phương Tây thế nào?
Vào khoảng năm 1500, các đế quốc tương lai của Châu Âu chỉ chiếm khoảng 10% bề mặt thế giới và cùng lắm chiếm 16% dân số toàn cầu; đô thị lớn nhất TG bấy giờ là Bắc Kinh có khoảng 700k dân; Top 10 đô thị lớn nhất lúc đó chỉ có Paris là thuộc Châu Âu với dân số xấp xỉ 200k; London lúc này chỉ khoảng 50k dân. Hơn 400 năm sau, vào thập niên 1913s, 11 đế quốc phương Tây kiểm soát khoảng 3/5 tổng lãnh thổ & dân số, hơn ¾ sản lượng kinh tế toàn cầu; Châu Á chỉ có 1 đô thị lớn duy nhất là Tokyo trong Top 10; London lúc này đã trở thành đại đô thị toàn cầu với dân số khoảng 6,5 triệu. Sau ngót 100 năm nữa, ngôi thống trị của phương Tây không suy tàn sụp đổ mà khoảng cách với phương Đông ngày càng nới rộng bởi sự trỗi dậy của Hoa Kỳ; năm 1990 một người Mỹ trung bình giàu có gấp 73 lần một người Trung Quốc trung bình.
Kết quả là nền văn minh phương Tây đã trở thành mẫu hình mà phần còn lại TG mong mỏi đi theo, trong đó điển hình là Nhật Bản ở phương Đông.
Tại sao?
Naill Ferguson tóm lược 6 nhân tố tạo nên sự khác biệt của phương Tây với phần còn lại của TG:
1. Cạnh tranh: sự phi tập trung hoá đời sống chính trị và kinh tế, từ đó tạo cơ sở cho các nhà nước dân tộc và CNTB;
2. CM khoa học: một phương thức nghiên cứu, tìm hiểu và cuối cùng làm thay đổi TG tự nhiên. Nó mang lại ưu thế quân sự cùng nhiều thứ khác so với phần còn lại;
3. Quyền tư hữu đất đai (pháp trị & CP đại diện): luật pháp bảo vệ sở hữu tư nhân, giải quyết trong hoà bình đối với các tranh chấp – nền tảng cho hình thái bền vững của chính phủ đại diện;
4. Y học: ngành khoa học cải thiện quan trọng về sức khoẻ & tuổi thọ;
5. Xã hội tiêu dùng: phương thức sinh hoạt vật chất trong đó hoạt động sản xuất và mua sắm đóng vai trò trung tâm;
6. Đạo đức lao động: một khuôn khổ đạo đức và phương thức hoạt động xuất phát từ Tin lành & các nguồn khác. Nhân tố này là chất keo kết dính đối với XH năng động và đầy bất ổn tiềm tàng được hình thành từ việc ứng dụng 5 yếu tố phía trên.
Ông nhấn mạnh sự khác biệt then chốt nằm ở thể chế. Tây Âu bắt kịp và vượt Trung Hoa một phần quan trọng là do phương Tây có nhiều sự cạnh tranh hơn cả về chính trị lẫn kinh tế. Thế kỷ XX đã thực hiện một loạt “thí nghiệm” theo đó các thể chế khác nhau đã áp dụng cho 2 khối người Chinese ở bên trong và ngoài Trung Hoa; Nam – Bắc Triều Tiên; Đông – Tây Đức. Bài học đã quá rõ!
Phương Tây bao hàm nhiều thứ hơn chứ không chỉ về địa lý. Đó là hàng loạt các tiêu chuẩn, hành vi và thể chế với ranh giới rất mờ ảo. Samuel Huntington (tác giả cuốn Sự va chạm giữa những nền văn minh) giới hạn phương Tây ko bao gồm Nga và các nước Chính thống giáo; nó chỉ gồm Tây & Trung Âu, Bắc Mỹ trừ Mexico, và Úc.
