Muốn giàu có và hạnh phúc thì hãy đọc SÁCH

- Cố nhiên tự ngân hàng họ có thể thấy rõ ông đã quản lý khách sạn tốt như thế nào chứ? Mọi nhà kinh doanh ở Chicago đều biết ông là người quản lý đầu tiên đem lại lợi nhuận cho Davis Leroy. Tôi biết là ngân hàng họ cũng gặp thời buổi khó khăn, nhưng dù như thế đi nữa họ cũng phải biết phân biệt ai là người có thể làm lợi cho mình chứ.

- Không phải ngân hàng này.

- Continental ử- Osborne nói. - Tôi vẫn thấy ông Curtis Phenton tuy có hơi cứng nhắc nhưng chịu nghe điều phải trái đấy chứ?

- Không phải Continental. Khách sạn nằm trong tay một ngân hàng ở Boston có tên là Kane và Cabot.

Henry osborne bỗng tái người và ngồi bệt xuống ghế.

- Ông sao thế? - Abel hỏi.

- Không, tôi không sao.

- Có lẽ ông cũng biết Kane và Cabot chứ?

- Ông giữ kín được không'- Henry osborne hỏi- Được chứ.

Trong quá khứ, công ty chúng tôi đã có một lần làm ăn với họ rồi.- Ông ta ngập ngừng một lát. - Và cuối cùng chúng tôi phải đưa họ ra tòa.

- Tại sao thế?

- Tôi không thể tiết lộ cụ thể được. Một chuyện kinh doanh bẩn thỉu đó thôi. Phải nói là một trong những giám đốc ngân hàng ấy đã không hoàn toàn lương thiện và thẳng thắn đối với chúng tôi.

- Người nào thế?- Abel hỏi.

- Ông đã làm việc với người nào?- Osborne hỏi.

Một người có tên là Wilham Kane.

osbome lại có vẻ ngập ngừng.

- Ông phải cẩn thận đấy.- Ông ta nói.- Đó là một tên đểu giả hạng nhất. Tôi có thể cho ông biết kỹ về hắn ta nếu ông cần, nhưng điều này thì chỉ hoàn toàn có chúng ta biết với nhau thôi.

Tôi chả nhờ cậy gì ông ta đâu,- Abel nói. - Rồi tôi sẽ liên hệ với ông, ông osborne. Tôi cũng có việc phải thanh toán với ông Kane đó về chuyện ông ta đã đối xử với Davis Leroy.

- Vậy thì ông có thể trông vào sự giúp đỡ của tôi nếu như đó là chuyện liên quan đến William Kane. - Henry osbome nói. Ông ta đứng dậy nói tiếp. - Nhưng điều này chỉ có hai chúng ta biết với nhau thôi nhé. Nếu như tòa án cho thấy rõ ràng chỉ có Desmond Pacey đốt khách sạn thôi và không có ai dính dáng vào đó nữa, thì ngay trong ngày hôm đó công ty sẽ trả tiền bảo hiểm cho ông. Rồi có lẽ chúng ta có thể cùng làm ăn với nhau về những khách sạn khác nữa.

- Có thể lắm, - Abel đáp.

Anh sẽ về Stenvens, quyết định ngồi ăn trưa ở đó xem khách sạn này quản lý nhà ăn như thế nào. Có một lá thư đang chờ anh ở quầy tiếp tân. Một ông David Maxton nào đó muốn hỏi xem Abel có thể cùng ăn trưa với ông ta được không.

David Maxton, - Abel nói to lên. Nhân viên tiếp tân nhìn anh. - Tôi biết ông này là ai đâu?- Anh hỏi cô gái ở đó.

- Ông ấy là chủ khách sạn này, thưa ông Rosnovski.

À thế. Xin cô nói giùm với Maxton là tôi sẽ rất lấy làm sung sướng được cùng ăn trưa với ông.- Abel nhìn đồng hồ.- Nhờ cô nói thêm với ông ấy rằng tôi xin đến muộn vài phút nhé.

- Tất nhiên, thưa ông,- Cô gái đáp.

Abel vội lên phòng mình thay chiếc áo sơ- mi trắng mới, trong bụng nghĩ không biết David Maxton muốn gì ở mình.

Lúc Abel đến thì phòng ăn đã chật người. Người trưởng nhóm phục vụ chỉ anh đến một chiếc bàn riêng để trong hốc và đã có ông chủ khách sạn Stenvens ngồi đó rồi. Ông ta đứng dậy chào Abel.

Tôi là Abel Rosnovski, thưa ông.

- Vâng, tôi biết,- Maxton nói đúng hơn, tôi được biết tiếng ông. Mời ông ngồi và chúng ta cùng gọi ăn trưa.

Abel phải khen ngợi Stenvens. Mọi thứ, từ ăn uống đến phục vụ đều tốt như ở khách sạn Plaza vậy. Nếu anh muốn có một khách sạn tốt nhất ở Chicago thì chắc chắn nó phải hơn khách sạn này mới được.

Người trưởng hầu bàn đem thực đơn đến. Abel xem kỹ bản thực đơn trong tay mình, anh khiêm tốn bỏ qua món đầu khai vị, và chọn ngay món thịt bò, vì anh nghĩ đó là cách tốt nhất và nhanh nhất để xác định xem nhà ăn ở đây có quan hệ với một cửa hàng thịt tốt hay không. Dayid Maxton không nhìn vào thực đơn, chỉ gọi món cá hồi. Người phục vụ vội bước đi ngay.

- Chắc ông còn chưn hiểu tại sao tôi mời ông đến ăn trưa, phải không ông Rosnovski?

- Tôi đoán, - Abel cười nói,- Ông định yêu cầu tôi tiếp quản khách sạn Stenvens này cho ông.

- Ông nói rất đúng, ông Rosnovski.

Abel sững người. Bây giờ lại đến lượt Maxton cười.

Mặc dầu người hầu bàn đã đẩy một chiếc xe nhỏ đưa món thịt bò ngon nhất đến bên bàn nhưng họ vẫn không để ý. Người phục vụ chờ. Maxton vắt chanh lên món cá và nói tiếp:

Trong vòng năm tháng nữa, người quản lý của tôi sẽ về nghỉ hưu sau hai mươi năm làm việc rất trung thành, rồi liền sau đó một ít là người phó quản lý cũng về nốt, vì vậy tôi phải tìm người thay thế.

- Tôi thấy chỗ này đã quá tốt rồi, - Abel nói.

- Nhưng tôi vẫn muốn cho tốt hơn nữa, ông Rosnovski. Tôi không bao giờ thỏa mãn với hiện trạng, - Maxton nói.- Tôi đã theo dõi rất kỹ những hoạt động của ông. Chỉ sau khi ông tiếp quản nhà Richmond vào tay mình thì nơi đó mới được liệt vào hàng khách sạn. Trước đó, nó chỉ là một cái nhà trọ.

Trong vài ba năm nữa, nếu như không có thằng điên nào đó đốt nó đi như vậy thì ông đã là một đối thủ cạnh tranh với Stenvens rồi.

- Ông ăn khoai chứ ạ, thưa ông?

Abel nhìn lên một cô phục vụ trẻ rất xinh đẹp. Cô ta cười nụ với anh.

- Không, cảm ơn cô, - Anh nói.- Vâng, thưa ông Maxton, tôi rất hân hạnh về lời nhận xét và cảm ơn về đề nghị vừa rồi của ông.

- Tôi nghĩ làm ở đây ông sẽ rất hài lòng, ông Rosnovski. Stenvens là một khách sạn được quản lý khá tốt và tôi sẵn sàng trả ông ngay từ đầu mỗi tuần năm mươi đô la cộng với hai phần trăm lợi nhuận.

Tùy ông muốn bắt đầu làm lúc nào cũng được.

Tôi cần có ít ngày để suy nghĩ về đề nghị rất rộng rãi của ông, thưa ông Maxton, - Abel nói. Tôi phải thú thật với ông là đề nghị đó rất hấp dẫn, tuy nhiên tôi còn một số vấn đề với Richmond chưa giải quyết xong.

- Ông dùng đậu đũa chứ ạ, thưa ông?- Vẫn cô phục vụ đó và vẫn nụ cười đó.

Khuôn mặt trông thật quen thuộc. Abel tin chắc là mình đã trông thấy cô ta ở đâu rồi. Có lẽ cô ta đã làm việc ở Richmond rồi chăng.

- Vâng, xin cô.

Anh nhìn theo cô ta bước đi. Cô ta có một cái gì đó là lạ - Sao ông không ở lại thêm mấy ngày, coi như khách của tôi.- Maxton nói. - Ông ở lại xem chúng tôi quản lý chỗ này thế nào, như vậy sẽ giúp cho ông quyết định được.

- Điều đó không cần thiết lắm, thưa ông Maxton. Chỉ cần ở đây một ngày là tôi đã thấy khách sạn được quản lý tốt như thế nào rồi. Cái khó đối với tôi ở chỗ chính tôi là chủ công ty Richmond.

David Maxton ngạc nhiên.

- Tôi lại không biết điều đó. - Ông ta nói. - Tôi cứ yên trí cô con gái của ông Davis Leroy hiện nay là chủ.

- Câu chuyện dài lắm, - Abel nói. Rồi anh giải thích đầu đuôi cho Maxton nghe anh đã đi đến làm chủ những cổ phiếu của công ty như thế nào.

- Vấn đề bây giờ cũng đơn giản thôi, thưa ông Maxton. Cái tôi thực sự muốn làm bây giờ là làm sao kiếm ra hai triêu đô la để xây dựng lại công ty đó cho xứng đáng, tạo ra một cái gì đó có ý nghĩa đối với đồng tiền bỏ ra.

- À ra thế, - Maxton nói và nhìn vào đĩa mình đã ăn xong với một vẻ băn khoăn. Người phục vụ đến dọn đĩa đi.

- Thưa ông dùng cà phê chứ ạ?- Vẫn cô phục vụ ấy. Vẫn nụ cười quen thuộc ấy. Abel bắt đầu cảm thấy lo ngại - Và ông nói là Curits Phenton của ngân hàng Continental đang tìm người mua cho ông?

Vâng. Ông ấy tìm đã gần một tháng nay, - Abel nói.- Thật ra, đến chiều hôm nay thì tôi sẽ biết được ông ta có thành công hay không, tuy nhiên tôi không lạc quan lắm.

- Kể cũng lý thú đấy nhỉ. Tôi không hề biết là công ty Richmond đang tìm người mua. Được hay không ông cũng cho tôi biết nhé.

- Vâng, thưa ông, - Abel đáp.

Ngân hàng hàng Boston còn cho ông bao nhiêu thời gian nữa để kiếm được hai triệu đô la ấy?

- Chỉ còn mấy ngày nữa thôi, vì vậy cho đến khi tôi báo cho ông biết về quyết định của tôi thì chắc cũng sẽ không lâu đâu.

- Cảm ơn ông, - Maxtin nói. - Tôi vui mừng được gặp ông, ông Rosnovski. Tôi tin chắc là làm việc với ông sẽ thích lắm. - Ông ta bắt tay Abel rất nồng nhiệt Trên đường đi ra khỏi phòng ăn, Abel lại thấy cô phục vụ nhìn mình cười. Ra đến chỗ người trưởng nhóm, anh đứng lại và hỏi tên cô ta là gì.

- Thưa ông, rất tiếc là chúng tôi không được phép cho khách biết tên của bất cứ nhân viên nào làm việc ở đây, đó là chính sách của công ty chúng tôi phải triệt để tuân theo. Nếu ông có điều gì đáng phàn nàn, xin ông cứ việc cho tôi biết cũng được.

- Không phàn nàn gì hết, - Abel nói.- Trái lại, đây là một bữa ăn tuyệt vời.

Vốn đã có sẵn một việc làm khác rồi, Abel đi gặp Curtis Phenton với một tâm lý tự tin hơn. Anh tin chắc là nhà ngân hàng kia chưa tìm được người mua, nhưng anh vẫn vui vẻ đến Continental. Anh thấy thú vị với ý nghĩ được làm quản lý của một khách sạn tốt nhất Chicago. Có lẽ anh sẽ biến nó thành một khách sạn tốt nhất nước Mỹ. Anh vừa bước đến ngân hàng đã được người ta mời vào ngay phòng làm việc của Curtis Phenton. Nhà ngân hàng cao và gầy - Không biết ông ta ngày nào cũng mặc bộ quần áo ấy hay ông có ba bộ giống nhau? - Mời anh ngồi xuống ghế và nở một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt bình thường là nghiêm nghị.

ông Rosnovski, rất mừng được gặp lại ông. Nếu ông đến từ sáng sớm nay thì tôi chả có tin tức gì báo Cho ông biết được. Nhưng vừa cách đây một lúc, tôi đã nhận được điện thoại của một nguời quan tâm đến nó.

Abel giật mìth vừa vì ngạc nhiên vừa vì vui mừng. Anh lặng người đi một lát rồi nói:

- Ông có thể cho tôi biết đó là ai được không?

- Có lẽ không. Người có liên quan ấy ra lệnh cho tôi là phải tuyệt đối giữ kín tên cho, vì việc mua bán này là một chuyện đầu tư riêng có phần nào mâu thuẫn với chính công việc kinh doanh của người đứng ra mua.

David Maxton rồi, - Abel lẩm bẩm trong miệng. - Chúa phù hộ cho ông ta.

Curtis Phenton không trả lời và nói tiếp:

- Như tôi đã nói đó, ông Rosnovski, tôi không có tư cách gì để....

- Hoàn toàn có, hoàn toàn có, Abel nói.- Ông tưởng còn phải thế nào nữa thì ông mới có tư cách để cho tôi biết về quyết định của người đó, bằng cách này hay cách khác?

- Lúc này đây thì tôi chưa chắc được, nhưng có thể đến thứ hai thì tôi sẽ có thêm tin tức cho ông. Nếu ông có dịp quạ...

- Có dịp qua ư Abel ngắt lời. - Đây là chuyện của cả đời tôi kia mà.

vậy thì chúng ta hẹn gặp vào sáng thứ hai.

Abel đi bộ dọc theo Đại lộ Michigan trên đường trở về khách sạn Stenvens, miệng ư ư? bài hát "Vì sao xa mờ". Anh lên phòng và gọi điện thoại cho William Kane đề nghị cho kéo dài thời hạn đến thứ hai tuần tới Anh báo cho anh ta biết là có thể đã tìm được người mua rồi Kane tỏ ra hơi miễn cưỡng nhưng cuối cùng đã đồng ý.

- Thằng vô lại, - Abel nhắc đi nhắc lại mấy lần chữ đó rồi bỏ máy xuống. - Hãy cho tao ít thời gian nữa thôi Kane ạ. Rồi mày sẽ sống để mà ân hận vì đã giết Davis Leroy.

Abel ngồi ở góc giường, gõ ngón tay lên thành giường trên đầu, bụng nghĩ không biết làm gì hết thì giờ cho đến thứ hai. Anh xuống nhà đi lang thang trong hành lang. Anh lại trông thấy cô ta, cô gái đã phục vụ anh bữa trưa và bây giờ đang phục vụ trà trong Vườn Nhiệt Đới. Tính tò mò nổi lên, Abel bèn bước vào trong đó, ngồi ở một chiếc ghế góc phòng. Cô ta bước tới.

Xin chào ông, - Cô ta nói. - Ông muốn dùng trà chứ ạ? - Lại vẫn nụ cười quen thuộc ấy.

Chúng ta biết nhau chứ, phải thế không?- Abel nói.

- Chúng ta có biết nhau, Wladek.

Nghe đến cái tên đó, Abel giật nẩy mình, hơi đỏ mặt lên, và chợt nhớ lại ngay mớ tóc vàng ngắn này trước kia đã dài và mềm mại biết chừng nào, và đôi mắt mơ màng kia đã từng khêu gợi biết chừng nào.

- Zaphia, chúng ta cùng đi một chuyến tàu sang Mỹ, tàu Mũi Tên Đen ấy. Đúng rồi, sau đó em đi Chicago. Em làm gì ở đây?

- Em làm việc ở đây, anh thấy đó. Thưa ông, ông dùng trà chứ ạ? - Giọng nói Ba Lan của cô khiến Abel cảm thấy ấm lòng.

- Tối nay em ăn với anh nhé- Abel nói.

- Không được đâu, Wladek. Ở đây không được phép đi ăn với khách. Nếu làm thế là mất việc liền.

- Anh không phải là khách, - Abel nói. - Anh là bạn cũ - Người bạn cũ đã từng hứa .là sau khi có chỗ ăn ở tử tế sẽ đến Chicago thăm em, - Zaphia nói, - Và khi anh ta đến đây rồi thì cũng không còn nhớ ra em ở đây nữa.

- Anh biết, anh biết. Tha lỗi cho anh, Zaphia. Em hãy cùng ăn với anh tối nay đi. Chỉ một lần này thôi,- Abel nói.

Chỉ một lần này thôi,- Cô nhắc lại.

- Em đến gặp anh ở nhà hàng Brundage vào bảy giờ tối nhé. Giờ đó có được không?

Zaphia nghe đến tên đó mà thấy ngượng. Đó có lẽ một nhà hàng sang trọng và đắt tiền nhất ở Chicago, cô chỉ muốn phục vụ Ở đó cũng được, chứ đừng nói là khách đến ăn nữa.
 
- Không. đi nơi nào nhỏ hơn cơ, Wladek.

- Ở đâu? - Abel hỏi.

- Anh có biết nhà Sausage ở góc đường 43 không - Không, anh không biết, nhưng rồi sẽ tìm ra. Bảy giờ nhé.

- Bảy giờ, Wladek. Thế thì tuyệt. Bây giờ anh có muốn uống trà không?

- Không, có lẽ anh thôi,- Abel nói.

Cô mỉm cười và bước đi. Anh nhìn cô phục vụ trà một lúc. Trông cô xinh đẹp hơn nhiều so với hình ảnh anh nhớ lại được. Vậy là từ nay đến thứ hai, giết thì giờ cũng sẽ không có gì khó lắm.

Nhà hàng Sausage khiến Abel nhớ lại những ngày đầu gian khổ khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Anh ngồi nhấp một cốc bia lạnh chờ Zaphia đến và nhìn những người phục vụ bê thức ăn đến các bàn chung quanh bằng con mắt nhà nghề, tỏ ra không bằng lòng. Anh cũng không biết ở đây cái gì dở hơn, thức ăn hay là cách phục vụ. Zaphia đến chậm gần hai mươi phút.

Cô xuất hiện ở cửa vào, mặc chiếc áo màu vàng trông rất bảnh với chiếc váy thả dài xuống một chút cho hợp với thời trang nhưng vẫn không giấu được vẻ thon thả rất hấp dẫn vốn có của cô. Đôi mắt màu xám của cô nhìn quanh tìm bàn của Wladek. Cô đỏ bừng mặt khi biết mọi người xung quanh đang ngắm nhìn mình.

- Chào anh, Wladek,- Cô nói bằng tiếng Ba Lan lúc đến gần bên Abel.