Cạnh tranh
Naill lý giải về nền văn minh phương Tây bắt đầu từ “cạnh tranh” trong khung 6 nhân tố trên, điển hình bằng việc so sánh với Trung Hoa – nơi từng là một trong 5 trung tâm phát nguyên xã hội loài người cổ đại và đã là quốc gia công nghệ hàng đầu vào TK 15. Rằng cách đây chừng 30 năm, ai mà tiên đoán trong nửa thế kỷ Trung Hoa sẽ là nền kinh tế lớn nhất TG, chắc bị cho là điên khùng; ngược trở về năm 1420, bạn mà tiên đoán Tây Âu sẽ có ngày sản xuất lớn hơn toàn bộ Châu Á và trong vòng 500 năm sau thu nhập bình quân đầu người Anh cao gấp 9 lần Trung Hoa, bạn sẽ bị xem là mất trí.
Giờ thì ai cũng biết rằng người Trung Hoa đã có hàng loạt phát minh cho nhân loại như đồng hồ, la bàn, lưỡi cày, giấy, máy in, hóa chất khử trùng … Các nghiên cứu còn cho thấy Cuộc cách mạng công nghiệp đã được báo trước ở Trung Hoa từ rất sớm: lò luyện kim đầu tiên để luyện sắt không phải ở Coalbrookdale năm 1709 mà là ở Trung Hoa năm 200 tr.CN; chính Trung Hoa đã cách mạng hóa ngành dệt sau đó du nhập vào Italy TK XIII; người ta thường cho rằng Jethro Tull (Anh) đã phát minh ra máy xay bột mì 1701 nhưng thực ra người Trung Hoa đã sáng chế ra nó hơn 2000 năm trước; ngạc nhiên hơn khi tìm thấy tài liệu Hỏa Long Kinh (Huolongjing) xuất bản TK XIV đã mô tả địa lôi, thủy lôi, tên lửa và đạn rỗng nhồi thuốc nổ. Như vậy là trước triều Minh vĩ đại rất lâu, văn minh Trung Hoa đã vượt lên trước TG nhờ các đổi mới công nghệ.
Câu chuyện về hạm đội của Đô đốc Trịnh Hòa thời Vua Vĩnh Lạc đầu TK XV đã cho thấy sự phát triển vượt trội của Trung Hoa so với TG thế nào. Hạm đội gồm hơn 300 chiến thuyền, 28.000 thủy thủ – lớn hơn bất kỳ hạm đội nào từng thấy ở phương Tây cho đến WWI. Chiếc thuyền Columbus 1492 chỉ bằng 1/5 so với chiếc thuyền trong hạm đội Trịnh Hòa. Hạm đội của Ông đã giương buồm khắp ĐNÁ, Ấn Độ, châu Phi, Trung Cận Đông. Theo Adam Smith (bằng chứng bia khắc) thì mục đích ở đây là phô trương sức mạnh & quyền lực. Việc phái một hoạn quan đến bờ biển Đông Phi năm 1416 được ví như người Mỹ chinh phục mặt trăng năm 1969. Rất tiếc, Vĩnh Lạc chết, người kế vị đã ra sắc lệnh cấm phát triển hàng hải. Từ 1500 ai bị phát hiện đóng thuyền có 2 cột buồm trở lên sẽ bị tử hình. Một cá nhân quyết định tất cả. Trung Hoa bắt đầu một thời kỳ tụt hậu.
Cùng thời đó phương Tây thì sao:
– Sông Thames so với sông Dương Tử được ví như ao tù;
– Kỹ thuật hàng hải Anh rất thô sơ, chỉ loanh quanh vùng nước chật hẹp;
– Nơi ở của Vua Anh Henry V 1421 chỉ là một thị trấn với vách tường chắp vá dài 3 dặm;
– Đại dịch Black Death 1439 làm cho dân số London chỉ còn khoảng 40.000 bằng 1/10 dân số Nam Kinh; đường phố không có hệ thống cống rãnh;
– Tuổi thọ trung bình dân châu Âu thời kỳ 1540 – 1800 là 37, riêng Anh là 20; Vua Henry V lên ngôi năm 26, chết vì kiết lỵ năm 35 tuổi;
– Chiếc cầu sắt cổ nhất TG không phải ở Anh mà là ở Trung Hoa;
– Đến năm 1788 sản lượng sắt của Anh còn thấp hơn Trung Hoa năm 1708 và còn nhiều thứ khác nữa…
Nhưng 1492 Columbus đã đến châu Mỹ; ngày 8.7.1497 Vasco da Gama (BĐN) ra khơi và tháng 2.1498 đặt chân đến Malindi châu Phi, rồi Ấn Độ… mở ra con đường giao thương. Tiếp đó người Tây Ban Nha chiếm tân thế giới, thiết lập tiền đồn ở Philippines. Người Hà Lan, Pháp, Anh, Nga cùng lao vào xâm chiếm các vùng đất mở rộng giao thương, buôn bán.
Trung Hoa đang hưng thịnh, đóng cửa, quyết định bởi 1 cá nhân vị hoàng đế. Châu Âu u tối, bệnh dịch, chiến tranh liên miên, đua nhau mở mang giao thương nhằm tìm lối thoát. Mấu chốt nằm ở chỗ “cạnh tranh”: nhìn bản đồ từ vùng biển miền Tây tới Baltic rồi Địa Trung Hải, thấy hàng trăm nước châu Âu, hàng nghìn tổ chức nhà nước đang tranh giành nhau. Naill nói rằng chiến tranh dẫn tới 3 vấn đề: thứ nhất nó thúc đẩy đổi mới quân sự; thứ hai chiến tranh liên miên nói lên rằng họ đã biết nâng tổng thu nhập hầu bù đắp chiến phí; cuối cùng việc xung đột hết đời này sang đời khác cho thấy không có 1 vương triều châu Âu nào đủ mạnh để có thể cấm đoán việc chinh phục đại dương như người Trung Hoa.
Lời đáp chính là “địa lý”. Sự vỡ vụn chính trị, cạnh tranh bên trong lòng châu Âu hóa ra lại ngăn chặn sự xuất hiện một cái gì đó mơ hồ giống như Đế chế Trung Hoa. Sự chia vụn này hóa ra lại có thể giúp châu Âu thống trị TG.
Khoa học
Vương quốc Hồi giáo Caliphate được dựng lên TK VIII kéo dài từ TBN – Bắc Phi – Ả Rập – Syria – Caucasus – quay về Ba tư & Afghanistan. Phương Tây mang một món nợ với thế giới Hồi giáo Trung cổ khi được kế thừa những tinh hoa tri thức cổ xưa: vẽ bản đồ, y học, triết học, toán học, quang học. Triết gia người Anh Roger Bacon (1214-1294) còn nhấn mạnh rằng “triết học có nguồn gốc từ người Hồi giáo”.
Vậy sao thế giới Hồi giáo lại tụt hậu? Ottoman là đế chế kế thừa chuẩn mực của đạo Hồi từ khi họ chiếm được Constantinople 1453. Ottoman đại diện cho cuộc chiến khốc liệt tôn giáo với người Kito. Sử viết rằng 2 lần thất bại trong việc bao vây thành Vienna đã đánh dấu cho kết thúc tham vọng đế chế lâu dài Ottoman. Đến những năm 1697 người Ottoman bị đuổi ra khỏi hầu hết vùng đất châu Âu mà họ đã chiếm được. Sultan độc tài, sa sút phẩm cách, tham nhũng, tranh chấp tôn giáo nội bộ đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế. Đồng thời lúc này, phương Tây trỗi dậy.
Những năm sau 1683, cách phương Tây tư duy trong khoa học tự nhiên và cai trị đã thay đổi sâu sắc: Issac Newton xuất bản cuốn Principia (những nguyên lý); 1690 John Locke xuất bản cuốn Second Treatise of Government (chuyên luận thứ 2 về cai trị). Sự khác biệt giữa phương Tây & phương Đông ở đây chính là sự theo đuổi & áp dụng một cách có hệ thống, sâu sắc tri thức mới mẻ. Naill nhấn mạnh rằng TK XV do cạnh tranh về chính trị & kinh tế đã tạo cho phương Tây những ưu thế căn bản vượt trội so với Trung Hoa. Đến TK XVIII sự đe dọa của phương Tây với phương Đông nằm ở “trí lực & hỏa lực”.
Cuộc cách mạng công nghiệp phương Tây lại được phân tích dưới khía cạnh tôn giáo, ở chỗ giáo lý Kito phân biệt giữa Nhà thờ (Giáo hội) và Nhà nước (Thế quyền): “trả lại Ceasar những gì của Ceasar và trả lại cho Chúa những gì của Chúa”; nó khác biệt hoàn toàn với giáo huấn Đạo Hồi trong kinh Koran rằng không thể phân chia giữa Luật của Chúa với cấu trúc quyền lực. Mô tả sơ lược sự phân biệt giữa Thế quyền & Thần quyền này vào TK XV đảm bảo cho nhà cai trị châu Âu có thể chống lại những yêu sách chính trị của Giáo hoàng.