Abel đứng dậy nhường ghế cho cô ngồi ở gần lò sưởi - Anh rất mừng em đến được, - Anh nói bằng tiếng Anh. Cô phân vân một lát rồi cũng trả lời lại bằng tiếng Anh.

Em xin lỗi đến muộn.

- Em uống gì đã chứ, Zaphia?

- Không, cảm ơn anh.

Hai người ngồi im không nói gì, nhưng rồi cả hai người cùng nói.

- Anh đã quên đi mất rằng em xinh đẹp biết chừng nàọ... - Abel nói.

- Làm sao anh có thể.... Zaphia nói.

Cô cười và hơi thẹn khi Abel muốn chạm vào người cô Anh rất nhớ đến lần đầu cách đây hơn tám năm lúc vừa chạm vào người cô cũng có phản ứng như vậy.

George thế nào?- Cô hỏi.

- Đã hơn hai năm nay anh không gặp cậu ta, - Abel đáp, trong lòng bỗng thấy ngượng.- Anh làm việc ở một khách sạn Chicago này, và....

- Em biết, - Zaphia nói.- Người ta đốt nó rồi.

- Tại sao em không đến chơi gặp anh?- Abel hỏi.

- Em chắc anh không nhớ, Wladek. Và em nghĩ thế là đúng.

Vậy sao em nhận ra anh?- Abel nói. - Anh béo ra nhiều thế kia mà.

- Đó là do chiếc vòng bạc của anh, - Cô nói.

Abel nhìn xuống cổ tay và cười.

- Anh phải cảm ơn chiếc vòng này rất nhiều, và bây giờ thì phải cảm ơn nó đã cho chúng ta gặp lại nhau.

Cô tránh không nhìn anh.

- Bây giờ không còn khách sạn nữa thì anh làm gì?

- Anh đang tìm việc, - Abel nói, không muốn làm cho cô lo ngại về chuyện người ta mới đề nghị anh về quản lý khách sạn Stenvens.

- Sắp có việc quan trọng ở Stenvens đấy. Bạn trai em nói vậy.

- Bạn trai em bảo thế à?- Abel hỏi lại, trong lòng không vui.

- Vâng, - Cô đáp.- Khách sạn sắp tìm một người phó quản lý mới. Sao anh không xin luôn việc đó đi? Em chắc anh xin thì được đấy, Wladek. Em vẫn tin rằng anh sang đây sẽ thành công.

- Có lẽ anh sẽ xin, - Abel nói.- Em nghĩ đến anh như thế là rất đáng qúy.

Nhưng tại sao bạn trai của em không xin việc ấy?

- Ồ không, anh ta còn quá trẻ, người ta chả màng đến anh ta đâu. Anh ta chỉ là người phục vụ phòng ăn như em thôi.

Abel bỗng muốn đổi chỗ cho anh chàng kia.

- Chúng ta ăn chứ?- Anh nói.

- Em không quen đi ăn ngoài thế này, - Zaphia nói.

Cô nhìn vào thực đơn. Bỗng Abel chợt hiểu ra là cô chưa đọc được tiếng Anh, vì vậy anh gọi cho cả hai người.

Cô ăn một cách khoan khoái và cứ khen ngon mãi.

Abel thấy niền vui hồn nhiên của cô là một liều thuốc bổ sau khi đã tiếp xúc với cái vẻ hiện đại nhưng nhàm chán của Melanie. Họ nói chuyện với nhau về cuộc đời của mình từ khi sang Mỹ đến giờ. Zaphia bắt đầu bằng những việc hầu hạ trong nhà và dần dần trở thành cô chiêu đãi viên ở khách sạn Stenvens, cho đến nay đã được sáu năm. Abel kể rất nhiều về chuyện mình cho đến lúc cô liếc nhìn vào đồng hồ tay của anh.

- Xem giờ nhé, Wladek,- Cô nói.- Đã hơn mười một giờ rồi, mà em thì sáng mai phải có mặt ở phòng ăn sáng từ sáu giờ đấy.

Abel không để ý đến thời gian trôi nhanh, thế mà đã bốn tiếng rồi. Anh muốn ngồi nói chuyện với Zaphia cho đến hết đêm. Cô thì nghe chuyện rất khâm phục anh và nghĩ gì nói thẳng ra ngay.

- Anh còn gặp lại em được không, Zaphia? - Anh hỏi lúc hai người cùng khoác tay nhau đi bộ về Stenvens.

- Tùy anh, Wladek.

Họ dừnag lại ở cửa ra vào của nhân viên ở phía sau khách sạn.

- Em vào bằng cửa này,- Cô nói. Còn nếu anh làm phó quản lý thì anh sẽ được vào bằng cửa trước.

Em gọi anh là Abel được không?- Anh hỏi cô.

- Abel?- Cô hơi lạ hỏi lại trước kia anh tên là Wladek kia mà.

- Trước kia thì thế, bây giờ thôi rồi. Tên anh là Abel Rosnovski.

- Tên Abel nghe ngộ nghĩnh đấy, nhưng cũng hợp với anh, - Cô nói.- Cảm ơn anh về bữa ăn, Abel. Gặp lại anh em mừng lắm. Thôi, chúc anh ngủ ngon nhé.

- Chúc em ngủ ngon, Zaphia,- Anh đáp, và cô quay người đi.

Anh nhìn cô đi khuất vào trong cửa rồi chầm chậm quay trở lại ra phía cửa trước khách sạn. Anh chợt cảm thấy mình cô đơn quá, và lần này không phải là lần đầu tiên trong đời.

Mấy ngày cuối tuần Abel chỉ toàn nghĩ đến Zaphia và những hình ảnh liên quan đến cô. Anh nghĩ đến mùi hôi thối trong hầm tầu đi di cư, nghĩ đến những đoàn người xếp hàng dài trên đảo Ellis, và nhất là lúc hai người yêu nhau say đắm trên con thuyền phao ở tàu Tất cả các bữa ăn anh đều xuống phòng ăn trong khách sạn để được gần với cô và để xem người bạn trai nào đó của cô mà Abel đoán là anh ta thế nào cũng có mụn nhọt trên mặt. Wả nhiên là anh ta có thế thật, nhưng dù như vậy đi nữa anh ta vẫn là một chàng đẹp trai nhất trong tất cả những người phục vụ.

Hôm thứ bẩy, Abel muốn đưa Zaphia đi chơi, nhưng cô phải làm việc cả ngày. Tuy vậy, anh vẫn thu xếp để cùng đi nhà thờ với cô vào sáng Chủ nhật nghe linh mục người Ba Lan làm lễ khiến anh càng nhớ đến quê hương. Kể từ ngày ở trong lâu đài Ba Lan đến nay, bây giờ anh mới lại đi lễ nhà thờ. Hồi đó, anh không sao hình dung được tất cả những sự độc ác nó đã khiến anh không còn thể tin được ở lòng từ thiện của các thần thánh nữa. Đi lễ nhà thờ, anh coi như được có một phần thưởng vì Zaphia cho anh cầm tay cô và hai người cùng đi bộ về khách sạn.

- Anh còn nghĩ về làm ở Stenvens nữa không?- Cô hỏi dò.

- Đến sáng mai thì anh sẽ biết được họ quyết định thế nàọ.

- Ồ thế thì em mừng cho anh lắm, Abel. Em tin rằng anh sẽ làm được một phó quản lý rất tốt.

- Cảm ơn em,- Abel nói, trong bụng muốn cô chuyển sang chuyện khác.

- Tối nay anh có muốn cùng đến ăn với bà con ở chỗ em ' không?- Zaphia hỏi. - Tối chủ nhật nào em cũng về đó.

- Có anh rất muốn thế.

Mấy người chị họ của Zaphia ở gần _ nhà hàng Sausage giữa thành phố. Họ rất cảm động thấy zaphia cùng về với một người bạn Ba Lan mà lại lái chiếc xe Buick mới. Zaphia gọi đây là gia đình nhưng chỉ có hai người chị họ, Katya và Janina, với người chồng của Katya là Janek. Abel tặng các bà chị một bó hoa hồng rồi ngồi xuống nói chuyện bằng tiếng Ba Lan rất thạo. Anh trả lời mọi người các câu hỏi về tương lai và triển vọng làm ăn. Zaphia thì có vẻ lúng túng nhưng Abel biết rằng bất cứ người bạn trai nào đến một gia đình người Mỹ gốc Ba Lan cũng đều phải xử sự như anh. Thấy Janek nhìn mình bằng con mắt thèm muốn, anh phải cố tỏ ra khiêm tốn và kể lại những ngày đầu mình làm việc trong cửa hàng thịt.

Katya dọn một bữa ăn Ba Lan đơn giản mà nếu là mưởi lăm năm trước đây thì có lẽ Abel đã ăn rất ngon miệng. Anh nói chuyện với hai cô chị kia nhiều hơn là với Janek. Còn một thanh niên ít tuổi nữa cũng ngồi đấy nhưng Abel không biết anh ta có phải người Ba Lan không và cũng không hỏi tên.

Trên đường trở về Stenvens, Zaphia làm ra vẻ nũng nịu quay sang hỏi anh rằng một tay lái xe còn một tay nắm lấy tay phụ nữ ngồi cạnh như thế có an toàn không. Abel cười rụt tay về và cứ để nguyên trên tay lái cho đến lúc về tới khách sạn.

- Ngày mai em có thì giờ gặp anh không anh hỏi.

- Em hy vọng thế, Abel, - Cô nói. - Có lẽ lúc đó anh đã là ông chủ của em rồi. Dù sao cũng chúc anh may măn.

Anh mỉm cười với mình và nhìn cô đi khuất vào sau cửa, bụng nghĩ không biết cô sẽ thấy thế nào nếu kết quả ngày mai không được như ý muốn. Anh ngồi im trên xe cho đến lúc cô đã bước hẳn vào trong cửa ra vào của nhân viên.

Phó quản lý thế đấy, - Anh nói và cười to lên rồi nằm vào giường. Anh không biết đến sáng mai tin tức của Curtis Phonton sẽ ra sao. Anh cố xua đuổi hình ảnh Zaphia ra khỏi đầu mình, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ.

Hôm sau, anh tỉnh dậy tử trước năm giờ. Căn phòng còn tối om khi anh gọi lấy số báo Diễn đàn buổi sớm. Anh đọc qua những mục về tài chính, mặc quần áo vào và sẵn sàng đi ăn sáng lúc nhà ăn mở cửa vào bẩy giờ. Sáng hôm nay, Zaphia không phục vụ trong nhà ăn chính. Chỉ có anh chàng bạn trai của cô thôi, và Abel cho đó là điều xấu. Anh chỉnh lại chiếc cavát đeo trên cổ đến mấy chục lần và lại nhìn đồng hồ.

Anh ước tính nếu mình đi bộ thật chậm thì sẽ đến ngân hàng vào đúng giờ họ mở cửa. Thực ra, anh đến đó trước năm phút và anh phải đi vòng quanh khối phố đó một lượt, nhìn một cách vô định vào các cửa hàng, xem những đồ nữ trang đắt tiền, những chiếc đài và những bộ quần áo cắt may bằng tay rất công phu. Anh tự hỏi Không biết bao giờ mình mới có tiền mua nổi những bộ quần áo như thế Anh quay về ngân hàng lúc chín giờ bốn phút.

- Ông Phenton hiện giờ đang bận. Ông muốn nửa giờ nữa quay lại hay muốn ở đây đợi? - Cô thư ký hỏi.

- Tôi sẽ quay lại, - Abel đáp, không muốn tỏ ra lo lắng.

Đây là quãng thời gian ba mươi phút dài nhất kể từ khi anh đến Chicago. Anh nhìn kỹ từng cửa hàng trên phố La Salle, nhìn kỹ cả quần áo phụ nữ bày trong đó. Anh nghĩ đến Zaphia.

Way về ngân hàng Continental, cô thư ký báo ngay cho anh biết Phenton đã sẵn sàng gặp anh.

Hai bàn tay toát mồ hôi, Abel bước vào phòng làm việc của giám đốc ngân hàng.

- Chào ông Rosnovski. Mời ông ngồi.

Curtis Phenton rút trong ngăn ra một tập hồ sơ. Abel có thể trông thấy chữ "Mật" viết trên bìa.

- Bây giờ nhé, - Ông ta nói. - Tôi hy vọng ông sẽ thấy cái tin này của tôi là hợp với ý thích của ông đấy Người bỏ tiền ra có ý muốn mua những khách sạn này với những điều kiện mà tôi cho ra rất thuận lợi.

- Lạy Chúa! Abel nói.

Curtis Phonton làm như không nghe thấy gì, nói Thực ra là cực kỳ thuận lợi cho ông. Ông ta sẽ có trách nhiệm bỏ ra toàn bộ hai triệu để thanh toán món nợ của ông Leroy, đồng thời lập ra một công ty mới với ông, trong đó cổ phần sẽ được chia ra sáu mươi phần trăm cho ông ta và bốn mươi phần trăm cho ông. Chỗ bốn mươi phần trăm của ông là tám trăm nghìn đô la, coi như được công ty mới cho ông vay trong thời hạn không quá mười năm, với lãi suất bốn phần trăm và có thể trả bằng lợi nhuận của công ty cũng với tỷ lệ lãi suất ấy. Có nghĩa là nếu trong một năm công ty có lợi nhuận ấy trả cho khoản nợ tám trăm ngàn của ông cộng với bốn phần trăm lãi suất.

Nếu ông trả hết được số tiền vay tám trăm ngàn ấy trước hạn mười năm thì ông sẽ có quyền được mua sáu mươi phần trăm cổ phần còn lại của công ty với giá ba triệu đô la. Như thế này khách hàng của tôi sẽ được quyền ưu tiên đầu tư, còn ông thì có cơ hội làm chủ công ty Richmond.

- Thế vào đó, ông sẽ có lương năm nghìn đô la một năm và với tư cách là chủ tịch công ty ông sẽ có quyền hoàn toàn kiểm soát các khách sạn. Ông sẽ chỉ có quan hệ với tôi trên những vấn đề thu chi mà thôi.

Tôi được ủy nhiệm báo cáo trực tiếp cho người đã bỏ tiền ra, và ông ta cũng yêu cầu tôi đại diên cho quyền lợi của ông ta trong ban giám đốc của công ty Richmond mới. Tôi đã vui vẻ nhận lời làm việc này. Khách hàng của tôi không muốn cá nhân mình dính líu đến đó.

Như tôi đã nói trước đây, có thể có chuyện mâu thuẫn về lợi ích nghề nghiệp của ông ta trong việc mua bán này, nhưng tôi chắc ông sẽ hiểu được. Ông ta cũng nhắc lại một lần nữa là ông chớ có bao giờ tìm hiểu xem ông ta là ai. Ông ta cho ông mười bốn ngày để suy nghĩ về những điều kiện trên đây, những điều klện mà ông ta cho rằng không còn gì đáng phải thương lượng nữa vì đã vô cùng thuận lợi rồi, và riêng tôi thì tôi cũng đồng ý như vậy.

Abel không thể nói được một lời nào.

ông nói gì đi chứ, ông Rosnovski.

- Tôi không cần đến mười bốn ngày để quyết định,- Abel nói. Tôi chấp nhận những điều kiện mà khách hàng của ông đã nêu ra. Xin ông cảm ơn ông ta giùm tôi và nói lại với ông ấy rằng tôi nhất định sẽ tôn trọng yêu cầu của ông ấy được giấu tên.

- Thế thì rất tốt, - Curtis Phenton nói và toét miệng cười - Bây giờ còn một số điểm nhỏ nữa. Tài khoản của khách sạn trong công ty đều sẽ gửi ở ngân hàng Continental và các chi nhánh. Tài khoản chính sẽ nằm ở đây, do tôi trực tiếp kiểm soát. Về phần tôi, tôi sẽ được hưởng mỗi năm một ngàn đô la với danh nghĩa một trong những giám đốc của công ty mới.

- Tôi mừng cho ông cũng có được phần mình trong cuộc này.

- Ông nói sao cơ nhà ngân hàng hỏi.

- Tôi nói là rất mừng được cùng làm việc với ông, ông Phenton.

- Ông chủ tài khoản cũng đã bỏ ra hai trăm năm mươi ngàn đô la gửi vào ngân hàng để dùng vào những chi phí hàng ngày cho các khách sạn trong mấy tháng tới. Khoản này cũng coi như một khoản vay với lãi suất bốn phần trăm.

Nếu như số tiền này không đủ cho những nhu cầu của ông thì ông phải cho tôi biết ngay. Tôi cho rằng nếu như ông coi số tiền hai trăm năm chục ngàn đô la đó là đủ rồi thì ông khách hàng của tôi quả là đã đánh giá đúng về ông đó.

- Tôi sẽ suy nghĩ thêm về điều đó, - Abel nói, bắt chước giọng của nhà ngân hàng.

Custis Phenton mở ngăn kéo rút ra một điều xì gà Cu Ba.

ông có hút không?

- Có - Abel nói, thực ra cả đời anh chưa hề hút điếu xì gà nào bao giờ.

Anh ho suốt dọc đường qua phố La Salle về đến khách sạn Stenvens. Về đến nơi, anh thấy David Maxton đang đứng giữa nhà sảnh. Abel dụi tắt điếu xì gà mới hút được một nửa, coi như thoát nợ, và bước vội đến chỗ ông ta.

- Õng Rosnovski, trông ông sáng nay có vẻ vui lắm.

- Vâng, tôi rất vui, thưa ông, và tôi chỉ tiếc là không được làm việc cho ông với tư cách quản lý khách sạn này.

Tôi cũng tiếc, ông Rosnovski ạ. Thật tình tôi cũng không ngạc nhiên lắm về tin đó.

- Xin cảm ơn ông về mọi thứ, - Abel nói, dồn hết tình cảm của mình vào trong câu nói ngắn ngủi ấy và trong cái nhìn của anh.

Anh chào David Maxton rồi bước vào phòng ăn tìm Zaphia, nhưng cô đã nghỉ. Abel đi thang máy về phòng châm lại điếu xì gà, hút một cách nhè nhẹ hơn, rồi anh gọi cho ngân hàng Kane và Cahot. Cô thư ký chuyển cho anh nói thẳng với William Kane.

- Ông Kane, tôi đã kiếm được đủ tiền để lấy lại quyền làm chủ công ty Richmond. Một ông tên là Curtis Phenton của ngân hàng Continental sẽ liên hệ với ông trong ngày hôm nay để cung cấp các chi tiết. Như vậy là không cần phải đem các khách sạn ra bán trên thị trường công khai nữa.

Yên lặng một lát. Abel mừng thầm cái tin của mình hẳn làm cho William Kane phải khó chịu lắm.

Cảm ơn ông đã báo cho tôi biết, ông Rosnovski. Tôi rất mừng ông đã tìm được người ủng hộ. Chúc ông mọi thành công trong tương lai.

- Tôi cũng mong được chúc ông như vậy, ông Kane. Anh bỏ máy xuống, nằm ra giường và suy nghĩ về tương lai.