Thời kỳ phục hưng nhiều tri thức cổ điển đã được tái hiện nhờ sự tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Cuộc cải cách Kito sau đó gắn với Cuộc cách mạng ngành in đã tạo nên thời kỳ cách tân công nghệ tiền Cách mạng công nghiệp. Chính nhờ ngành in mà những lời giao giảng, những tranh luận cải cách tôn giáo mới được phổ biến rộng rãi. Theo đó nhà thần học Đức Luther Martin đã truyền tải được rộng rãi thông điệp “chỉ có lòng trung thực – không cần chứng minh – cho ta tự do và cứu rỗi” và rằng tất cả mọi người đều là “linh mục vĩnh viễn…xứng đáng trình diện trước Chúa, cầu nguyện cho người khác và dạy cho nhau những lời Đức Chúa dạy bảo”. Quan điểm về “linh mục tự phong của mọi tín hữu” này tự nó đã rất cấp tiến. Nhưng chính ngành in ấn bùng nổ đã giúp nó sinh sôi nảy nở.
Những năm sau 1500, Kinh thánh được dịch sang tiếng Anh, hàng ngàn các tác phẩm cổ điển, công trình khoa học & toán học được in ấn phổ biến rộng rãi. Điển hình là cuốn Micrography (kính hiển vi) của Thomas Hooke (1635-1703), đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa duy nghiệm khoa học. Việc Hooke sử dụng từ “tế bào” như đơn vị nhỏ nhất của thể hữu cơ là một trong hàng loạt đột phá nhận thức xuất hiện khiến những hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên phải mang ra định nghĩa lại. Cuộc cách mạng khoa học đã bắt đầu với những tiến bộ gần như đồng thời trong việc nghiên cứu sự vận động của hành tinh & tuần hoàn máu. Kính hiển vi đã đưa khoa học lên hàng tiên phong qua việc khám phá ra những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Cuối cùng là cuộc cách mạng về triết học khi Rene Descartes & Baruch Spinoza vứt bỏ các lý tuyết truyền thống trong cả 2 lĩnh vực: nhận thức và lý trí.
Vào giữa những năm 1600, tri thức khoa học được phổ biến rộng rãi với tốc độ chóng mặt bởi sự thúc đẩy của nghề in ấn & thư tín. Trong khi các phát minh khoa học then chốt được xuất hiện ở châu Âu thì điều này dường như không thấy xuất hiện ở đế chế Ottoman. Lời giải thích tối thượng cho sự khác biệt này nằm ở chỗ quyền tối thượng của tôn giáo trong thế giới Đạo Hồi. Việc cố gắng dùng khoa học lý giải những “điều thiêng liêng của thượng đế” bị coi là báng bổ.
phương Tây & phần còn lại của thế giới
(Civilization – The West and The Rest)
Naill Ferguson
Có ai đã từng hỏi:
– Tại sao phương Tây văn minh?
– Tại sao cùng là người phương tây di cư đến châu Mỹ mà lại có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ & Nam Mỹ (trừ Mexico)?
– Trung hoa, từng có nhiều phát minh cho nhân loại… từng được gọi là “nền văn minh”, giờ sao thế nhỉ?
– Nước Nga, một phần của châu Âu, to lớn vậy, giờ sao thế nhỉ?
– Các nước Hồi giáo, đặc biệt Hồi giáo Trung đông từng là “nền văn minh”, sao thế nhỉ?
– Và nhiều câu hỏi kiểu này…
Thời sự nổi bật với Venezuela hỗn loạn, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, Brexit, biểu tình “áo vàng” tại Pháp… Cảm hứng từ chuyến đi về miền quê Australia. Khai xuân với đề tài về thế giới văn minh, lựa chọn là cuốn “VĂN MINH phương Tây & phần còn lại của thế giới”
Ai cũng biết đến di sản vĩ đại của hàng ngàn năm trước – các Kim tự tháp Ai Cập mà điển hình là tháp Giza. Nó được tạo thành bởi khoảng 2,3 triệu khối đá, mỗi khối nặng chừng 50 tấn, Giza cao cỡ 140m… rồi 2 lần chiều cao chia cho diện tích đáy bằng đúng số Pi – hằng số mà Archimedes được cho là người phát hiện ra mãi sau này. Siêu tưởng tượng!
Hôm nay, cầm iPhone trên tay, ai cũng kinh ngạc bởi tính năng và tác dụng của nó. Một trong những từ thường xuất hiện ngay lập tức đó là “văn minh thật”. Nguyên nghĩa nó là “một cái alo” nhưng lại được tích hợp để là rất nhiều thứ: Computer, Calculator, TV, máy thu phát âm nhạc, thư viện, la bàn, bản đồ, trung tâm khí tượng thủy văn … nằm gọn trong lòng bàn tay mà hầu như ai cũng sử dụng được.
Những thứ này chắc chắn không thể được tạo ra bởi chỉ một cá nhân mà bởi Một Nền Văn Minh.
Hiểu thế nào thì hiểu, chỉ biết rằng một nền văn minh được tạo ra trong một khoảng thời gian rất dài bởi rất nhiều người. Bên cạnh các di sản hữu hình, nó còn phải được nhìn nhận bởi các giá trị vô hình như thẩm mỹ, tinh thần, chất lượng cuộc sống, ngôn ngữ…
Naill nói về phương Tây thế nào?
Vào khoảng năm 1500, các đế quốc tương lai của Châu Âu chỉ chiếm khoảng 10% bề mặt thế giới và cùng lắm chiếm 16% dân số toàn cầu; đô thị lớn nhất TG bấy giờ là Bắc Kinh có khoảng 700k dân; Top 10 đô thị lớn nhất lúc đó chỉ có Paris là thuộc Châu Âu với dân số xấp xỉ 200k; London lúc này chỉ khoảng 50k dân. Hơn 400 năm sau, vào thập niên 1913s, 11 đế quốc phương Tây kiểm soát khoảng 3/5 tổng lãnh thổ & dân số, hơn ¾ sản lượng kinh tế toàn cầu; Châu Á chỉ có 1 đô thị lớn duy nhất là Tokyo trong Top 10; London lúc này đã trở thành đại đô thị toàn cầu với dân số khoảng 6,5 triệu. Sau ngót 100 năm nữa, ngôi thống trị của phương Tây không suy tàn sụp đổ mà khoảng cách với phương Đông ngày càng nới rộng bởi sự trỗi dậy của Hoa Kỳ; năm 1990 một người Mỹ trung bình giàu có gấp 73 lần một người Trung Quốc trung bình.
Kết quả là nền văn minh phương Tây đã trở thành mẫu hình mà phần còn lại TG mong mỏi đi theo, trong đó điển hình là Nhật Bản ở phương Đông.
Tại sao?
Naill Ferguson tóm lược 6 nhân tố tạo nên sự khác biệt của phương Tây với phần còn lại của TG:
1. Cạnh tranh: sự phi tập trung hoá đời sống chính trị và kinh tế, từ đó tạo cơ sở cho các nhà nước dân tộc và CNTB;
2. CM khoa học: một phương thức nghiên cứu, tìm hiểu và cuối cùng làm thay đổi TG tự nhiên. Nó mang lại ưu thế quân sự cùng nhiều thứ khác so với phần còn lại;
3. Quyền tư hữu đất đai (pháp trị & CP đại diện): luật pháp bảo vệ sở hữu tư nhân, giải quyết trong hoà bình đối với các tranh chấp – nền tảng cho hình thái bền vững của chính phủ đại diện;
4. Y học: ngành khoa học cải thiện quan trọng về sức khoẻ & tuổi thọ;
5. Xã hội tiêu dùng: phương thức sinh hoạt vật chất trong đó hoạt động sản xuất và mua sắm đóng vai trò trung tâm;
6. Đạo đức lao động: một khuôn khổ đạo đức và phương thức hoạt động xuất phát từ Tin lành & các nguồn khác. Nhân tố này là chất keo kết dính đối với XH năng động và đầy bất ổn tiềm tàng được hình thành từ việc ứng dụng 5 yếu tố phía trên.