- Một ngày kia, - Anh nhìn lên trần nhà nói, - Tao sẽ mua luôn cả cái ngân hàng chết tiệt của mày và làm cho mày phải nhẩy từ phòng ngủ trên tầng mười bẩy xuống cho mà xem.
 
- Anh lại nhấc điện thoại lên yêu cầu cô gái ở tổng đài cho anh nói chuyện với ông Henry osborne ở Công ty Bảo hiểm Great Westem.

° ° °




Willam đặt máy xuống, trong bụng nghĩ thấy buồn cười hơn là khó chịu về thái độ hung hăng của Abel Rosnovski. Anh lấy làm tiếc đã không thể thuyết phục ngân hàng ủng hộ anh chàng bé nhỏ người Ba Lan này, một con người rất tin ở khả năng có thể cứu vãn được công ty Richmond qua lúc khó khăn. Anh làm hết phận sự còn lại của mình là thông báo cho ủy ban tài chính biết Abel Rosnovski đã được người ủng hộ, chuẩn bị các tài liệu chính thức để giao lại khách sạn rồi đóng luôn hồ sơ của ngân hàng về công ty Richmond.

Mấy ngày sau William vui mừng thấy Matthequ đến Boston nhận làm giám đốc bộ phận đầu tư của ngân hàng. Charles Lester không giấu giếm chuyện ông cho rằng nếu Matthequ có thêm được kinh nghiệm nhà nghề nào ở một ngân hàng đối thủ với mình đều là một sự chuẩn bị tốt cho anh làm chủ tịch ngân hàng Lester trong tương lai. Công việc của William bỗng được vãn ngay đi một nửa, nhưng thời gian của anh hình như lại bận hơn trước. Anh tranh thủ bất cứ lúc nào rỗi rãi là đi đánh quần vợt hoặc đi bơi, chỉ có mỗi chuyện Matthequ rủ đi trượt tuyết ở Vermont là William dứt khoát không đi. Những hoạt động trên đây tuy nhiên, cũng khiến cho anh cảm thấy mình bớt cô đơn và đỡ nhớ nhung đối với Kate. Matthequ không tin là William có thể nhớ cô ta đến mức như vậy.

Tớ phải gặp cái người đàn bà đó để hiểu tại sao cô ta cô thể làm cho William Kane phải mất hồn trong khi họp ban giám đốc để bàn việc ngân hàng có nên mua thêm vàng vào hay không mới được.

- Rồi cậu gặp sẽ thấy, Matthequ. Tớ nghĩ là cậu sẽ đồng ý rằng cô ta còn quý hơn cả vàng đầu tư nữa kia.

- Mình tin ở cậu. Chỉ có điều mình không muốn nói cho Susan biết. Nó vẫn nghĩ rằng trên đời này chỉ có cậu là người đàn ông duy nhất cho nó thôi đấy.

William cười. Anh chưa hề có lúc nào - nghĩ đến Susan cả.

Đống thư của Kate gửi đến vẫn nằm trong ngăn kéo bàn cua William được khóa tử tế. Anh đọc đi đọc lại đống thư đó nhiều lần đến gần như thuộc lòng.

Cuối cùng, một bức thư anh vẫn chờ đợi hơn cả đã đến, có ngày giờ rõ ràng.

Buckhurst Park Ngày 14 tháng 2- 1930 Anh William rất yêu quý, Cuối cùng em đã đóng gói xong tất cả mọi thứ, thanh toán xong các việc và em sẽ trở về Boston vào ngày 19. Nghĩ đến chuyện gặp lại anh mà em hồi hộp quá Nếu như tất cả câu chuyện diệu kỳ này bỗng nổ tan như bong bóng trong gió lạnh của Biển Đông thì sao nhỉ? ôi, lạy Chúa, em không mong thế. Em không thể biết những tháng dài cô đơn này mà không có anh thì làm sao đây.

Yêu anh, Kate Cái đêm trước khi Kate về đến đây, William tự hứa với mình sẽ không làm gì quá vội vã để cho hai người sau này phải hối tiếc. Anh nói với Matthequ rằng anh không sao đo hết được những cảm nghĩ của cô trong trạng thái chuyển từ cái chết của chồng cô sang tâm lý hiện nay như thế nào.

- Cậu đừng có làm ra vẻ tâm lí thế, - Matthequ nói.- Cậu yêu thì phải thấy cái thực tế đó chứ.

Vừa trông thấy Kate ở ngoài ga, William đã không còn giữ được thái độ thận trọng của mình nữa. Anh chỉ còn thấy vui sướng khi nhìn nụ cười rạng rỡ trên mặt cô. Anh chen qua đám hành khách chạy vội ra ôm chặt lấy cô đến mức cô không thở được nữa.

- Chúc mừng em đã trở về nhà, Kate. - Wilham đang sắp sửa hôn thì cô lùi lại. Anh hơi ngạc nhiên.

William, có lẽ anh chưa gặp cha mẹ em.

Tối hôm đó William cùng ăn với gia đình Kate. Ngày ngày, hễ cứ lúc nào rảnh, dù chỉ được vài tiếng nếu không bận với những công việc ngân hàng hoặc phải đánh quần vợt với Matthequ là anh chạy đến gặp cô ngay. Rồi đến Matthequ, anh chàng này vừa gặp Kate lần đầu tiên đã mê đến nỗi sẵn sàng đem tất cả cổ phần vàng bạc của mình chỉ để đổi lấy một mình cô Kate.

- Tớ không bao giờ bán hạ giá đâu nhé, - William nói. - Và tớ cũng không như cậu đâu, Matthequ, tớ không bao giờ quan tâm đến lượng, chỉ quan tâm đến chất thôi.

- Vậy tớ hỏi cậu, - Matthequ nói, - Còn kiếm đâu ra được một người có giá như Kate nữa?

- Ở bộ phận thanh lý trong ngân hàng ấy chứ đâu? William nói.

Cậu liệu mà chiếm hữu cô ta nhanh đi, William, nếu không tớ sẽ chiếm mất đấy.

Vụ thất thoát của ngân hàng Kane và Cabot trong cuộc phá sản năm 1929 lên đến trên bảy triệu đô la. Với tầm cỡ của ngân hàng này, mất mát như thế là ở mức trung bình. Mấy ngân hàng khác cỡ nhỏ hơn một chút đều thất bại. William phải cố cầm cự cho đến hết năm 1939 và luôn luôn bị áp lực từ khắp phía.

Khi Phranklin D. Roosevelt được bầu làm Tổng thống Mỹ trong một liên danh hứa hẹn phục hồi và cải cách, William vẫn lo rằng chính sách Tân Kinh tế của chính quyền cũng sẽ chẳng đem lại gì nhiều cho ngân hàng Kane và Cabot cho lắm. Khắp nơi tình hình kinh doanh phát triển rất chậm chạp. William nuôi trong đầu một kế hoạch mở rộng ngân hàng.

Trong khi đó, Tony Simmons quản chi nhánh của ngân hàng ở London cũng đã mở rộng được phạm vi hoạt động và trong hai năm đầu đã đem lại được cho ngân hàng Kane và Cabot những khoản lợi nhuận đáng kể. Những thành tích của ông ta xem ra khá hơn nhiều so với William lúc này còn đang lúng túng chưa tìm ra lối thoát.

Cuối năm 1932, Alan Lloyd gọi Tony Simmons về Boston để báo cáo trước toàn thể ban giám đốc về những hoạt động ngân hàng của ông ta ở London.

Simmons vừa về đã tỏ ý muốn ứng cử vào cương vị chủ tịch ngân hàng khi Alan Lloyd sẽ về hưu trong vòng mười lăm tháng nữa. William hoàn toàn bị bất ngờ với chuyện đó, vì anh coi như Simmons đã mất hết cơ hội từ sau khi biến sang London rồi. Bây giờ William không thể ngờ Simmons vẫn còn tham vọng ấy được anh nghĩ điều đó có lẽ không phải do Simmons tinh tế nhìn thấy trước được sự việc mà do nền kinh tế ở Anh lúc này so với Mỹ có vẻ ít tê liệt hơn.

Tony Simmons trở về London lại được thêm một năm thành công nữa. Ông ta phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của ban giám đốc bằng một giọng đắc thắng, tuyên bố rằng chi nhánh ngân hàng ở London sẽ thu được khoản lợi nhuận trên một triệu đô la nữa và đó là một kỷ lục mới. Cũng trong khoảng thời gian này, William chỉ có thể báo cáo được phần lợi tức nhỏ hơn nhiều. Việc Tony Simmons đột ngột trở về với tình hình thuận lợi hơn ấy đặt William trước vấn đề là anh chỉ còn một năm nữa để tranh thủ sự ủng hộ của toàn thể ban giám đốc thôi, trong khi đó đối thủ của anh xem ra mỗi lúc một khá lên hơn.

Kate đã bỏ hàng giờ để nghe William kể lại những vấn đề của mình, thỉnh thoảng gật gủ tỏ ra thông cảm hoặc trách anh là hơi quá bi quan. Còn Matthequ làm tai mắt của William thì cho biết là khi bỏ phiều bầu sẽ rất có thể là 50- 50, vì một nửa cho là William còn quá trẻ chưa thể giao cho cương vị có trách nhiệm lớn như chủ tịch ngân hàng được, còn một nửa thì vẫn còn cho rằng Tony Simmons là đáng trách về chuyện đã làm ngân hàng bị thua thiệt năm 1929. Hình như phần lớn những thành viên không có trong ban chấp hành và không trực tiếp làm việc với William đều nghiêng về phía phân biệt tuổi tác hơn là bị những gì khác ảnh hưởng đến. Matthequ thường được nghe người ta đồn rằng. Sẽ đến lúc William thắng cử. Đã có lúc Matthequ làm như mình là Thánh sống và khẳng định với William:

Với tất cả những cổ phần của cậu trong ngân hàng thì cậu có thể thay đổi toàn bộ ban giám đốc, đưa những người cậu tự chọn ra cho vào đó và bảo họ bầu cậu làm chủ tịch ìà xong thôi.

William quá biết con đường của anh đi lên cương đó nhưng anh nghĩ mình không cần phải dùng đến những sách lược như vậy làm gì. Anh muốn làm gì.

Anh muốn mình trở thành chủ tịch chỉ do những ưu điểm của mình thôi. Dù sao, ngày xưa bố anh đă từng đi con đường đó để đạt tới cương vị chủ tịch, mà Kate thì cũng muốn anh như vậy.

Ngày hai tháng Giêng 1934, Alan Lloyd thông báo cho tất cả các thành viên biết là cuộc họp ban giám đốc sẽ tiến hành vào đúng ngày sinh nhật thứ sáu mươi lăm của ông, và cuộc họp đó chỉ có mục đích duy nhất là bầu người kế vị. Gần đến ngày quyết định ấy, Matthequ chỉ còn một mình quản công việc của bộ phận đầu tư, còn Kate thì phải phục vụ ăn cho cả hai người vì họ bận đi vận động. Matthequ không phàn nàn điều gì về chuyện mình phải làm việc nhiều hơn vì William còn phải lo tính toán làm sao giành được cái ghế chủ tịch. William biết rằng mình có thành công thì Matthequ cùng chẳng được lợi gì vì dù sao một ngày kia anh ta cũng lên tiếp quản ngân hàng của bố ở New York, mà ngân hàng đó còn quan trọng hơn nhiều so với Kane và Cabot, nhưng anh nghĩ đến ngày đó anh cũng sẽ ủng hộ Matthequ một cách vô tư như Matthequ ủng hộ anh bây giờ. Cũng chẳng còn bao lâu nữa.

Hôm kỷ mệm sinh nhật thứ sáu mươi lăm của Alan Lloyd, tất cả mười bảy thành viên ban giám đốc đều có mặt. Cuộc họp được mở đầu bằng bài diễn văn từ biệt của ông chủ tịch, dài mười bốn phút, mà William nghe thì thấy sao nó dài tưởng chừng như mãi không hết. Tony Simmons thì sốt ruột gõ gõ bút vào tập giấy trước mặt, thỉnh thoảng ngước lên nhìn William. Cả hai người, chẳng ai nghe Alan nói gì trong bài diễn văn. Cuối cùng Alan ngồi xuống, và mười sáu nhà ngân hàng Boston vỗ tay ran. Hết tiếng vỗ tay, Alan Lloyd, với tư cách chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, đứng lên một lần cuối.

- và Bây giờ, thưa qUý ngài, chúng ta phải bầu lên một người thay thế cho tôi. Ban giám đốc được gìới thiệu hai ứng cử viên nổi bật là ông Anthony Simmons, giám đốc chi nhánh ngân hàng hải ngoại, với ông William Kane, giám đốc ngân hàng đầu tư ở trong nước. Wý ngài đều biết rõ cả hai nglíời, và tôi cũng không cân phải nói thêm gì nhiều về những ưu điểm của hai vị đó. Ngược lại, tôi đã yêu cầu mỗi ứng cử viên trình bày cho ban giám đốc được biết về cái nhìn của mình đối với tương lai của ngân hàng Kane và Cabot như thế nào nếu như được bầu làm chủ tịch.

William đứng dậy trước, vì đã có tung đồng tiền để xem ai trước ai sau rồi. Anh trình bày trong hai mươi phút, nói chi tiết ý kiến của anh về ý đồ muốn đưa ngân hàng vào những lĩnh vực mà trước đây ngân hàng chưa dám mạo hiểm. Đặc biệt, anh muốn mở rộng cơ sở của ngân hàng để thoát ra khỏi tình trạng suy thoái hiện nay và hướng của anh là chuyển dần xuống trung tâm ở New York. Anh còn nêu ra ý kiến là có khả năng lập một công ty cổ phần chuyên về mặt thương mại (đến đây thì thấy một số thành viên cũ lắc đầu tỏ vẻ không tin). Anh muốn ngân hàng xét vấn đề mở rộng đề đối phó với thế hệ những nhà tài chính mới hiện nay đang cầm đầu ở nước Mỹ, muốn thấy Kane và Cabot bước vào nửa sau của thế kỷ hai mươi với tư cách là một trong những thể chế tài chính lớn nhất của Hoa Kỳ. Khi ngồi xuống, anh hài lòng nghe nhữag tiếng rì rầm tán thưởng. Bài diễn văn của anh nói chung được ban giám đốc hoan nghênh.

Tony Simmons đứng lên tiếp. Ông ta trình bày vấn đề với một quan điểm bảo thủ hơn nhiều. Ông ta nói ngân hàng phải củng cố địa vị cho mình trong những năm tới, phải thận trọng đi vào nhữag lĩnh vực đã chọn lựa và phải bám lấy cách làm ăn truyền thống đã giúp cho Kane và Cabot giữ được uy tín của mình.

ông ta đã rút ra được bài học của vụ phá sản trước đây và cho rằng điều quan tâm chủ yếu của mình - Ông ta nói thêm và mọi người cười - Là Kane và Cabot vẫn cứ bước vào nửa sau của thế kỷ hai mươi như thường. Tony nói bằng một giọng khôn khéo và có sức thuyết phục mà William biết rằng mình còn quá trẻ không thể đối phó với kiểu đó được. Lúc Tony ngồi xuống thì William không thể biết là ban giám đốc nghiêng về phía nào nữa, tuy anh vẫn tin rằng đa số sẽ tán thành mở rộng ngân hàng hơn là đứng yên một chỗ.

Alan Lloyd cho các giám đốc biết rằng bản thân ông ta và hai người ra tranh cử không bỏ phiếu. Còn lại mười bốn người nhận lá phiếu, viết vào đó rồi đưa lại cho Alan. Ông nhìn những lá phiếu đó rồi từ từ đếm. William không dám nhìn lên, chỉ cắm đầu vào tập giấy trước mặt và hai bàn tay toát mồ hôi. Alan đếm xong thì cả phòng im lặng chờ.

ông tuyên bố sáu phiếu bầu cho Kane, sáu phiếu bầu cho Simmons, hai phiếu trắng. Có tiếng xôn xao trong số những người ngồi đó. Alan kêu gọi trật tự.
 
William hít một hơi thở dài. Alan ngừng lại rồi nói:

- Tôi nghĩ rằng có lẽ trong hoàn cảnh như thế này, chúng ta phải bầu lại một lần thứ hai. Nếu như có thành viên nào trong lần bầu thứ nhất đã bỏ phiếu trắng và trong lần này bỏ cho một ứng cử viên nào đó thì mới có đa số phiếu được.

Những mẩu giấy trắng lại được phân phát. Lần này William không muốn nhìn vào đó nữa. Anh chỉ còn nghe tiếng sột soạt của ngòi bút cạo trên giấy.

Những lá phiếu lại được đưa về cho Alan Lloyd. Một lần nữa, ông chầm chậm mở từng lá phiếu và đọc to các tên viết trong đó lên.

William Kane.

Anthony Simmons, Anthony Simmons, Anthony Simmons.

Ba một nghiêng về Tony Simmons.

- William Kane, William Kane.

- Anthony Simmons.' - William Kane, William Kane, William Kane.

Sáu hai nghiêng về William.

Anthony Simmons, Anthony Sừnmons.

- William Kane.

Bẩy sáu nghiêng về William.

William nín thở, tưởng như không biết đến bao giờ Alan Lloyd mới mở đến lá phiếu cuối cùng.

- Anthony Simmons, - Ông nói. "Thế là bẩy đều, thưa quý ngài".

William biết là bây giờ Alan Lloyd sẽ buộc phải bỏ lá phiếu quyết định cuối cùng. Mặc dầu ông chưa hề nói với ai là ông ủng hộ người nào lên làm chủ tịch, nhưng Wilham bao giờ cũng cho là nếu như cuộc bỏ phiếu đi đến bế tắc thì Alan sẽ ủng hộ anh hơn là Tony Simmons.

Hai lần bỏ phiếu đều đi đến kết luận là số phiếu ngang nhau. Tôi cho rằng không còn thành viên nào trong ban giám đốc sẽ thay đổi ý kiến nữa, vì vậy tôi buộc phải dành phiếu của mình cho ứng cử viên nào mà tôi cho là sẽ thay thế tôi làm chủ tịch Kane và Cabot. Tôi biết rằng trong các vị chẳng ai muốn ở vào cái địa vị của tôi làm gì, nhưng tôi không có cách nào khác hơn là phải tự mình xét và ủng hộ người mà tôi cho sẽ phải là chủ tịch kế tiếp của ngân hàng. Người đó là Tony Simmons.

William không tin ở tai mình đã nghe những lời nói vừa rồi, còn Tony Simmons thì trông như bị choáng váng. Ông ta đứng dậy đối diện với William trong tiếng vỗ tay râm ran, đến đổi chỗ cho Alan Lloyd ở đầu bàn và lần đầu tiên phát biểu với Kane và Cabot với tư cách chủ tịch mới của ngân hàng. Ông ta cảm ơn ban giám đốc về sự ủng hộ và ca ngợi Wilham đã không bao giờ lợi dụng cái thế mạnh về tài chính và gia đình của mình để tác động đến việc bỏ phiếu. Ông ta mời William làm phó chủ tịch và đề nghị Matthequ Lester thay thế Alan Lloyd làm một giám đốc. Cả hai đề nghị đó của ông ta đều được mọi người nhất trí ủng hộ.

William ngồi đăm đăm nhìn vào bức tranh chân dung của bố anh, trong bụng nghĩ mình đã không làm được như bố.

° ° °

Albel dụi điếu Corona một lần nữa và thề rằng nhất định sẽ không hút điếu xì gà nào trước khi thanh toán được món nợ hai triệu đô la và hoàn toàn kiểm soát được công ty Richmond.

Bây giờ không phải là lúc hút những điếu xì gà to như thế nhất là với chỉ số Doqu Jones xuống thấp nhất trong lịch sử và ở các thành phố lớn trên đất Mỹ còn những đoàn ngân hàng xếp hàng dài lĩnh súp phát chẩn như hiện nay. Anh ngước nhìn lên trần nhà suy nghĩ về những gì phải làm trước đã. Anh cần phải giữ cho được số nhân viên tốt nhất của khách sạn Richmond Chicago.

Anh ngồi dậy khoác áo vào và bước sang khu nhà phụ của khách sạn, nơi phần lớn những nhân viên chưa tìm được việc làm kể từ hôm xẩy ra vụ cháy, đến nay còn ở lại đó. Abel dùng lại tất cả những ai anh tin được, và cho những người nào muốn rời bỏ Chicago được tiếp tục làm việc ớ một trong mười lăm khách sạn còn lại. Anh nói rất rõ cho ho biết là trong tình hình thất nghiệp tràn lan như hiện nay, công việc của họ chỉ có thể đảm bảo được chừng nào các khách sạn đều làm ăn có lãi. Anh biết tất cả các khách sạn khác trong công ty đều được quản lý một cách bất lương như khách sạn Richmond Chicago trước đây, và anh muốn điều đó phải được thay đổi nhanh chóng. Anh cho ba người phó quản lý ở Chicago về ba nơi, trông coi những khách sạn Richmond ở Dallas, Cincinati và St Louis. Anh chỉ định các quản lý mới cho bẩy khách sạn còn lại ở Houston Mobile, Charleston, Allanta, Memphis, New orleans và Louivilìe. Các khách sạn Leroy cũ đều ở miền Nam và vùng Trung Tây. Chỉ có khách sạn ở Chicago là do Davis Leroy đích thân đứng ra xây dựng. Abel phải mất đến ba tuần mới bố trí được cho những nhân viên cũ ở Chicago về các khách sạn mới.

Abel quyết định đặt đại bản doanh của mình trong khu nhà phụ của Richmond ở Chicago và mở một nhà ăn nhỏ ở tầng dưới cùng. Anh tính như vậy sẽ ở gần với người ủng hộ mình và gần với nhà ngân hàng hơn là về ở trong một khách sạn ở miền Nam. Hơn nữa, Zaphia cũng ở Chicago, và Abel tin chắc rằng chỉ ít lâu nữa cô ta sẽ bỏ rơi anh chàng kia và yêu anh. Cô ta là người đàn bà duy nhất anh cảm thấy yên tâm trong quan hệ. Khi Abel chuẩn bị đi New York để tuyển thêm nhân viên chuyên môn, anh đã được cô hứa với anh là không đi lại với người bạn trai kia nữa.

Đêm trước khi Abel đi, anh với Zaphia nằm với nhau lần đầu tiên. Cô ta mềm mại, mũm mĩm, vui tính và rất dễ thương.

Thái độ âu yếm và rất thành thạo của Abel khiến cho Zaphia phải ngạc nhiên.

- Từ hồi sau chuyến tàu Mũi Tên Đen đến nay, anh đã nằm với bao nhiêu cô gái rồi?- Cô ta hỏi đùa.

- Chẳng có ai anh thật sự quan tâm cả, - Anh đáp.

- Phải, cũng đủ để quên được em rồi,- Cô nói.

- Anh không bao giờ quên được em,- Anh nói dối, và cúi xuống hôn cô, vì chỉ có như vậy mới thôi không nói chuyện được.

Đến New York, việc đầu tiên của anh là đi tìm George và thấy anh ta đang thất nghiệp, sống trong một căn gác tồi tàn ở đường số ba phía Đông thành phố. Abel hầu như đã quên đi những ngôi nhà như thế này khi có tới hai chục gia đình cùng sống chung với nhau một chỗ. Phòng nào cũng sực mùi thức ăn để lâu mùi hố vệ sinh không có nước tháo và mùi giường có ba loại người khác nhau nằm ngủ trong một ngày một đêm. Hình như cái lò bánh đã đóng cửa và chính ông chú của George phải đi kiếm việc làm ở một nhà máy khác tận ngoại ô New York. Nhà máy đó không nhận George vào làm. Được về với Abel và công ty Richmond, dù là làm gì, GeDrge cũng rất lấy làm sung sướng.

Abel tuyển được ba nhân viên mới, một người làm bánh, một kế toán và một người phục vụ bàn. Rồi anh cùng với George lên đường trở về Chicago đặt căn cứ của mình trong khu nhà phụ Richmond. Abel hài lòng về kết quả chuyến đi ấy. Phần lớn các khách sạn ở bờ biển phía Đông đều giảm nhân viên của họ xuống mức tối thiểu, do đó anh dễ dàng chọn được những người có kinh nghiệm, trong số đó có cả một người của khách sạn Plaza nữa.

Đầu tháng ba, Abel và George lại đi một tua thăm các khách sạn còn lại trong công ty. Abel đề nghị Zaphia cùng đi, lại còn cho cô có quyền được chọn làm ở bất cứ khách sạn nào cô muốn, nhưng cô nhất định không rời khỏi Chicago là nơi duy nhất trên đất Mỹ cô đã sống quen rồi. Để cho anh yên tâm, cô bằng lòng về ở trong phòng của Abel ở khu nhà phụ Richmond trong khi anh đi vắng. George vốn từ sau khi vào quốc tịch Mỹ và học được cách sống của lớp người trung lưu ở Mỹ, lại có được nguồn gốc Ki- tô giáo nữa, khuyên Abel nên đi vào kiểu sống có vợ chồng hẳn hoi thì có lợi hơn. Abel đã sống đơn độc trong các phòng khách sạn nhiều rồi, thấy chẳng ra thế nào, sẵn sàng nghe lời George khuyên bảo.

Abel không lấy làm ngạc nhiên thấy tất cả các khách sạn khác mặc dầu vẫn được quản lý một cách luộm thuộm và phần lớn là bất lương nhưng do tình hình thất nghiệp đang phổ biến khắp nơi nên các nhân viên thấy anh đến thì hầu hết ai cũng mừng, cho anh là người cứu sống cho những gì còn lại của công ty, Abel thấy không cần phải sa thải ồ ạt nhân viên như anh đã làm khi mới đến Chicago. Phần lớn những ai biết tiếng của anh là ngại cách làm của anh thì đều đã bỏ đi cả rồi. Một số người phải loại bỏ nhưng cũng vẫn không tránh được họ còn dính dáng đến số còn lại vì đã gắn bó với công ty Richmond từ lâu và đến bây giờ sau khi Davis Leroy đã chết rồi họ rất khó thay đổi được cách làm ăn cũ kỹ của họ. Abel thấy việc chuyển nhân viên từ một khách sạn này sang khách sạn khác đòi hỏi phải có một thái độ rất khác.
 
Vào cuối năm đầu của anh với tư cách chủ tịch của công ty Richmond anh chỉ dùng đến nửa số nhân viên so với trước kia, và tính toán các mặt thì số tiền thâm hụt chỉ trên 10 không.000 đô la một chút. Trong toàn bộ nhận viên, việc thay đổi người xẩy ra rất ít. Abel rất tin ở tương lai của công ty, và mọi người cũng chia sẻ với anh niềm tin đó.
Abel đặt ra cho mình mục tiêu đến năm 1932 là ổn định. Anh cảm thấy cách duy nhất có thể thực hiện được làm ăn có lãi nhanh chóng là để cho mỗi người quản lý khách sạn có toàn quyền trách nhiệm đối với chính khách sạn của mình và có phần lợi nhuận của họ trong đó, giống như Davis Leroy đã từng làm với anh khi anh mới đến Chiacago Richmond vậy.
Abel di chuyển từ khách sạn này đến khách sạn khác không nghỉ ngơi hoặc ở lại nơi nào quá ba tuần. Trừ George là người ìàm tai mắt cho anh ở Chicago và rất trung thành với anh, anh không bao giờ báo cho ai biết là lần sau anh sẽ đến khách sạn nào. Hàng mấy tháng một lần, anh chỉ phá vỡ quy luật ấy nếu thấy cần phải đi thăm Zaphia hoặc đi gặp Curtis Phenton mà thôi.
Sau khi đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính của công ty, Abel đã phải đi đến một số quyết định không lấy gì làm vui vẻ lắm. Wyết định mạnh nhất là tạm thời đóng cửa hai khách sạn, một ở Mobile một ở Charleston, vì đã làm ăn thua lỗ đến mức anh cảm thấy nếu để sẽ nguy hiểm đến tình hình tài chính của các khách sạn khác. Nhân viên ở các khách sạn khác thấy chiếc rìu sẽ bổ vào đầu mình, phải làm ăn tử tế hơn. Mỗi lần đi đâu về đến phòng làm việc nhỏ của mình trong khu nhà phụ của Richmond ở Chicago, anh đều thấy cả một loạt những giấy tờ gửi đến yêu cầu phải quan tâm ngay, nào là ống nước rò rỉ ở nhà tắm, nào là chuột gián ở nhà bếp, rồi nào là cãi cọ nhau ở nhà ăn, và có một õng khách không hài lòng đang dọa kiện v.v....
Henry oborne lại đến với cuộc đời của Abel với một khoản tiền 75 không.000 đô la do Công ty Bảo hiểm Great Western trả vì không tìm được chứng cớ gì để buộc tội Abel cố dính đến Desmond Pacey đốt khách sạn Richmond Chicago. Chứng cớ do Trung úy o Malley đưa ra về vụ này là rất xác đáng, vì vậy Abel nghĩ mình còn nợ Ông ta nhiều chứ không chỉ một cốc sữa trứng mà thôi đâu.
Abel lấy làm sung sướng đã giải quyết được việc này với Công ty Great Western và món tiền bồi thường như vậy là phải chăng. Osborne có gợi ý với anh là nên đòi một món tiền lớn hơn để anh ta được hưởng chênh lệch vào đó. Abel là người tuy có khuyết điểm này khác nhưng vốn rất ghét chuyện tham ô, đã nhìn ngay osborne bằng con mắt không thiện cảm.
Anh nghĩ nếu osbome có thể bất lương với công ty của chính ông ta như vậy thì mai kia nếu có dịp ông ta sẽ chẳng tha gì mà không hại Abel.
Mùa xuâu năm 1932 Abel ngạc nhiên nhận được một bức thư cua Melanie Leroy , những gì viết trong thư thân mật hơn nhiều so với lúc gặp trực tiếp. Anh lấy làm phấn khởi và hẹn cô đến gặp ăn tối ở nhà hàng Stenvens, một quyết định mà khi bước chân vào đến phòng ăn anh đã ân hận ngay vì Zaphia đang có đó, trông quê mùa và mỏi mệt. Melanie, trái lại, trông lộng lẫy trong chiếc áo màu xanh dài bó sát người nổi lên các đường nét. Đôi mắt của cô, có lẽ được chiếc áo phản ánh vào, lại càng xanh và hấp dẫn hơn trước.
- Trông anh mạnh khỏe mà tôi rất mừng, Abel ạ, - Cô vừa nói vừa ngồi xuống ghế ở bàn giữa phòng ăn.- Và cố nhiên ai cũng biết anh đang làm ăn rất giỏi với công ty Richmond.
- Công ty Nam tước chứ, - Abel nói.
Tôi không biết là anh đã đổi tên công ty rồi.- Cô ta hơi đỏ mặt.
- Vâng, tôi đổi tên từ năm ngoái, - Abel nói dối.
Thực ra đến lúc này anh mới chợt nghĩ rằng mỗi khách sạn của công ty sẽ mang tên là khách sạn Nam tước Anh không hiểu sao trước nay mình lại không nghĩ ra điều đó.
- Tên hay đấy, - Melanie mỉm cười nói.
Abel biết rằng từ phía đầu phòng bên kia Zaphia đang dõi nhìn hai người, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi, anh không làm thế nào khác được.
- Cô chưa làm việc chứ ? - Abel hỏi, tay ghi mấy chữ "Công ty Nam tước!" vào phía sau tờ thực đơn.
- Không bây giờ thì chưa, nhưng tình hình xem ra có vẻ khá hơn. Một người đàn bà tốt nghiệp về nghệ thuật tự do ở thành phố này bao giờ cũng phải ngồi đó chờ cho mọi người đàn ông có việc làm đã rồi mới đến lượt mình.
- Nếu cô muốn làm việc cho Công ty Nam tước, - Abel nói và hơi nhấn mạnh vào cái tên đó, - Thì cô chỉ việc cho tôi biết.
- Không, không, - Melanie đáp. - Tôi không có gì đáng lo cả.
Cô nhanh chóng chuyển câu chuyện sang vấn đề âm nhạc và sân khấu. Nói chuyện với cô ta vẫn là một thách thức mà Abel không quen nhưng thấy thú vị.
Cô ta vẫn trêu chọc anh nhưng trêu một cách thông minh, khiến anh cảm thấy ngồi với cô bây giờ yên tâm hơn trước nhiều. Bữa ăn kéo dài đến tận sau mười một giờ. Sau khi mọi người đã ra khỏi phòng ăn, kể cả Zaphia, anh mới đưa Melanie ra xe về nhà, mắt đỏ lòm một cách không bình thường. Lần này, cô ta mời anh lên nhà uống rượu. Anh ngồi trên chiếc ghế xô- pha trong khi cô rót mời anh uống một thứ rượu quhisky bị cấm và cho chạy đĩa hát.
Tôi không thể ngồi lâu được,- Abel nói. - Ngày mai có rất nhiều việc.
- Câu đó phái để tôi nói? chứ, đã lâu quá rồi không gặp nhau. Tốl nay vui thế kia mà. Như hồl xưa vậy.
Cô ta ngồi xuống bên anh, áo kéo lên quá đầu gối Không phải như hồi xưa đâu, anh nghĩ bụng. Đôi chân thật đẹp. Khi cô nhích đến gần, anh không làm gì tỏ ra cưỡng lại. Lát sau, anh thấy mình hôn cô ta - Hay cô ta hôn mình? Anh cũng không biết nữa. Đôi tay của anh lần mò xuống đôi chân đó, rồi lần lên đến ngực và lần này xem ra cô ta sẵn sàng đáp ứng. Rồi chính cô ta đã cầm tay anh dắt vào phòng ngủ, gấp khăn trải giường lại cẩn thận, rồi quay lại bảo anh cởi áo cho cô. Abel nghe theo nhưng trong bụng vẫn không tin, và anh tắt đèn trước khi cởi quần áo. Sau đó anh dễ dàng đem những bài học mà Joyce đã dạy cho anh bây giờ áp dụng vào thực tế. Cố nhiên Melanie cũng không phải là người thiếu kinh nghiệm gì. Abel chưa bao giờ được thấy sung sướng như vậy trong cuộc làm tình. Anh lăn ra ngủ thiếp đi với một tâm lý rất hài lòng.
Đến sáng Melanie cho anh ăn điểm tâm và phục vụ đầy đủ cho đến lúc Abel phải ra về.
- Tôi sẽ theo dõi Công ty Nam tước với một mối quan tâm mới, - Cô nói. - Tôi chắc không ai còn ngờ gì về thành công lớn của nó sau này.
Cảm ơn cô về bữa ăn sáng và một đêm đáng ghi nhớ, - Abel nói.
- Tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau sớm, Melanie nói.
- Tôi muốn thế lắm, - Abel đáp.
Cô hôn lên má anh, chẳng khác nào như người vợ hôn tiễn chồng đi làm.
- Tôi không biết rồi anh sẽ lấy một người đàn bà như thế nào, - Cô hỏi một cách ngây thơ khi khoác áo ngoài lên người cho Abel.
Anh nhìn cô mỉm cười.
- Khi nào tôi có quyết định ấy, Melanie ạ, thì cô hãy tin chắc rằng tôi sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều về những quan điểm của cô đấy.
- Anh nói vậy là sao? - Melanie lúng túng hỏi lại.
Là tôi sê phải quan tâm đến những lời khuyên của cô, - Abel nói lúc ra đến gần cửa.- Tức là phải cố tìm cho mình một cô gái Ba Lan tử tế.
Một tháng sau, Abel và Zaphia cưới nhau. Người anh họ của Zaphia là Janek đưa dâu và George làm phù rể. Cuộc chiêu đãi tổ chức ở nhà hàng Stenvens.
Mọi người ăn uống nhẩy nhót đến tận đêm khuya. Theo truyền thống, mỗi người trả một số tiền tượng trưng để ra nhẩy với Zaphia. George chạy quanh phòng và len lỏi chụp ảnh các khách đến dự mà toát Cả mồ hôl. Sau bữa súp vào nửa đêm với những món truyền thống của Ba Lan và rượu vang, brandy, voska, Abel và Zaphia được rút lui về phòng tân hôn.
Sáng hôm sau, Abel lấy làm ngạc nhiên một cách thú vị nghe thấy Curtis Phenton nói lại rằng toàn bộ chi phí cho cuộc chiêu đã của anh ở khách sạn Stenvens đã được ông Maxton trả hết, coi đó như một món quà cưới của ông. Abel dùng số tiền anh đã dành dụm được cho cuộc chiêu đãi này làm một phần để trả cho ngôi nhà nhỏ anh mua được ở phố Rigg. Lần đầu tiên trong đời, anh có được ngôi nhà riêng của mình.
 
Hai Số Phận - Chương 17
William quyết định đi nghỉ một tháng ở Anh trước khi có quyết định dứt khoát gì về tương lai của mình. Anh cũng tính chuyện rút khỏi ban giám đốc ngân hàng Kanne và Cabot, nhưng Matthew thuyết phục anh đừng làm vậy vì đó không phải là hành động trước kia bố anh làm nếu ở vào trường hợp như thế. Matthew xem ra còn đau hơn trước cái thất bại của bạn mình. Trong tuần lễ liền sau đó, hai lần anh đến ngân hàng với nhau dấu hiệu rõ ràng là đã quá chén và bỏ dở nhiều việc quan trọng.

William cứ để cho những chuyện ấy qua đi, không bình luận một lời nào, mời Matthew đến nhà cùng ăn tối với anh và Katte. Matthew từ chối, bảo rằng còn rất nhiều thứ gửi đến chưa xem hết. Wiìliam không nghĩ ngợi gì thêm về chuyện Matthew từ chối, nhưng tối hôm đó Matthew lại đi ăn ở nhà hàng Ritz- carlton với một người đàn bà rất xinh đẹp, mà người này William biết chắc là vợ của một nhân viên quản lý bộ phận trong ngân hàng Kane và Cabot. Kate cũng không nói gì, chỉ bảo là Matthew có vẻ ốm yếu thế nào ấy.