Ông nhấn mạnh sự khác biệt then chốt nằm ở thể chế. Tây Âu bắt kịp và vượt Trung Hoa một phần quan trọng là do phương Tây có nhiều sự cạnh tranh hơn cả về chính trị lẫn kinh tế. Thế kỷ XX đã thực hiện một loạt “thí nghiệm” theo đó các thể chế khác nhau đã áp dụng cho 2 khối người Chinese ở bên trong và ngoài Trung Hoa; Nam – Bắc Triều Tiên; Đông – Tây Đức. Bài học đã quá rõ!
Phương Tây bao hàm nhiều thứ hơn chứ không chỉ về địa lý. Đó là hàng loạt các tiêu chuẩn, hành vi và thể chế với ranh giới rất mờ ảo. Samuel Huntington (tác giả cuốn Sự va chạm giữa những nền văn minh) giới hạn phương Tây ko bao gồm Nga và các nước Chính thống giáo; nó chỉ gồm Tây & Trung Âu, Bắc Mỹ trừ Mexico, và Úc.
Cạnh tranh
Naill lý giải về nền văn minh phương Tây bắt đầu từ “cạnh tranh” trong khung 6 nhân tố trên, điển hình bằng việc so sánh với Trung Hoa – nơi từng là một trong 5 trung tâm phát nguyên xã hội loài người cổ đại và đã là quốc gia công nghệ hàng đầu vào TK 15. Rằng cách đây chừng 30 năm, ai mà tiên đoán trong nửa thế kỷ Trung Hoa sẽ là nền kinh tế lớn nhất TG, chắc bị cho là điên khùng; ngược trở về năm 1420, bạn mà tiên đoán Tây Âu sẽ có ngày sản xuất lớn hơn toàn bộ Châu Á và trong vòng 500 năm sau thu nhập bình quân đầu người Anh cao gấp 9 lần Trung Hoa, bạn sẽ bị xem là mất trí.
Giờ thì ai cũng biết rằng người Trung Hoa đã có hàng loạt phát minh cho nhân loại như đồng hồ, la bàn, lưỡi cày, giấy, máy in, hóa chất khử trùng … Các nghiên cứu còn cho thấy Cuộc cách mạng công nghiệp đã được báo trước ở Trung Hoa từ rất sớm: lò luyện kim đầu tiên để luyện sắt không phải ở Coalbrookdale năm 1709 mà là ở Trung Hoa năm 200 tr.CN; chính Trung Hoa đã cách mạng hóa ngành dệt sau đó du nhập vào Italy TK XIII; người ta thường cho rằng Jethro Tull (Anh) đã phát minh ra máy xay bột mì 1701 nhưng thực ra người Trung Hoa đã sáng chế ra nó hơn 2000 năm trước; ngạc nhiên hơn khi tìm thấy tài liệu Hỏa Long Kinh (Huolongjing) xuất bản TK XIV đã mô tả địa lôi, thủy lôi, tên lửa và đạn rỗng nhồi thuốc nổ. Như vậy là trước triều Minh vĩ đại rất lâu, văn minh Trung Hoa đã vượt lên trước TG nhờ các đổi mới công nghệ.
Câu chuyện về hạm đội của Đô đốc Trịnh Hòa thời Vua Vĩnh Lạc đầu TK XV đã cho thấy sự phát triển vượt trội của Trung Hoa so với TG thế nào. Hạm đội gồm hơn 300 chiến thuyền, 28.000 thủy thủ – lớn hơn bất kỳ hạm đội nào từng thấy ở phương Tây cho đến WWI. Chiếc thuyền Columbus 1492 chỉ bằng 1/5 so với chiếc thuyền trong hạm đội Trịnh Hòa. Hạm đội của Ông đã giương buồm khắp ĐNÁ, Ấn Độ, châu Phi, Trung Cận Đông. Theo Adam Smith (bằng chứng bia khắc) thì mục đích ở đây là phô trương sức mạnh & quyền lực. Việc phái một hoạn quan đến bờ biển Đông Phi năm 1416 được ví như người Mỹ chinh phục mặt trăng năm 1969. Rất tiếc, Vĩnh Lạc chết, người kế vị đã ra sắc lệnh cấm phát triển hàng hải. Từ 1500 ai bị phát hiện đóng thuyền có 2 cột buồm trở lên sẽ bị tử hình. Một cá nhân quyết định tất cả. Trung Hoa bắt đầu một thời kỳ tụt hậu.