William đang bận chuẩn bị đi Châu âu nên không chú ý gì lắm đến thái độ hơi khác lạ của bạn mình. Nếu là vào lúc khác thì anh đã rất quan tâm rồi. Đến phút cuối cùng, William thấy khó có thể sống được một mình ở Anh, vì vậy anh đề nghị Kate cùng đi với anh. Anh ngạc nhiên và sung sướng thấy cô đồng ý ngay.

William với Kate đáp tàu Mauretania đi sang Anh, mỗi người ở riêng một phòng. Về ở khách sạn Ritz, họ cũng mỗi người một phòng riêng, thậm chí còn ở tầng khác nhau nữa. William đến chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London, trên phố Lombard, và làm như mục đích chuyến đi sang Anh này là để kiểm tra những hoạt động của ngân hàng ở Châu âu vậy. Anh thấy tinh thần làm việc ở đây rất cao, rõ ràng là Toni Simmons đã quản lý rất giỏi, được mọi người quý mến, khiến William chỉ còn việc lẩm bẩm khen ngợi.

Anh và Kate ở London một tháng rồi sau đó đi thăm Hampshire và Lincolnshire, xem vài khoảng đất mà William đã mua được trước đây ít tháng, tất cả có tới trên mười hai nghìn mẫu. Lợi tức thu được từ đất trồng trọt không lấy gì làm cao lắm, nhưng William giải thích cho Kate rằng nếu như tình hình ở Mỹ trở nên khó khăn thì đất ở đây vẫn còn nguyên đó, không mất đi đâu cả.

ít ngày trước khi hai người sắp trở về Mỹ, Kate ngỏ ý muốn đi thăm oxford, và William đồng ý rằng sáng hôm sau đánh xe đưa cô về đó sớm. Anh thuê một chiếc Morris mới, loại xe anh chưa từng lái bao giờ. Ở thành phố của những trường đại học này, hai người đi lang thang xem các nơi như Magdalen đồ sộ bên dòng sông Christ Church, một khu nhà thờ lớn mà không có tu viện, rồi đến Merton ngồi trên bãi cỏ và mơ mộng.

- Không được ngồi trên cỏ, thưa ông, - Một người phục vụ trong trường lên tiếng.

Hai người cười và dắt tay nhau đi trông như sinh viên chưa tốt nghiệp sóng vai bên bờ sông Cherwell nhìn tám chàng trai đang mải miết chèo thuyền dưới nước, William cảm thấy cuộc đời mình dứt khoát phải luôn luôn có Kate ở bên cạnh.

Vào giữa buổi chiều, họ trở về London. Lúc về qua Henley trên bờ sông Thames, họ dừng lại uống trà ở quán Bell nhìn xuống sông. ăn vài mẩu bánh ròn phết bơ và uống trà đặc (Kate chỉ thích uống với sữa còn William lại pha thêm nước cho loãng bớt), Kate giục anh về nhanh kẻo tối trời không nhìn thấy cảnh nông thôn được. Nhưng đến lúc William ra xe thì quay đến mấy, chiếc xe cũng không nổ được nữa. Hì hục mãi không xong, anh đành chịu. Trời đã gần tối, thế là hai người quyết định phải ở lại Henley một đêm.

Anh trở vào quán Bell đề nghị thuê hai phòng. Rất tiếc, thưa ông, tôi chỉ còn lại có một phòng đôi thôi, - Nhân viên tiếp tân nói.

- Chúng tôi thuê vậy. - William ngần ngại một lúc rồi nói.

Kate ngạc nhiên nhìn anh nhưng không nói gì.

Nhân viên tiếp tân nhìn cô với vẻ nghi hoặc.

- Ông và bà... gì ạ?

- Ông và bà William Kanne, - William đáp luôn. - Lát nữa chúng tôi quay lại.

- Chúng tôi đưa hành lý lên phòng chứ, thưa ông- Nhân viên phục vụ hỏi.

- Chúng tôi không có hành lý, - William cười đáp.

- À vâng, thưa ông.

Kate ngơ ngác đi theo William lên phố trên cho đến lúc họ dừng lại trước một nhà thờ xứ.

Chúng ta làm gì thế này, Wiuiam? - Kate hỏi.

- Làm cái điều lẽ ,ra anh phải làm từ lâu rồi, em ạ.

Kate không nói gì nữa. Bước vào bên trong, William thấy có người đang đứng xếp một chồng sách thánh ca.

- Tôi xin hỏi cha xứ ở đâu ạ? - William nói.

Người gác nhà thờ đứng thẳng dậy nhìn William bằng con mắt như thương hại.

- Ở nhà xứ chứ đâu.

- Nhà xứ ở đâu ạ? - William lại hỏi - Ông là một người Mỹ, phải không thưa ông?

- Vâng, phải, - William đã bắt đầu sốt ruột.

- Nhà xứ ở cạnh nhà thờ xứ, phải thế không ạ? - Người gác nói.

- Tôi cũng nghĩ thế, - William nói. - Ông có thể ở lại đây chừng mười phút nữa được không) - Tại sao tôi lại phải làm thế, thưa ông.

William rút ra một tờ bạn năm đồng bảng.

- Cứ cho là mười lăm phút cho chắc, được không ông?

Người gác nhà thờ nhìn kỹ tờ giấy bạc và nói:

- Người Mỹ. à, vâng, được.

William để ông ta đứng đó với tờ bạc năm đồng bảng và kéo vội Kate ra bên ngoài nhà thờ. Ngoài hiên có tấm biển đề:

"Cha bề trên của Giáo xứ đây là Linh mục Simon frukesbury" và bên cạnh tấm biển đó là lời kêu gọi của nhà thờ quyên góp làm lại mái, gài một chiếc đinh.

Nhà thờ đang quyên góp từng xu đề có được 500 đồng bảng, William bước vội theo con đường nhỏ lên nhà xứ, Kate theo sau vài bước. Anh gõ cửa và một người đàn bà to béo có đôi má đỏ hồng tươi cười ra mở cửa.

Bà Tukesbury? - William hỏi.

Phải. - Bà ta lại cười. , - Tôi xin nói chuyện với chồng bà được không?

Lúc này ông ấy đang dùng trà. Có thể lát nữa ông quay lại được chăng Tôi e rằng chuyện này hơi gấp, - William nói.

Kate đã theo kịp lên với anh nhưng không nói gì.

- Vậy thì mời ông vào đi.

Nhà xứ này xây từ đầu thế kỷ mười sáu. Căn phòng lát đá ở phía ngoài có lò sưởi đang đốt lửa. Cha xứ là một người cao lớn, đang ăn bánh xốp với dưa chuột, đứng dậy chào hai người.

- Xin chào, ông....? Kane, thưa ông, William Kane.

Tôi có thể làm gì được cho ông đây, ông Kane?

- Kate với tôi, - William nói, chúng tôi muốn cưới nhau.

- Ôi vậy thì hay quá, - Bà Tukesbury nói.

- Vâng, đúng thế đấy, - Cha xứ nói. - Ông có phải là người trong giáo xứ này không? Tôi không nhớ là...

- Không, thưa ông. Tôi là người Mỹ. Tôi đi lễ nhà thờ Si. Paul ở Boston.

- Thế là ở Massachusetts, không phải ở Lincolnshire, phải không ạ? - Linh mục Tukesbury nói.

- Vâng, đúng thế, Wilham nói. Anh quên rằng ở Anh cũng có một nơi tên ỉa Boston.

Thế thì tốt, - Cha xứ nói và giơ hai tay lên trời như sắp làm lễ. - Vậy hai người định lúc nào thì kết hôn với nhau?

Ngay bây giờ, thưa ông.

Ngay bây giờ, thưa ông? - Cha xứ giật mình hỏi lại. Tôi không hiểu tục lệ Ở bên Mỹ chung quanh chuyện cưới xin long trọng và thiêng liêng như thế nào, thưa ông Kane, mặc dầu tôi cũng có được đọc và nghe nói đến những điều rất kỳ lạ với đồng bào của ông bên Califomia. Tuy nhiên, tôi coi như mình có bổn phận nói để ông biết rằng những tục lệ như thế chưa được chấp nhận ở Henley trên bờ sông Thames này. Ở Anh, thưa ông, ông phải ở trong bất cứ giáo xứ nào cả một tháng rồi mới lấy nhau được, rồi tên của hai người phải được yết thị lên ba lần nếu như có trường hợp đặc biệt hay rắc rối gì cần cho mọi người được biết. Mà trong trường hợp đó tôi cũng phải được phép của ngài giám mục và phải sau ba ngày mới làm được - Cha Tukesbury nghiêm giọng nói.

- Ông còn cần bao nhiêu tiền nữa để làm lại mái nhà thờ - Kate bây giờ mới lên tiếng.

- A cái mái. Đây là câu chuyện đáng buồn, nhưng lúc này tôi chả nhắc đến lịch sử của nó làm gì... hồi đầu thế kỷ mười một ấy mà....

- Ông cần bao nhiêu tiền? - Wilham lại nói, tay nắm chặt lấy tay Kate.

- Chúng tôi hy vọng quyên được năm trăm đồng bảng. Cho đến nay chúng tôi đã làm được khá, chỉ trong bẩy tuần qua, chúng tôi đã đạt được hai mươi bẩy đồng bốn hào bốn xu rồi.

- Không, không, ông ơi, - Bà Tukesbury nói. - Ông quên chưa tính khoản hơn một đồng nữa tôi bán hàng tuần trước ư - Đúng là tôi chưa tính vào đấy. Tôi thật dở quá, đã coi nhẹ phần đóng góp của bà. Như vậy, tất cả là - Linh mục Tukesbury tính nhẩm trong đầu và ngước mắt nhìn lên trần nhà như để tìm ra một nguồn cảm hứng nào.

William rút chiếc ví ở túi áo trong ra, viết một tờ séc năm trăm đồng bảng rồi lặng lẽ đưa cho linh mục Tukesbury.

- Tôị..., tôi hiểu là có những trường hợp đặc biệt, thưa ông Kane, - Cha xứ ngạc nhiên nói. Giọng ông đã đổi hẳn. - Đã có người nào trong hai người trước kia kết hôn bao giờ chưa?

- Có - Kate nói. - Chồng tôi bị chết trong tai nạn máy bay trước đây bốn năm.

ôi, thật là khủng khiếp, - Bà Tukesbury nói, - Tôi rất lấy làm tiếc. Tôi không dè....

- Thôi, bà ơi, - Cha xứ nói. Ông quan tâm đến cái mái nhà thờ hơn là những tình cảm của bà vợ. - Còn ông, thưa ông?

- Tôi chưa lấy vợ bao giờ, - William nói.

- Tôi sẽ phải gọi điện thoại cho ngài. giám mục đã.- Nắm chắc tờ séc của William trong tay, ông cha xứ đi vào phòng bên trong.

Bà Tukesbury mời Kate và Wiììiam ngồi đợi và mời ăn, bà vẫn cứ nói chuyện trong khi William và Kate không nghe thấy gì hết và chỉ nhìn nhau.

Cha xứ bước ra.

- Thật là rất không bình thường, rất không bình thường, nhưng ngài giám mục đã đồng ý, thưa ông Kane, với điều kiện sáng mai phải được xác định lại mọi thứ ở sứ quán Mỹ rồi sau đó xác đinh lại với ngài giám mục ở nhà thờ Si. Pauli tại Boston, Massachusetts, sau khi ông bà trở về nhà.

ông ta vẫn nắm chặt tờ Séc trong tay.

- Tất cả những gì chúng ta cần lúc này là hai người làm chứng, - Cha xứ nói. - Vợ tôi có thể là một người làm chứng. Ngoài ra, tôi cũng hy vọng người quản lý vẫn còn đó, ông ta có thể là người làm chứng thứ hai được - Ông ta vẫn còn đó, tôi đảm bảo, - Wilham nói.

Làm sao ông biết chắc được? thưa ông Kane?

- Tôi đã mất cho ông ấy một phần trăm.

Một phần trăm gì cơ? - Cha xứ ngỡ ngàng hỏi lại.

Một phần trăm của mái nhà thờ, - William đáp.

Cha xứ đưa Wilham, Kate và vợ Ông ta đi theo con đường nhỏ lên nhà thừ. Ông nháy mắt nhìn người quản lý đang đứng chờ.

- Đúng là ông Sprogget vẫn đang còn đâỵ.. Ông ấy chẳng bao giờ làm như thế cho tôi cả, rõ ràng ông giỏi thật đấy, thưa ông Kane.

ông Simon Tukesbury khoác chiếc áo làm lễ vào người, còn ông quản lý thì nhìn ông bằng con mắt kinh ngạc.

William quay sang hôn Kate và hỏi.

- Anh biết trong trường hợp này hỏi thế là dở hơi, nhưng em có đồng ý lấy anh không - Trời ơi, lạy Chúa! - Cha xứ Tukesbury thốt lên một câu mà cả đời ông chưa bao giờ nói như vậy. Nghĩa là ông chưa hề hỏi người đàn bà này điều đó ư?

Mười lăm phút sau, ông và bà William Kane rời nhà thờ xứ Henley trên sông Thames, oxfordshire. Đến phút cuối cùng, bà Tukesbury lấy một chiếc vòng dứt ở màn che cửa ra làm nhẫn, cũng may là nó rất vừa tay. Cha xứ Tukesbury có một cái mái mới cho nhà thờ, còn ông Sprogget thì có năm đồng bảng để được chi tiêu thả cửa dưới phố.

Ra đến ngoài nhà thờ, cha xứ đưa William một mảnh giấy - Hai hào sáu xu, thưa ông.

- Để làm gì ạ? William hỏi.

- Giấy chứng nhận kết hôn, thưa ông Kane.

- Ông phải làm ngân hàng mới đúng, thưa ông. - William nói và đưa cho ông ukesbury nửa đồng bảng. Anh lặng lẽ cùng vợ mới cưới đi trở về nhà trọ Bell. Họ cùng ăn một bữa tối theo kiểu thế kỷ mười lăm trong căn phòng gỗ sồi ở nhà ăn, rồi khoảng ít phút sau chín giờ thì đi ngủ. Họ đi khuất sau chiếc cầu thang cổ bằng gỗ về phòng mình. Người phụ trách tiếp tân của nhà trọ nháy mắt với người phụ việc. - Nếu họ lấy nhau thì tôi cũng sướng bằng Vua nước Anh.

William thầm hát bài "Chúa phù hộ cho nhà Vua" Sáng hôm sau hai vợ chồng Kane ăn một bữa sáng thoải mái trong khi chờ chữa xe. Một người phục vụ trẻ rót cà phê cho họ.

- Em muốn uống đen hay là anh cho sữa vào thêm?- William ngây thơ hỏi vợ.

Một đôi vợ chồng già ngồi bàn bên nghe anh nói thế mỉm cười.

- Em uống với sữa, anh ạ - Kate nói và tay đưa qua bàn sờ vào tay William.

Anh mỉm cười nhìn lại, chợt thấy cả phòng ăn ai cũng quay sang nhìn anh.

Họ trở về London trong không khí đầu xuân mát mẻ, đi qua vùng Henley, qua sông Thames, rồi qua vùng Berkshire với Miđlesex về London.

- Em có để ý cái nhìn của người gác cửa sáng nay không - William nói.

Có em nghĩ có lẽ mình đã phải đưa cho họ xem giấy chứng nhận kết hôn.

- Không, không, làm như thế thì hỏng mất cả hình ảnh tự do của người đàn bà Mỹ. Tối nay về nhà, chắc anh ta cũng không dám nói rằng chúng ta đã lấy nhau thật sự.

Họ về đến khách sạn Ritz vừa lúc ăn trưa. Người quản lý quầy tiếp tân ngạc nhiên thấy William hủy bỏ căn phòng của Kate. Sau đó, anh được nghe họ bình luận rằng "cái ông Ka ne trẻ này rất lịch sự. Trước kia bố ông không hề làm như thế bao giờ." William và Kate lại đi tàu Aquitania về New York.

Trước khi đi, hai người đến sứ quán Mỹ gặp viên lãnh sự để thông báo về tình trạng cưới xin của họ. Viên lãnh sự đưa cho họ một bản khai dài để họ điền vào, yêu cầu họ trả một đồng bảng tiền phí và bắt chờ đến hơn một tiếng đồng hồ. Hình như sứ quán Mỹ không có yêu cầu phải làm lại mái nhà, William muốn đi đến nhà hàng Cartier ở phố Bong để mua chiếc nhẫn cưới bằng vàng, nhưng Kate không nghe và không chịu bỏ chiếc vòng đồng rất quý đã dứt ở màn cửa ra.

William thấy khó có thể ở Boston và làm việc dưới quyền ông chủ tịch mới. Những quy tắc của chính sách Tân Kinh Tế đã nhanh chóng chuyển thành luật với một tốc độ không ngờ, do đó giữa William với Toni Simmons không sao nhất trí được với nhau về chuyện đầu tư là tốt hay không tơt. Ở Anh về nhà được ít lâu thì Kate báo tin chị đã có mang khiến bố mẹ và chồng hết sức vui mừng. William định đổi giờ làm việc của anh cho thích hợp với vai trò một người đã có vợ. Thường thường anh đến cơ quan làm việc suốt những đêm hè nóng nực. Kate đã bắt đầu khoác chiếc áo hoa thùng thình của đàn bà có chửa, chỉ quan tâm lo đến việc trang trí khu nhà trẻ của mình.

William cảm thấy muốn bỏ công việc bàn giấy và chỉ nhấp nhổm muốn về nhà. Nếu công việc còn dở dang, anh đem cả giấy tờ về nhà làm tiếp. Đó cũng là cách anh sẽ làm trong cả cuộc đời có vợ con của mình.

Trong khi Kate và đứa con sẽ ra đời vào khoảng thời gian lễ Giáng sinh đem lại cho Wilham rất nhiều hạnh phúc ở nhà, thì Matthew lại khiến cho anh ngày càng lo lắng hơn. Anh ta đã trở thành nghiện rượu và thường đến làm việc muộn mà không có giải thích lý do tại sao. Ngày tháng trôi qua, William cảm thấy anh không còn có thể tin ở những ý kiến của bạn mình nữa. Lúc đầu, anh không nói gì, chỉ mong đó là một vài biểu hiện bình thường thôi, nhưng lâu dần thấy nghiêm trọng hẳn lên. Vào một buổi sáng tháng mười một, Matthew đến làm việc chậm khoảng hai tiếng đồng hồ, trông rõ ràng là người bị nhức đầu mất ngủ. Anh ta đã làm một việc sai lầm không cần thiết là bán đi một khoản đầu tư khiến cho một khách hàng lẽ ra thu được khoản lợi tức khá lớn thì lại bị thua thiệt. William biết là đã đến lúc phải có một cuộc chạm trán không lấy gì làm vui vẻ nhưng cần thiết. Matthew nhận là mình sai lầm và xin lỗi.
 
William lấy làm mừng đã giải quyết được một chuyện vướng mắc, đang định rủ bạn cùng đi ăn trưa thì bỗng cô thư ký ở đâu chạy vào.

Vợ Ông, thưa ông. Bà ấy đã được đưa đến bệnh viện.

- Tại sao? - William ngơ ngác hỏi.

- Đứa bé, - Cô thư ký nói.

- Nhưng ít ra cũng còn sáu tuần nữa mới đẻ kia mà, - William nói với vẻ không tin.

- Vâng, thưa ông, nhưng bác sĩ Mac Kenzie có vẻ lo lắng và muốn ông đến bệnh viện càng nhanh càng tốt.

Matthew bỗng đang từ chỗ ỉu xìu nhanh nhẹn hẳn lên và đưa ngay William đến bệnh viện. Trong ký ức của cả hai người đều diễn lại cảnh mẹ William qua đời cùng với đứa bé gái không đẻ được.

- Cầu Chúa, sao cho Kate không hề gì, - Matthew nói và đánh xe vào khu bên trong bệnh viện.

William không cần có người dẫn đến khu hộ sinh mang tên Richard Kanne, nơi Kate đã chính thức làm lễ khánh thành cách đây sáu tháng. Anh thấy một cô y tá đứng bên ngoài phòng đẻ. Cô ta cho anh biết bác sĩ Mac Kenzie đang ở trong đó với vợ anh và Kate đã mất rất nhiều máu. William đi đi lại lại trong hành lang không biết làm gì, chỉ lặng yên đợi y như anh đã từng làm trước đây ít năm. Chung quanh đây, cái gì đối với anh cũng quen thuộc cả. Làm chủ tịch ngân hàng thì có quan trọng gì đâu so với việc mất Kate.

Không biết lần gần đây nhất anh nói với Kate câu ,Anh yêu em" là vào hôm nào nhỉ? Matthew ngồi đó với William, đi đi lại lại với William, đứng với William, nhưng không nói gì. Chẳng có gì để mà nói.

Mỗi cần cô y tá chạy ra chạy vào phòng đẻ, William lại nhìn đồng hồ. Mỗi giây dài bằng một phút, mỗi phút dài bằng một giờ. Cuối cùng bác sĩ Mac Kenzie bước ra, trán đẫm mồ hôi, miệng và mũi ông còn đang bịt khẩu trang. William không thấy được biểu hiện gì trên mặt bác sĩ. Ông rút khẩu trang ra và cười toe toét Chúc mừng anh, William, anh có đứa con trai rồi, và Kate cũng bình thường.

- Tạ Ơn Chúa, - William trút ra một hơi thở và ôm lấy Matthew.

Tôi cũng tạ Ơn Đáng Tối cao, - Bác sĩ Mac Kenzie nói. - Tôi đã cảm thấy là sẽ vất vả với vụ đẻ này.

Tôi vào thăm Kate được không? - Wilham cười.

- Không, bây giở thì không được. Tôi đã cho cô ấy uống thuốc an thần và cô ấy ngủ rồi. Cô ấy mất hơi nhiều máu nhưng đến sáng sẽ bình thường. Có thể hơi yếu một chút nhưng sẵn sàng gặp anh được. Tuy nhiên, anh có thể vào thăm con ngay bây giờ. Anh cũng đừng lạ thấy nó nhỏ quá, vì nó ra đời hơi sớm mà.

Bác sĩ dẫn William và Matthew theo hành lang vào một phòng trong đó họ nhìn qua tấm kính thấy một dãy sáu đứa trẻ nhỏ quấn tã thò chiếc đầu đỏ hỏn.

- Thằng nhỏ kia kia, - Bác sĩ Mac Kenzie nói và chỉ tay vào đứa nhỏ nằm ngoài cùng.

william nhìn vào khuôn mặt nhỏ bé xấu xí mà ngờ ngợ. Hình ảnh về một đứa con trai to lớn đẹp đẽ biến đâu mất.

- Tôi phải nói một điều về cái thằng qủy này nhé,- Bác sĩ Mac Kenzie vui vẻ nói. - Nó còn đẹp hơn anh nhiều lúc mới ra đời, và anh thì lúc đẻ cũng không khó khăn gì lắm mà còn thế.

William cười yên tâm.

- Anh sẽ đặt tên nó là gì?

Richard Higginson Kanne.

Bác sĩ thân mật vỗ lên vai người mới làm bố.

Tôi mong mình sẽ còn sống đủ lâu để đỡ cho đứa con đầu lòng của Richard.

William lập tức điện cho hiệu trưởng Si. Paul giữ chỗ cho con học vào năm 1943. Anh chàng mới làm bố và Matthew làm một bữa rượu say tuý luý và sáng hôm sau vào bệnh viện thăm Kate khá muộn. Wilham lại đưa Matthew đến xem thằng bé Richard một lần nữa.

- Thằng nhóc trông xấu quá nhỉ, - Matthew nói. - Nó chẳng có một tí gì cái đẹp của mẹ nó cả.

- Mình cũng nghĩ thế, - Wilham nói.

Nhưng nó rất giống cậu.

William trở về căn phòng Kate đang nằm, chung quanh chất đầy hoa.

- Anh có thích con trai không? - Kate hỏi chồng - Nó giống anh lắm nhé.

Còn ai nói nó giống anh nữa, anh sẽ đánh. - William nói. - Chưa từng thấy đứa nào xấu thế.

ồ không, - Kate không bằng lòng nói. - Nó đẹp chứ.

- Một khuôn mặt mà chỉ có người mẹ yêu được, - William nói và ôm hôn vợ.

Chị níu lấy anh, sung sướng.

Bà nội Kane nếu còn sống thì không biết sẽ nói thế nào về đứa con đầu lòng của mình ra đời chỉ sau khi chưa đến tám tháng kể từ lúc cưới. - Anh không muốn tỏ ra thiếu nhân từ, nhưng đứa trẻ nào ra đời dưới mười lăm tháng đều phải coi như đáng ngờ về phần bố mẹ, còn dưới chín tháng thì dứt khoát là không chấp nhận được. - William bắt chước giọng bà nội nói câu đó. - A nhân đây, Kate, anh quên không nói một điều trước khi họ vội vã đưa em vào bệnh viện.

Điều gì thế - Nói là anh yêu em.

Kate và thằng bé Richard phải ở lại trong bệnh viện gần ba tuần. Phải đến sau lễ Giáng sinh thì Kate mới hoàn toàn khôi phục được sức khỏe. Ngược lại, Richard lớn nhanh như thổi, không cần biết mình có thuộc dòng họ Kane hay không, William là người đàn ông đầu tiên thay tã cho thằng bé và đẩy xe nôi đưa nó đi chơi. Kate rất lấy làm tự hào và ngạc nhiên về chồng mình. William khuyên Matthew là đã đến lúc anh phải kiếm lấy một người đàn bà ngoan ngoãn và thành lập gia đình đi thôi.

Matthew cười gượng nói :

- Cậu có vẻ một người trung niên rồi đấy. Khuyên tớ câu nữa là cậu sẽ có tóc bạc.

Nhưng trong cuộc chiến tranh để giành lấy quyền làm chủ tịch ngân hàng, anh đã có vài ba sợi tóc bạc rồi. Matthew không để ý đến chuyện đó.

William không nhớ rõ là quan hệ giữa anh và Tony Simmons bắt đầu sút kém đi từ bao giờ. Tony liên tục phủ quyết những ý kiến của anh về chính sách ngân hàng, và thái độ tiêu cực của ông ta khiến William thực sự muốn từ chức. Matthew thì chẳng giúp gì được vào đây mà còn trở lại với chuyện nghiện rượu.

Thời kỳ sửa chữa chỉ kéo dài được vài tháng, bây giờ anh lại nghiện nặng hơn, sáng nào cũng đến làm việc chậm mấy phút, Wilìiam không biết mình nên giải quyết tình hình này thế nào, chỉ biết cứ phải làm thêm những việc của Matthew. Vào cuối mỗi ngày, william cứ phải kiểm tra lại thư từ gửi đến cho Matthew và trả lời điện thoại cho anh ta.

Sang mùa xuân 1936, những nhà đầu tư tin ở ngân hàng hơn và những người gửi tiền cũng trở lại, William cho rằng đã đến lúc quay về với thị trường chứng khoán. Nhưng Tony phủ quyết ý kiến đó trong một công văn nội bộ gửi thẳng cho ủy ban Tài chính, William xông thẳng vào phòng làm việc của Tony đề nghị cho anh được từ chức.

- Tất nhiên anh không từ chức được, William. Tôi chỉ muốn anh thừa nhận cho một điều là chính sách của tôi cai quản ngân hàng này bao giờ cũng là bảo thủ, và tôi không muốn lại húc đầu vào thị trường bằng tiền của các nhà đầu tư.

- Nhưng chúng ta mất đi lợi ích kinh doanh do các ngân hàng khác, và cứ ngồi đó mà nhìn họ thu lợi trong tình hình hiện nay sao được. Ngay cả những ngân hàng mười năm trước đây không được coi là đối thủ của ta bây giờ cũng sắp vượt ta rồi.

Vượt ta về cái gì, William? Hẳn là không thể vượt ta về tiếng tăm rồi. Vượt về kiếm lợi nhuận nhanh chóng đấy, nhưng tiếng tăm thì không đâu.

- Nhưng tôi quan tâm đến lợi nhuận, - William đáp - Tôi coi bổn phận của ngân hàng là phải đem lại nhiều lợi tức cho những người đầu tư, chứ không phải ngồi ỳ ra đó mà giữ vẻ lịch sự.

- Tôi thà ngồi yên đó còn hơn là để mất tiếng tăm đã được ông anh và bố anh xây dựng nên trong hơn nửa thế kỷ.

- Phải, nhưng cả hai người đó đều tìm kiếm những cơ hội đề mở rộng hoạt động của ngân hàng.

Trong những lúc thuận lợi, - Tony nói.

Và cả trong những lúc khó khăn nữa, - William nói.

- Tại sao anh phải thất vọng thế, William? Anh vẫn còn có quyền tự do trong việc quản lý bộ phận của anh kia mà.

- Tôi làm quái gì có tự do ấy. Ông đã chặn đứng tất cả những gì người ta đề nghị cho kinh doanh rồi.

- Ta nên nói thẳng với nhau đi, William. Một trong những lý do tôi cần phải rất thận trọng trong thời gian gần đây, đó là những ý kiến của Matthew không còn có thể tin cậy được nữa.

- Ông hãy bỏ Matthew sang một bên đi. Chính là ông chặn tôi, tôi là người trưởng bộ phận kia mà.

- Tôi không thể bỏ Matthew sang một bên được. Tôi muốn bỏ lắm chứ. Trách nhiệm cuối cùng trước ban giám đốc về hành động của bất cứ ai là tôi phải chịu, và anh ta lại là người đứng hàng thứ hai trong một bộ phận quan trọng nhất của ngân hàng.

- Phải, rồi đến trách nhiệm của tôi, vì tôi là người đứng đầu bộ phận ấy.

Không, William, nó không thể là trách nhiệm của riêng anh nếu Matthew đến làm việc mười một giờ sáng mà lại đang say rượu. Dù cho hai người các anh là bạn với nhau bao lâu và thân thiết đến thế nào thì cũng vậy thôi.

- Ông đừng nói quá.

Tôi không nói quá đâu, William. Đã hơn một năm nay ngân hàng phải chịu đựng với Matthew Lester, và điều duy nhất khiến tôi không nhắc đến chỉ vì anh có quan hệ chặt chẽ với anh ta. Tôi sẽ không lấy làm tiếc nếu anh ta nộp đơn từ chức. Nếu là một người khác thì đã làm như thế từ lâu và bạn anh ta cũng đã bảo anh ta từ lâu rồi.

- Không bao giờ, - William nói, - Nếu anh ta đi, tôi cũng đi.

- Tùy anh thôi, William, - Tony nói. - Trách nhiệm đầu tiên của tôi là đối với những nhà đầu tư, chứ không phải với những bạn học cũ của anh.

ông sẽ ân hận về lời tuyên bố đó, Tony, - William nói. Anh ta xăm xăm bước ra ngoài và trở về phòng mình trong cơn điên giận.

- Ông Lester đâu? - William hỏi khi bước qua chỗ cô thư ký.

- Ông' ấy chưa đến, thưa ông.

William nhìn đồng hồ tay, bực bội. - Ông ấy đến bảo vào gặp tôi ngay.

- Thưa vâng.

Wilham đi đi lại lại trong phòng làm việc, chửi thầm. Mọi thứ Tony Simmons nói về Matthew đều đúng cả, quả nhiên là chỉ mỗi lúc một tồi tệ thêm.

Anh bắt đầu nghĩ lại xem tất cả những chuyện đó có từ bao giờ, tìm cách tự giải thích cho mình. Anh đang nghĩ ngợi thì cô thư ký vào báo.

- Ông Lester vừa đến, thưa ông.

Matthew bước vào với vẻ rón rén, trên mặt có đủ biểu hiện của một người nhức đầu mất ngủ vì uống rượu. Trong năm qua anh ta đã già đi nhanh chóng, da dẻ không còn cái bóng bẩy của một anh lực sĩ trước đây nữa. William hầu như không thể nhận ra đây là con người đã từng là bạn thân của anh gần hai mươi năm nay.

- Matthew, cậu đi đâu thế - Mình ngủ quá giấc, - Matthew đáp, đưa tay lên gãi mặt. - Có lẽ đêm qua thức khuya quá.

- Cậu muốn nói là uống nhiều quá chứ gì.

- Không, mình có uống nhiều rượu đâu. Đó là một cô bạn gái mới cứ bắt mình thức suốt đêm. Cô ta không bao giờ thỏa mãn cả.

- Matthew, bao giờ cậu mới chấm dứt chuyện đó? Cậu đã ngủ với hầu hết các cô gái chưa chồng ở Boston rồi.

- Cậu đừng nói quá thế, William. Chắc là còn một vài cô mình chưa ngủ chứ. Rồi cậu còn quên không nói đến hàng ngàn cô đã có chồng nữa.

- Không phải chuyện đùa đâu, Matthew.

- Thôi đi cậu, Wilham. Để cho mình yên đi.

- Để cho cậu yên à? Vì cậu mà mình vừa bị Tony Simmons sạc cho đấy. Hơn nữa, ông ta nói đúng. Cậu ngủ với tất cả những ai mặc váy, và tệ hơn nữa, cậu còn say rượu bí tỉ. Những ý kiến của cậu không còn được ai nghe nữa. Tại sao thế, Matthew? Tại sao, cậu nói cho mình biết đi. Hẳn phải có lý do gì chứ? Trước đây một năm cậu còn là người đáng tin cậy nhất trên đời này. Thế là thế nào, Matthew? Mình phải nói với Tony Simmons thế nào đây?

- Cậu nói với Simmons bảo ông ta im đi cho người ta nhờ, và đừng có dính vào việc của người khác.

- Matthew, cậu phải công bằng chứ, đây là việc của ông ấy. Chúng ta đang quản lý một ngân hàng, chứ không phải một cái nhà chứa, còn cậu đến đây làm giám đốc là do cá nhân mình đề nghị, - Wiìliam nói, không kìm được giận dữ trong giọng của anh.

Và bây giờ thì mình không đáp ứng được yêu cầu của cậu nữa chứ gì, phải cậu đinh nói thế không?

Không, không phải mình muốn nói như vậy.

- Vậy cậu muốn nói cái gì chứ - Cậu hãy làm việc tử tế trong ít tuần đi. Rồi mọi người sẽ quên đi những chuyện đó.

- Cậu chỉ muốn có thế thôi?

- Phải, - William nói.

- Tôi sẽ làm như ông yêu cầu, thưa ông chủ. - Matthew nói, rập gót giầy một cái rồi bước ra cửa.

- Thật là khổ - William nói.

Chiều hôm đó, William muốn cùng với Matthew xét về một hồ sơ của khách hàng, nhưng không ai biết được anh ta ở đâu mà tìm. Sau bữa ăn trưa, người ta không thấy anh ta trở về cơ quan, và suốt ngày hôm đó cũng không thấy nữa.

Buổi tối, cho thằng bé Richard đi ngủ mà William vẫn cứ lo lo về Matthew, Richard đã có thể nói bập bõm được một vài tiếng nhưng không phát âm được đúng con số "ba".

- Nếu con không phát âm được đúng con số như vậy thì sau này khó mà làm được ngân hàng, Richard ạ - William đang nói với con thì Kate bước vào.

- Có lẽ nó sẽ làm cái gì đó có lợi hơn, - Kate nói.

Còn có gì lợi hơn ngân hàng được? - Willỉam hỏi.

Biết đâu đấy, nó có thể là một nhạc sĩ, hoặc một cầu thủ dã cầu, hoặc có thể là Tổng thống Hoa Kỳ cũng chưa biết chừng.

- Trong ba thứ đó, anh muốn nó là cầu thủ thì hơn, vì chỉ có một thứ này có đồng lương tử tế thôi, - William vừa nói vừa bế Richard vào giường. Thằng bé cố nói lại con số nhưng vẫn không phát âm được đúng.

William đành thôi không dạy con nữa.

- Trông anh mệt mỏi tắm đấy. Anh chưa quên là sau đây chúng ta còn phải đến nhà Andrew Mac Kenzie uống rượu nữa chứ.

- Trời ơi, anh quên khuấy đi mất. Mấy giờ chúng mình phải đến đó?

- Một giờ nữa.

Thế thì anh phải đi tắm nước nóng một cái đã.

- Anh phải nhường cho phụ nữ tắm trước chứ? - Kate nói.

- Tối nay anh cần thoải mái một chút. Cả ngày hôm nay bị điên đầu rồi.

- Lại Tony làm phiền anh chứ gì.

Phải, nhưng có lẽ lần này ông ta đúng. Ông ta phàn nàn về chuyện Matthew say rượu. Cũng may mà ông ta không nhắc gì đến chuyện cậu ta lăng nhăng với đàn bà. Bày giờ khó mà đưa Matthew đến dự một cuộc chiêu đãi nào nếu như ở đó chủ nhà không đem con gái lớn của mình, thậm chí cả vợ mình, nhốt kỹ vào một chỗ nào đó. Em mở nước tắm cho anh được không?

William ngồi ngâm trong bồn tắm đến nửa giờ. Kate phải vào kéo anh ra không thì anh sẽ ngủ quên trong đó mất. Mặc dầu cô đã giục cuống, hai vợ chồng vẫn đến chỗ Mackenzie muộn tới hai mươi lăm phút.

Vậy mà đến đó đã thấy Matthew sắp say rượu và đang tán tỉnh bà vợ của một nghị sĩ quốc hội. William định bước đến can thiệp, nhưng Kate ngăn lại.

- Anh đừng nói gì hết, - Kate bảo anh.

Anh không thể đứng đây nhìn cậu ta xuống dốc như thế được, - William nói. "Cậu ta là bạn thân nhất của anh, anh phải làm gì chứ".

Nói thế nhưng anh vẫn nghe Kate khuyên, và cả buổi tối nhìn Matthew mỗi lúc một say hơn. Ở đầu phòng bên kia, Tony Simmons vẫn liếc nhìn William, nhưng anh yên tâm thấy Matthew bỏ về sớm, dù là cùng về với một người đàn bà không có ai kèm theo.