Cùng thời đó phương Tây thì sao:
– Sông Thames so với sông Dương Tử được ví như ao tù;
– Kỹ thuật hàng hải Anh rất thô sơ, chỉ loanh quanh vùng nước chật hẹp;
– Nơi ở của Vua Anh Henry V 1421 chỉ là một thị trấn với vách tường chắp vá dài 3 dặm;
– Đại dịch Black Death 1439 làm cho dân số London chỉ còn khoảng 40.000 bằng 1/10 dân số Nam Kinh; đường phố không có hệ thống cống rãnh;
– Tuổi thọ trung bình dân châu Âu thời kỳ 1540 – 1800 là 37, riêng Anh là 20; Vua Henry V lên ngôi năm 26, chết vì kiết lỵ năm 35 tuổi;
– Chiếc cầu sắt cổ nhất TG không phải ở Anh mà là ở Trung Hoa;
– Đến năm 1788 sản lượng sắt của Anh còn thấp hơn Trung Hoa năm 1708 và còn nhiều thứ khác nữa…
Nhưng 1492 Columbus đã đến châu Mỹ; ngày 8.7.1497 Vasco da Gama (BĐN) ra khơi và tháng 2.1498 đặt chân đến Malindi châu Phi, rồi Ấn Độ… mở ra con đường giao thương. Tiếp đó người Tây Ban Nha chiếm tân thế giới, thiết lập tiền đồn ở Philippines. Người Hà Lan, Pháp, Anh, Nga cùng lao vào xâm chiếm các vùng đất mở rộng giao thương, buôn bán.
Trung Hoa đang hưng thịnh, đóng cửa, quyết định bởi 1 cá nhân vị hoàng đế. Châu Âu u tối, bệnh dịch, chiến tranh liên miên, đua nhau mở mang giao thương nhằm tìm lối thoát. Mấu chốt nằm ở chỗ “cạnh tranh”: nhìn bản đồ từ vùng biển miền Tây tới Baltic rồi Địa Trung Hải, thấy hàng trăm nước châu Âu, hàng nghìn tổ chức nhà nước đang tranh giành nhau. Naill nói rằng chiến tranh dẫn tới 3 vấn đề: thứ nhất nó thúc đẩy đổi mới quân sự; thứ hai chiến tranh liên miên nói lên rằng họ đã biết nâng tổng thu nhập hầu bù đắp chiến phí; cuối cùng việc xung đột hết đời này sang đời khác cho thấy không có 1 vương triều châu Âu nào đủ mạnh để có thể cấm đoán việc chinh phục đại dương như người Trung Hoa.
Lời đáp chính là “địa lý”. Sự vỡ vụn chính trị, cạnh tranh bên trong lòng châu Âu hóa ra lại ngăn chặn sự xuất hiện một cái gì đó mơ hồ giống như Đế chế Trung Hoa. Sự chia vụn này hóa ra lại có thể giúp châu Âu thống trị TG.
Khoa học
Vương quốc Hồi giáo Caliphate được dựng lên TK VIII kéo dài từ TBN – Bắc Phi – Ả Rập – Syria – Caucasus – quay về Ba tư & Afghanistan. Phương Tây mang một món nợ với thế giới Hồi giáo Trung cổ khi được kế thừa những tinh hoa tri thức cổ xưa: vẽ bản đồ, y học, triết học, toán học, quang học. Triết gia người Anh Roger Bacon (1214-1294) còn nhấn mạnh rằng “triết học có nguồn gốc từ người Hồi giáo”.
Vậy sao thế giới Hồi giáo lại tụt hậu? Ottoman là đế chế kế thừa chuẩn mực của đạo Hồi từ khi họ chiếm được Constantinople 1453. Ottoman đại diện cho cuộc chiến khốc liệt tôn giáo với người Kito. Sử viết rằng 2 lần thất bại trong việc bao vây thành Vienna đã đánh dấu cho kết thúc tham vọng đế chế lâu dài Ottoman. Đến những năm 1697 người Ottoman bị đuổi ra khỏi hầu hết vùng đất châu Âu mà họ đã chiếm được. Sultan độc tài, sa sút phẩm cách, tham nhũng, tranh chấp tôn giáo nội bộ đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế. Đồng thời lúc này, phương Tây trỗi dậy.