Matthew đi rồi, anh mới cảm thấy nhẹ người đôi chút.

- Chú bé Richard thế nào? - Andrew Mac Kenzie hỏi.
 
- Nó không nói được con số "ba", - William nói - Thế thì tốt, - Bác sĩ Mackenzie nói. Có thể sau này nó làm một cái gì đó hay hơn. Chưa biết chừng nó làm được cái gì văn minh hơn cơ đấy, - Ông nói thêm.

- Tôi cũng bảo thế, - Kate nói. - A mà William này, hay nhất là nó có thể trở thành bác sĩ.

- Thế là an toàn đấy, - Andrew nói. - Tôi biết có nhiều bác sĩ không thể đếm được đến quá hai.

- Trừ phi họ gửi hóa đơn đòi tiền thì không kể, - William nói.

- Cô uống gì nữa chứ, Kate? - Andrew cười Thôi, xin cảm ơn, Andrew. Bây giờ đến lúc về rồi.

Nếu chúng tôi ở đây lâu thì chỉ còn lại có Tony Simmons với William, mà cả hai người đều biết đếm đến quá hai thì chúng ta lại mất cả đêm ở đây mà nói chuyện về ngân hàng thôi.

Đồng ý, - William nói. - Cảm ơn ông về cuộc chiêu đãi thú vị, Andrew. Nhân đây, tôi xin lỗi về cử chỉ của Matthew.

- Tại sao? - Bác sĩ Mackenzie hỏi.

- Thôi đi ông biết rồi đấy, Andrew. Không những cậu ta say rượu, mà trong phòng này không có người đàn bà nào yên được với cậu ta.

- Nếu ở vào tình trạng như cậu ta thì đến tôi cũng làm như vậy, - Andrew Mackenzie nói.

- Sao ông nói vậy? - Wilham không hiểu. - Không thể vì cậu ta độc thân mà cho phép làm thế được.

- Không, không phải thế, nhưng tôi đã cố tìm hiểu và thấy rằng nếu mình cũng gặp những vấn đề tương tự thì rất có thể sẽ vô trách nhiệm như thế thôi.

- Ông nói vậy nghĩa là sao? - Kate hỏi.

- Trời đất ơi? - Bác sĩ Mackenzie thốt lên. - Cậu ta là bạn thân nhất mà không nói cho anh biết sao?

- Nói gì cơ ạ? - Hai người cùng hỏi lại.

Bác sĩ Mackenzie nhìn hai người một lúc, vẻ như không tin.

- Vậy thì vào thư viện của tôi.

William và Kate theo bác sĩ vào một căn phòng nhỏ chung quanh tường toàn những sách về y học chỉ còn để chừa vài chỗ nhỏ treo ảnh không có khung chụp hồi ông còn học ở Corneìl.

- Xin mời ngồi, - Ông nói. - William, tôi không cần phải xin lỗi về điều tôi sắp nói đây, nhưng tôi vẫn cứ cho rằng anh biết là Matthew ốm nặng, thực ra là đang chết mòn về bệnh hoại huyết. Cậu ta đã biết về tình hình đó hơn một năm nay rồi.

William ngã người ra ghế, im lặng một lúc không nói được.

- Hoại huyết ư?

Phải, đó là một dạng các tế bào bị viêm và ăn vào máu, - Bác sĩ giải thích.

- Sao cậu ấy không nói gì với tôi? - William lắc đầu không tin.

- Các anh biết nhau từ hồi còn ở trường. Tôi đoán là cậu ta tự trọng không muốn phiền đến ai. Cậu ta nghĩ thà cứ thế mà chết còn hơn để cho ai biết mình có bệnh ấy. Từ sáu tháng nay tôi đã bảo cậu ta nên nói cho ông bố biết. Bây giờ tôi nói cho anh biết tức là tôi đã hủy cả lời hứa nghề nghiệp với cậu ta rồi đó, nhưng tôi không thể để cho anh trách cứ cậu ta mãi về điều mà chính anh ta không làm chủ được.

- Cảm ơn ông, Andrew, - William nói. - Sao tôi có thể mù quáng và ngu ngốc thế được nhỉ.

- Anh cũng đừng tự trách mình, - Bác sĩ Mac Kenzie nói. - Vì anh cũng chẳng làm sao mà biết được.

- Thực sự là không hy vọng gì nữa sao? - William hỏi. - Không có bệnh viện hay chuyên gia nào chữa được ư? Tiền thì không thành vấn đề....

- Tiền không thể mua được mọi thứ đâu, William. Tôi đã hỏi ba người giỏi nhất nước Mỹ với một người ở Thụy Sĩ. Tôi e rằng họ cũng đều nhất trí với chẩn đoán của tôi. Y học chưa tìm ra được phương thuốc chữa bệnh hoại huyết này.

- Anh ấy còn sống được bao lâu nữa, - Kate khẽ hỏi.

- Chậm là sáu tháng, nhanh là ba tháng.

- Thế mà tôi cứ trách oan cậu ấy. - William nói. Anh nắm chặt lấy tay Kate như người bị nạn vớ được cái phao. - Thôi, chúng tôi đi đây, Andrew. Cảm ơn ông đã cho chúng tôi biết.

- Anh có thể làm gì cho cậu ta được thi làm, - Bác sĩ nói. - Nhưng lạy Chúa, anh nên thông cảm. Cứ để cậu ta muốn làm gì thì làm. Đây là những tháng cuối cùng của Matthew, không phải của anh. Đừng cho cậu ta biết là tôi nói nhé.

William và Kate yên lặng ngồi xe về nhà. Về đến nơi, Wilham gọi ngay cho cô gái mà Matthew lúc trước cùng đi về.

- Tôi có thể nói chuyện với Matthew Lester được không?

Anh ấy không có ở đây, - Một giọng hơi gắt gỏng đáp lại - Anh ấy kéo tôi đến Câu lạc bộ Revue, nhưng đến đó thì anh ấy đã say rồi và tôi từ chối không vào đó với anh ấy nữa. - Rồi cô ta bỏ máy.

Câu lạc bộ Revue. William nhớ mang máng là đã trông thấy cái biển đó ở đâu rồi nhưng không biết địa điểm cụ thể. Anh tìm trong cuốn danh bạ điện thoại, lên xe đi về phía Bắc Thành phố và sau khi hỏi một người đi đường, anh đã tìm ra chỗ đó. William gõ cửa.

Một lỗ cửa con được kéo xuống.

- Ông có phải hội viên không?

- Không, - William đáp và tuồn một tờ mười đô la qua cửa.

Lỗ cửa đóng xuống và cửa to mở ra. William đi giữa sàn nhảy, hơi ngượng với bộ quần áo chỉnh tề của mình. Những người nhảy đang quấn lấy nhau, không ai để ý đến anh. William liếc nhìn vào một phòng mù khói, nhưng Matthew không có đó. Cuối cùng, anh nhận ra một cô gái hình như đã có đi với Matthew một lần nào đó mà anh bắt gặp. Cô ta đang ngồi bắt tréo chân ở góc nhà với một thủy thủ.

William bước đến chỗ cô ta.

- Xin lỗi cô, - Anh nói.

Cô ta nhìn lên nhưng rõ ràng là không nhận ra William.

- Cô này đi với tôi, mời anh đi cho, - Anh thủy thủ nói.

Cô có trông thấy Mathew Lester không?

- Matthew? - Cô gái hỏi lại. - Matthew nào?

- Tôi bảo anh cút đi, - Tay thủy thủ đứng dậy nói.

Anh nói một câu nữa là tôi đập vỡ đầu anh ra bây giờ - William nói.

Tay thủy thủ đã từng trông thấy con mắt dữ tợn như thế một lần trong đời rồi, và anh ta đã suýt bị mất một con mắt về chuyện đó. Anh ta sợ hãi ngồi xuống.

Matthew ở đâu?

- Tôi có biết Matthew nào đâu hở anh. - Cô gái cũng tỏ vẽ sợ hãi.

- Người cao dong dỏng, tóc vàng, mặc quần áo như tôi và có lẽ say rượu.

ồ anh muốn nói Martin ư Anh ta có tên là Martin ở đây, không phải là Matthew đâu. - Cô ta nhẹ người. - Để xem nào, tối nay anh ta đi với ai nhỉ? - Cô ta quay ra phía quầy rượu và hét to lên hỏi. - Này, Ten, Martin đi với ai nhỉ?

- Jeuny.

Người trông quầy rượu nhấc đầu mẩu thuốc lá ở mép ra đáp, rồi lại để thuốc lá về chỗ cũ.

- à, đúng rồi, Jenny, - Cô gái nói. - Khoan .để tôi xem đã nhé. Nó tiếp khách rất ngắn, chẳng bao giờ đi với ai quá nửa tiếng cả, rồi nó quay lại đây bây giờ:

Cảm ơn cô, - William nói.

Anh chờ đến hơn một giờ ở quầy rượu, uống Whisky với rất nhiều nước, cảm thấy rất lạc lõng ở chỗ này.

Cuối cùng, người trông quầy rượu, điếu thuốc lá chưa châm vẫn ngậm ở mép, đưa tay chỉ một cô gái vừa bước vào.

- Đó là Jenny, - Anh ta nói. Không thấy có Matthew cùng đi với cô ta.

Người trông quầy rượu gọi Jenny đến. Cô ta gầy nhỏ, tóc đen, trông cũng hấp dẫn. Cô ta nháy William và ưỡn ẹo đi tới.

- Tìm em hả, anh yêu? Em sẵn sàng đây, nhưng em lấy mười đô la nửa giờ nhé.

- Không, tôi không cần cô, William nói.

- Dễ thương chưa, - Jenny nói.

Tôi tìm người vừa đi với cô, Matthew.... tôi muốn nói là Martin ấỵ...

- Martin ư, anh ta quá say đến mức có đem cần cẩu đến cũng không dựng được dậy, nhưng anh ta trả mười đô la rồi. Bao giờ anh ta cũng trả thế đấy, rất lịch sự.

Anh ta đang ở đâu? - William sốt ruột hỏi.

- Tôi không biết. Anh ta bỏ không làm gì cả, rồi cứ thế đi bộ về nhà.

William chạy ra ngoài phố. Không khí lạnh ngoài trời làm anh tỉnh dần. Anh từ từ cho xe chạy từ câu lạc bộ theo con đường về nhà Matthew, nhìn kỹ từng người đi trên đường. Có người bắt gặp con mắt của anh thì sợ, vội bước đi. Có người thấy thế muốn hỏi chuyện. Lúc dừng lại trước đèn đỏ ở một nhà hàng ăn bán suốt đêm, anh nhìn qua cửa sổ mờ mờ thấy có bóng Matthew trong đó, tay cầm cốc đang đi qua dãy bàn. William đỗ xe, vào trong nhà hàng đến chỗ bên cạnh anh ta. Matthew đã gục xuống bàn. Cốc cà phê chưa uống bắn tung tóe. Anh ta say quá nên không nhận ra được William nữa.

- Matthew, tớ đây mà, - William lên tiếng và nhìn anh chàng đang rũ xuống bàn. Nước mắt chảy trên má William.

Matthew ngửng lên, làm đổ thêm cà phê ra bàn.

- Cậu khóc đấy ư? Mất người yêu rồi sao?

Không, mất người bạn thân nhất, - Wilham nói.

- A thế thì khó đấy.

- Mình biết, William nói.

- Tớ có một người bạn rất tốt, - Matthew nói, lưỡi líu lại. - Cậu ta xưa nay vẫn ủng hộ tớ, thế mà hôm nay lần đầu tiên chúng tớ cãi nhau. Cũng là lỗi ở tớ thôi. Cậu thấy không, tớ đã làm cậu ta thất vọng.

- Không đâu, - Wìlliam nói.

- Cậu làm sao biết được, Matthew gắt. - Cậu không biết cậu ta là ai kia mà.

- Chúng mình đi về nhà đi, Matthew.

Tên tớ là Martin, - Matthew nói.

- Xin lỗi cậu, Martin, chúng ta đi về nhà đi.

- Không, tớ muốn ở đây. Có một cô gái chốc nữa sẽ đến. Bây giờ tớ sẵn sàng đi với cô ta rồi.

- Ở nhà mình có rượu Whisky ngon cho cậu, - William nói. - Vậy sao cậu không về nhà mình?

- Ở chỗ cậu có đàn bà không?

Có, nhiều lắm.

- Thế thì được, tớ sẽ về.

William đỡ Matthew đứng dậy, quàng tay vào dưới vai rồi từ từ dìu anh ra cửa. Lần đầu tiên anh mới thấy được rằng Matthew rất nặng cân. Ra đến ngoài, anh nghe thấy hai người cảnh sát ngồi ở góc quầy nói với nhau:

- Nốc cho lắm vào Anh đưa Matthew ra đến xe rồi về nhà. Kate đang còn đợi.

- Sao em không đi ngủ trước đi.

Em không ngủ được, - Cô nói.

- Có lẽ cậu ta vẫn còn đang hồ đồ lắm.

- Có phải đây là cô gái cậu hứa với tớ không - Matthew nói.

- Phải, cô ta sẽ săn sóc cậu, - William nói, rồi cùng Kate cùng dìu anh ta lên phòng khách, đặt nằm vào giường. Kate bắt đầu cởi bỏ áo ra cho anh ta.

- Em cũng phải cởi áo em ra nữa cơ, - Anh ta nói.- Anh đã trả mười đô la rồi.

Cứ nằm xuống đã, - Kate khẽ nói.

- Tại sao trông em buồn thế, người đẹp của anh? - Matthew nói.

- Vì em yêu anh, Kate nói và rưng rưng nước mắt.

- Đừng khóc, - Mathew nói. - Không có gì đáng khóc. Rồi lần này anh sẽ cố làm được cho em xem.

Cởi áo cho Matthew rồi, William lấy chăn đắp lên người cho anh ta. Kate tắt đèn.

- Em hứa sẽ lên giường với anh mà, - Matthew nói trong lúc mê sảng.

Kate khẽ đóng cửa lại.

William ngủ ngay trên chiếc ghế ở ngoài phòng Matthew vì sợ nửa đêm anh ta có thể thức dậy bỏ đi.

Đến sáng Kate đánh thức anh dậy rồi đem thức ăn sáng vào cho Matthew.

- Tôi làm gì ở đây thế này, Kate? - Matthew vừa mở mắt đã hỏi ngay.

- Đêm qua sau cuộc chiêu đãi où chỗ Mackenzie anh cùng về với chúng tôi mà, - Kate lúng túng trả lời Không, làm gì có chuyện ấy. Tôi đến Câu lạc bộ Revue với cô gái tên là Patricia hay gì đó mà cô ta không chịu cùng vào với tôi kia mà:

Lạy Chúa, sao tôi thấy người như ốm thế này nhỉ. Cho tôi cốc nước cà chua được không Tôi không muốn tỏ ra vô lễ, nhưng tôi chả muốn ăn sáng tí nào.

Được thôi, Matthew.

william ở ngoài vào, Matthew ngước nhìn lên. Hai người im lặng nhìn nhau.

- Cậu biết cả rồi hả? - Cuối cùng Matthew nói.

- Biết, - William nói. - Mình thật là ngu, và mình mong cậu tha lỗi.

- Cậu đừng khóc, William, từ hồi cậu mười hai tuổi bị thằng Covington đánh cho và tớ phải kéo nó ra, thì từ đó đến nay tớ chưa hề thấy cậu khóc bao giờ. Cậu có nhớ không? Không biết thằng Covgington bây giờ thế nào rồi. Có lẽ nó đang làm chủ nhà chứa ở Tijuana, mà nó cũng chỉ làm được đến thế thôi. Cậu nên nhớ, nếu Covington là chủ cái nhà chứa đó thì rất tốt cậu nên đưa tớ đến đó. Đừng khóc, Wilham. Người lớn ai lại khóc. Chả làm thế nào được đâu. Tớ đã đi khám ở các chuyên gia, từ New York đến Los Angeles đến Zurich, và chẳng ai làm thế nào được.

Sáng nay mình không đến làm việc được không? Mình thấy trong người còn mệt ghê gớnl. Nếu mình nằm đây lâu quá thì gọi mình dậy, hoặc nếu mình làm phiền gì thì cứ bảo, và mình sẽ biết tìm đường về nhà.

- Đây là nhà của cậu, - William nói.

Vẻ mặt Matthew bỗng thay đổi.

Cậu có nói cho bố mình biết không William?

Mình không thể giáp mặt bố được. Cậu cũng là con một, nên cậu hiểu.

Mình sẽ nói, - William đáp. - Mai mình sẽ đi New York và nói cho bố cậu biết, nhưng cậu phải hứa ở lại đây với Kate và mình. Nếu cậu muốn uống rượu thì mình sẽ không ngăn, hoặc nếu cậu muốn đi với bao nhiêu đàn bà cũng được, nhưng cậu phải ở đây.

- Bao nhiêu tuần nay, bây giờ mình mới được quan tâm đấy, William. Thôi bây giờ mình ngủ lại đã nhé. Mình mệt quá đi.

William nhìn Matthew ngủ lại và ngủ rất say. Anh nhấc cốc nước đã uống được một nửa trong tay Matthew ra. Nước cà chua loang ra một vệt trên chăn.

- Cậu đừng chết, - Anh nói khẽ với mình. - Matthew ơi cậu đừng chết. Cậu đừng quên rằng cậu với mình sắp sửa làm chủ một ngân hàng lớn nhất ở Mỹ đấy nhé?

Sáng hôm sau Wilham đi New York để gặp Charles Lester. Ông cụ nghe cái tin Wiìliam nói lại mà bỗng như già đi trông thấy và người ông cũng như nhỏ bé lại trong chiếc ghế.

- Cảm ơn cháu đã đến nói riêng với bác, William. Lâu nay hàng tháng không thấy Matthew về thăm nhà, bác đã cảm thấy như có chuyện gì không hay rồi.

Cứ cuối tuần bác sẽ lên đó vậy. Nó sẽ ở lại đó với cháu và Kate, và bác cũng sẽ tỏ ra không lấy gì làm buồn lắm khi được tin đó. Có Chúa mới biết được nó đã phạm tội gì để đến nỗi như vậy. Từ hồi mẹ Matthew mất đi, bác đã làm đủ thứ dành cho nó, thế mà bây giờ thì không còn ai để bác giành lại cho nữa.

- Bác đến Boston bất cứ lúc nào cũng được, thưa bác. Chúng cháu rất mong chờ bác.

- Cảm ơn cháu, Wilham, cảm ơn tất cả những gì cháu đã làm cho con bác. - Ông cụ nhìn anh. - Bác ước gì bố cháu còn sống để thấy con trai mình đã xứng đáng với cái tên Kanne thế nào. Giá như bác có thể đổi cho Matthew, để cho nó sống... ' - Cháu phải vội về với cậu ấy đây, bác ạ.