Những năm sau 1683, cách phương Tây tư duy trong khoa học tự nhiên và cai trị đã thay đổi sâu sắc: Issac Newton xuất bản cuốn Principia (những nguyên lý); 1690 John Locke xuất bản cuốn Second Treatise of Government (chuyên luận thứ 2 về cai trị). Sự khác biệt giữa phương Tây & phương Đông ở đây chính là sự theo đuổi & áp dụng một cách có hệ thống, sâu sắc tri thức mới mẻ. Naill nhấn mạnh rằng TK XV do cạnh tranh về chính trị & kinh tế đã tạo cho phương Tây những ưu thế căn bản vượt trội so với Trung Hoa. Đến TK XVIII sự đe dọa của phương Tây với phương Đông nằm ở “trí lực & hỏa lực”.
Cuộc cách mạng công nghiệp phương Tây lại được phân tích dưới khía cạnh tôn giáo, ở chỗ giáo lý Kito phân biệt giữa Nhà thờ (Giáo hội) và Nhà nước (Thế quyền): “trả lại Ceasar những gì của Ceasar và trả lại cho Chúa những gì của Chúa”; nó khác biệt hoàn toàn với giáo huấn Đạo Hồi trong kinh Koran rằng không thể phân chia giữa Luật của Chúa với cấu trúc quyền lực. Mô tả sơ lược sự phân biệt giữa Thế quyền & Thần quyền này vào TK XV đảm bảo cho nhà cai trị châu Âu có thể chống lại những yêu sách chính trị của Giáo hoàng.
Thời kỳ phục hưng nhiều tri thức cổ điển đã được tái hiện nhờ sự tiếp xúc với thế giới Hồi giáo. Cuộc cải cách Kito sau đó gắn với Cuộc cách mạng ngành in đã tạo nên thời kỳ cách tân công nghệ tiền Cách mạng công nghiệp. Chính nhờ ngành in mà những lời giao giảng, những tranh luận cải cách tôn giáo mới được phổ biến rộng rãi. Theo đó nhà thần học Đức Luther Martin đã truyền tải được rộng rãi thông điệp “chỉ có lòng trung thực – không cần chứng minh – cho ta tự do và cứu rỗi” và rằng tất cả mọi người đều là “linh mục vĩnh viễn…xứng đáng trình diện trước Chúa, cầu nguyện cho người khác và dạy cho nhau những lời Đức Chúa dạy bảo”. Quan điểm về “linh mục tự phong của mọi tín hữu” này tự nó đã rất cấp tiến. Nhưng chính ngành in ấn bùng nổ đã giúp nó sinh sôi nảy nở.
Những năm sau 1500, Kinh thánh được dịch sang tiếng Anh, hàng ngàn các tác phẩm cổ điển, công trình khoa học & toán học được in ấn phổ biến rộng rãi. Điển hình là cuốn Micrography (kính hiển vi) của Thomas Hooke (1635-1703), đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa duy nghiệm khoa học. Việc Hooke sử dụng từ “tế bào” như đơn vị nhỏ nhất của thể hữu cơ là một trong hàng loạt đột phá nhận thức xuất hiện khiến những hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên phải mang ra định nghĩa lại. Cuộc cách mạng khoa học đã bắt đầu với những tiến bộ gần như đồng thời trong việc nghiên cứu sự vận động của hành tinh & tuần hoàn máu. Kính hiển vi đã đưa khoa học lên hàng tiên phong qua việc khám phá ra những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Cuối cùng là cuộc cách mạng về triết học khi Rene Descartes & Baruch Spinoza vứt bỏ các lý tuyết truyền thống trong cả 2 lĩnh vực: nhận thức và lý trí.
Vào giữa những năm 1600, tri thức khoa học được phổ biến rộng rãi với tốc độ chóng mặt bởi sự thúc đẩy của nghề in ấn & thư tín. Trong khi các phát minh khoa học then chốt được xuất hiện ở châu Âu thì điều này dường như không thấy xuất hiện ở đế chế Ottoman. Lời giải thích tối thượng cho sự khác biệt này nằm ở chỗ quyền tối thượng của tôn giáo trong thế giới Đạo Hồi. Việc cố gắng dùng khoa học lý giải những “điều thiêng liêng của thượng đế” bị coi là báng bổ.