- Ừ cháu về đi. bảo với hò là bác yêu nó lắm, và bảo là bác đã dũng cảm nghe cái tin ấy nhé. Đừng nói gì khác với nó nhé.

- Vâng, thưa bác.

William trở về Boston thấy tối hôm ấy Matthew ở nhà với Kate và đang ngồi ngoài hiên bắt đầu đọc cuốn tiểu thuyết đang được bán rất chạy ở Mỹ, đó là cuốn Cuốn theo chiều gió. Anh ta ngước nhìn lên thấy William bước vào bằng cửa bên..

- Ông cụ nghe tin bảo sao?

- Ông cụ khóc, - William nói - Ông chủ ngân hàng Lester mà khóc ư? - Matthew nói. - Cậu chớ cho các cổ đông biết chuyện đó nhé.

Matthew không uống rượu nữa và cố gắng làm việc cho đến tận những ngày cuối. Wilham phải lấy làm kinh ngạc về quyết tâm của anh ta và cứ khuyên anh ta hãy từ từ đã. Nhưng anh ta không những làm hết các việc của mình mà còn trêu chọc Wilham bằng cách đọc lấn sang những thư từ gửi đến cho William nữa.
 
Tối tối trước khi đi xem hát hoặc dự tiệc, Matthew còn đánh quần vợt với Wiìliam hoặc chèo thuyền và vượt William trên sông Charles. Anh ta nói nhạo:

Khi nào mình thua cậu thì mình biết là lúc đó chết rồi.

Matthew không hề vào bệnh viện bao giờ. Anh thích ở lại nhà vợ chồng William. Với William thì anh thấy các tuần lễ trôi qua vừa quá chậm lại vừa quá nhanh, cứ mỗi buổi sáng ngủ dậy không biết Matthew còn sống hay không.

Matthew chết vào ngày thứ năm, hãy còn bỏ dở bốn chục trang của Cuốn theo chiều gió chưa đọc hết.

Tang lễ được tiến hành ở New York. William và Kate ở lại với Charles Lester. Chỉ trong có sáu tháng mà ông cụ đã già hẳn đi. Ông đứng bên mộ vợ và mộ đứa con trai độc nhất của mình, bảo William rằng ông không còn thấy có mục đích gì để sống trên đời này nữa. William không nói gì. Chẳng có lời nói nào khiến cho ông cụ đỡ đau buồn được. Ngày hôm sau, William và Kate trở về Boston không có Matthew vắng hẳn đi một cách kỳ lạ. Mấy tháng qua vừa là những tháng sung sướng nhất vừa là những tháng đau khổ nhất trong đời William. Cái chết đã khiến anh gần lại với Matthew và với Kate. Nếu là cuộc sống bình thường thì anh không thể gần với bạn và vợ như vậy được.

Sau cái chết của Matthew, Willam trở lại ngân hàng làm việc nhưng anh thấy rất khó có thể làm bình thường như cũ. Nếu là trước đây thì anh đã đứng dậy, sang phòng làm việc của Matthew hoặc trao đổi hoặc cười nói với nhau, hoặc ít nhất thì cũng còn thấy Matthew ngồi đó. Nhưng nay Matthew không còn đó nữa. Phải mất đến mấy tuần William mới thôi không nghĩ đến không khí làm việc cũ nữa.

Tony Simmons tỏ ra rất thông cảm, nhưng điều đó chẳng giúp được gì, Wilham mất hết cả hứng thú làm ngân hàng. Ngay trong chính ngân hàng Kanne và Cabot, anh cũng rầu rĩ hết tháng này sang tháng khác về cái chết của Matthew. Xưa nay anh vẫn đinh ninh rằng anh và Matthew sẽ cùng lớn lên, cùng già và cùng chia sẻ chung một số phận. Không ai có ý kiến gì khi thấy công việc của Wilham không còn có chất lượng như trước nữa. Ngay cả đến Kate cũng lo buồn thấy William ngồi không một mình hàng giờ.

Một buổi sáng, cô tỉnh dậy thấy anh ngồi bên mép giường và nhìn mình. Cô chớp mắt hỏi anh:

- Có chuyện gì không hay thế anh - Không, anh chỉ nhìn vào cái tài sản lớn nhất của mình, và tự hỏi xem có phải của mình thật không?

° ° °

Vào cuối nam 1932, trong lúc cả nước Mỹ đang bị kẹt trong gọng kìm của nạn kinh tế đình đốn, Abel đã hơi lo sợ về tương lai của Công ty Nam tước. Hai năm qua đã có đến hai nghìn ngân hàng phải đóng cửa, và hiện nay hàng tuần vẫn có thêm nhiều ngân hàng khác tiếp tục đóng. Chín triệu người vẫn thất nghiệp. Các khách sạn của Abel phải cố gắng lắm mới duy trì được một số nhân viên có tay nghề cao. Mặc dầu vậy, năm 1932 công ty Nam Tước cũng bị lỗ 72.000 đô la, mà đây là năm anh dự kiến sẽ cân bằng được thu chi. Anh bắt đầu lấy làm ngại, không biết người ủng hộ anh còn đủ tiền và còn đủ kiên nhẫn để giúp anh xoay chuyển lại tình thế được không đây.

Trước đó, Abel đã bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị trong quá trình An ton Cermak vận động và trở thành thị trưởng Chicago. Cermak đã thuyết phục Abel gia nhập đảng Dân chủ lúc đó đang tiến hành một chiến dịch dữ đội đòi bỏ lệnh cấm rượu.

Abel ra sức ủng hộ Cermak vì lệnh cấm rượu rất tai hại đối với việc làm ăn của các khách sạn. Cermak vốn là một người Tiệp Khắc nhập cư nên giữa Abel với Cermak đã lập tức có ngay được mối quan hệ chặt chẽ. Abel cũng lấy làm sung sướng được cử ra làm đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc đảng Dân chủ họp ở Chicago năm 1932. Ở đây, Cermak đã được cử tọa đứng dậy nhiệt hệt hoan hô với nhau lời anh ta nói:

- Tôi không đến đây cùng với chuyến tàu Maynower nhưng tôi đã cố gắng đến được càng sớm càng tốt.

ở Đại hội, Cermak đã giới thiệu Abel với Fr. D. Roosevelt và cuộc gặp gỡ ấy làm Abel xúc động nhớ mãi. FDR cứ thế thắng cử Tổng thống một cách dễ dàng và các ứng cử viên Dân chủ theo nhau giành thắng lợi ở khắp nước. Một trong những người mới được bầu vào Hội đồng thành phố Chicago là Henry osborne. Rồi sau khi An ton Cermak bi giết vào đầu năm 1933 où Miami do một viên đạn nhằm ám sát FDR nhưng lại trúng vào anh, Abel quyết định đóng góp một phần lớn thời gian và tiền của vào sự nghiệp cua những ngươi Dân chủ gốc Ba Lan ở Chicago.

Trong năm 1933, công ty chỉ mất có 23.000 đô la nhưng một trong số những khách sạn, tức khách sạn Nam tước ở Si. Louis, lại làm ăn có lãi. Rồi khi Tổng thống Roosevelt phát biểu bài diễn văn đầu tiên của ông vào ngày 12 tháng ba kêu gọi mọi người "hãy một lần nữa tin ở nước MỸ thì Abel lại phấn khởi và anh quyết định cho mở lại hai khách sạn trước đây đã đóng cửa.

Zaphia ngày càng kêu ca phàn nàn về việc Abel ở quá lâu tại những nơi Charleston với Mobile để phục hồi lại khách sạn. Zaphia chỉ muốn Abel nhiều lắm là làm phó quản lý ở khách sạn Stevens thôi, vì như vậy khoảng cách giữa hai người không xa ìắm. Nhưng với tình hình này thì mỗi lúc Abel càng đi xa hơn mà Zaphia thì không biết thế nào mà đuổi theo những tham vọng của Abel được. Cô sợ anh ta bắt đầu không quan tâng đến cô nữa.

Cô cũng cảm thấy lo lắng về chuyện mình không có con. Cô đi thăm bác sĩ thì họ đảm bảo với cô rằng chẳng có gì khiến cô không có chửa được. Một bác sĩ đề nghị phải khám cả Abel nữa, nhưng Zaphia phản đối, vì cô biết rằng nếu nêu chuyện ấy ra sẽ chẳng khác nào như bảo Abel là vô sinh. Cuối cùng, sau khi vấn đề đã trở nên nặng nề khó có thể đem ra bàn được thì may sao Zaphia lại tắt kinh.

Cô hy vọng chờ đợi thêm một tháng nữa mới nói cho Abel biết hoặc lại đi thăm bác sĩ nữa. Bác sĩ khẳng định rằng cuối cùng cô đã có mang. Vào đúng ngày đầu năm 1934, Zaphia đẻ cho Abel một đứa con gái. Abel rất vui mừng. Họ đặt tên nó là Florentyna, tức là tên của chị Abel trước đây. Trông thấy con bé là Abel đã quấn lấy nó ngay, khiến Zaphia nghĩ bụng từ nay trở đi cô không còn là người đầu tiên được hưởng tình yêu của Abel nữa. George và những bà chị họ của Zaphia đỡ đầu cho đứa bé. Abel tổ chức một bữa tiệc Ba lan mười món vào tối hôm làm lễ rửa tội cho đứa bé. Người ta gửi đến rất nhiều tặng phẩm trong đó có cả một cái nhẫn cổ rất đẹp của một người ủng hộ Abel nhưng giấu tên. Anh cũng có quà biếu tặng lại.

Công ty Nam Tước thu được món lãi 63.000 đô la vào cuối năm. Cả công ty, chỉ còn có khách sạn Nam Tước ở Mobile là thua lỗ.

Mấy tháng sau khi Florentyna ra đời, Abel nghĩ phần lớn thời gian của anh là ở Chicago nên quyết định đã đến lúc xây dựng một khách sạn Nam Tước mới ở đây. Trong thành phố, các khách sạn mọc lên như nấm do kết quả của Hội Chợ Thế Giới tổ chức ở đây Abel có ý định làm cho khách sạn của anh thành lá cờ đầu của công ty để tưởng nhớ đến Davis Leroy.

Công ty vẫn còn làm chủ miếng đất cũ của khách sạn Richmond trên đường Michigan. Đã có nhiều người muốn mua miếng đất ấy nhưng anh vẫn cố giữ, hy vọng một ngày kia có đủ tiền sẽ xây lại khách sạn ở đây Công trình đòi hỏi phải có vốn lớn, Abel quyết định dùng số tiền 750.000 đô la lấy về được của công ty bảo hiềm Great Westem tiến hành việc xây dựng này. Nghĩ xong đâu đấy, anh trình bày với Curtis Fenton ý kiến của mình, tuy nhiên anh vẫn còn đề phòng trường hợp là nếu David Maxton không muốn như vậy vì sợ sẽ có sự cạnh tranh với khách sạn Stevens, thì Abel sẽ sẵn sàng từ bỏ kế hoạch ấy. Dù sao anh vẫn cảm thấy mình có nợ với ông Matxton.

Mấy ngày sau, Curtis Fenton báo lại cho anh biết là người ủng hộ rất vui lòng thấy nói anh định xây lại khách sạn Nam Tước Chicago.

Abel mất mười hai tháng để xây khách sạn Nam Tước mới, với bàn tay giúp đỡ của ủy viên Hội đồng thành phố Henry osborne vì ông ta thu xếp để có các loại giấy phép của Tòa Thị chính một cách nhanh chóng. Tòa nhà được khánh thành năm 1936, do Thị trưởng thành phố là Edward J. Kelly đến khai mạc, và ông này sau cái chết của An ton Cermark đã trở thành người cầm đầu bộ máy của đảng Dân chủ ở đây Để tưởng nhớ lại Davis Leroy, khách sạn không có tầng thứ mười bảy, và đây cũng là một truyền thống Abel thực hiện trong việc xây dựng bất cứ một khách sạn mới nào của Công ty Nam Tước.

Cả hai thượng nghị sĩ của bang Illinois cũng có mặt và phát biểu với hai ngàn khách đến dự hôm đó.

Khách sạn Nam tước Chicago đẹp cá về thiết kế và xây dựng. Abel đã phải chi đến hơn một triệu đô la cho khách sạn này, và có vẻ như mỗi đồng xu bỏ ra đều đã được tận dụng. Những phòng công cộng đều to rộng thoáng mát với trần nhà được trang trí lộng lẫy và thảm dưới chân đều rất dầy. Màu xanh lá cây có chữ nổi mang tên tắt của khách sạn được trang trí rất kín đáo tưởng như không thấy mà đâu cũng có, từ bộ quần áo của chú nhỏ chạy vặt trong khách sạn cho đến ngọn cờ bay phấp phới trên đỉnh ngôi nhà bốn mươi hai tầng.

Khách sạn này tự nó đã mang dấu hiệu của thành công rồi, - Ông Thượng nghị sĩ lâu năm của nijloi là J. Hamilton Lewis phát biểu, - Vì thưa các bạn, chính là do con người, chứ không phải khách sạn, đã được biết là "Nam Tước Chicago".

Abel sung sướng ra mặt thấy cả hai ngàn khách mời đều oà lên tán thưởng. Anh phát biểu cảm ơn và mọi người đứng dậy vỗ tay. Anh bắt đầu cảm thấy mình đã quen thuộc với giới đại kinh doanh và những nhà chính trị đàn anh. Zaphia lởn vởn đi lại ở phía sau trong suốt buổi lễ, đối với cô sự việc này là quá long trọng. Cô không hiểu mà cũng chẳng nghĩ đến thành công của Abel ở mức độ như thế, mà dù có hiểu được và bây giờ cô có thừa tiền mua sắm những quần áo sang nhất, cô vẫn thấy mình cổ lỗ và lạc lõng thế nào ấy. Cô biết rằng sự xuất hiện của mình chỉ làm cho Abel thêm khó chịu. Trong khi Abel nói chuyện với Henry osborne, thì cô đứng cách đó một quãng.

- Đây là cao điểm trong cuộc đời của anh đấy nhé,- Henry vỗ vào lưng Abel nói.

- Cao điểm.... tôi cũng vừa đúng ba mươi tuổi, - Abel nói. Anh quàng tay qua vai Henry và máy ảnh chụp nhoáng một cái. Abel rạng rỡ, lần đầu tiên trong đời anh sung sướng được coi như một nhân vật được nhiều người biết đến. "Tôi sẽ xây khách sạn Nam Tước ở khắp các nước trên thế giới! - Anh nói đủ to cho nhà báo đứng gần đó nghe thấy. "Tôi muốn làm ở Mỹ như Cesar Ritz đã làm ở Châu âu. Ông cứ đi với tôi Henry, rồi ông sẽ hưởng hết niềm vui của chuyến đi này".

° ° °

Hôm sau, vào lúc ăn sáng, Kate chỉ cho William xem một mẩu tin đăng trên trang 17 của tờ báo Globe nói về chuyện khai mạc khách sạn Nam Tước ở Chicago.

William vừa xem bài báo vừa cười. Ngân hàng Kane và Cabot thật là dại dột đã không chịu nghe lời khuyên của anh ủng hộ cho công ty Richmond. Anh lấy làm hài lòng thấy nhận xét trước đây của mình về Rosnovski là đúng, mặc dầu ngân hàng đã bỏ qua một cơ hội như thế. Đọc đến chỗ Abel được mệnh danh là "Nam tước Chicago" anh càng buồn cười. Nhưng đột nhiên anh cảm thấy khó chịu ngay. Anh xem kỹ tấm ảnh đăng kèm trong báo. Rõ ràng những dòng chữ chú thích dưới ảnh không còn có gì đáng ngờ nữa:

Abel Rossnovski, Chủ tịch Công ty Nam Tước, đang nói chuyện với Mieczyslaw Szymczak, Thống đốc Quỹ Dự trữ Liên bang, và ủy viên Hội đồng thành phố Henry osborne.

William để tờ báo xuống bàn và suy nghĩ một lúc. Vừa đến cơ quan làm việc, anh đã gọi điện ngày cho Thomas Cohen ở Công ty Luật gia Cohen và Yablons.

- Đã lâu rồi đấy nhỉ, ông Kane, - Thomas Cohen nghe điện đã nói ngay. - Tôi rất tiếc nghe tin về cái chết của bạn ông, Matthew Lester. Còn vợ con ông, Richard, có phải tên cháu là thế không, vẫn khỏe chứ?

William vẫn luôn khâm phục Thomas Cohen về trí nhớ của ông ta đối với tên người và các mối quan hệ.

- Vâng, cảm ơn ông Cohen, vợ và con tôi vẫn khỏe.

Lần này tôi làm gì được cho ông đây, ông Kanẻ- Thomas Cohen cũng vẫn nhớ rằng với Wiìliam thì chỉ hỏi thăm một câu thôi, rồi vào việc ngay.

- Tôi muốn nhờ ông cử người điều tra cho một việc.

Tôi không muốn người đi điều tra đó biết tôi là ai. Nhưng tôi cần có những thông tin mới nhất về Henry osbome. Tất cả những gì ông ta làm từ khi rời Boston ra đi, nhất là xem giữa ông ta với Abel Rosnovski của Công ty Nam tước có quan hệ gì không.

Đầu dây đằng kia, nhà luật gia im lặng một lát rồi đáp:

- Vâng.

- Ông có thể cho tôi biết trong vòng một tuần không?

- Xin ông cho hai tuần, ông Kane, - Ông Cohen nói.

- Báo cáo đầy đủ gửi đến cho tôi trong vòng hai tuần nữa nhé, ông Cohen?

- Vâng, hai tuần, thưa ông Kane.

Thomas Cohen vẫn là một người đáng tin cậy như từ trước đến nay. Một báo cáo đầy đủ đã được gửi đến tận chỗ làm việc của William vào sáng ngày mười lăm. William giở hồ sơ ra đọc rất kỹ. Không có quan hệ làm ăn gì giữa Abel Rosnovski với Henry osbome.

Hình như Rosnovski chỉ thấy ở oborne là một người có ích cho những quan hệ chính trị của mình, thế thôi.

Từ khi rời Boston, osborne đã chạy từ việc này sang việc khác rồi cuối cùng về làm ở Công ty bảo hiểm Great Western. Theo nhận xét của họ, chính vì thế mà osborne đã tiếp xúc với Abel Rosnovski, vì trước đây Công ty Richmond vẫn do cơ quan này bảo hiểm. Lúc khách sạn bị đốt cháy, công ty bảo hiểm này từ chối không chịu trả tiền bồi thường. Một người quản lý, có tên là Desmond Pacey, bị tù mười năm sau khi nhận tội là chính mình đã đốt, và trong vụ này người ta hơi có chút nghi ngờ là Abel Rosnovski có nhúng tay vào đó. Tuy nhiên, không có chứng cớ gì cụ thể, vì vậy công ty bảo hiểm đành chịu trả 750.000 đô la. Báo cáo cũng nói thêm hiện nay osborne là ủy viên Hội đồng thành phố và là một nhà hoạt động chính trì chuyên môn ở Tòa thị chính, mọi người đều biết ông ta hy vọng trở thành nghị sĩ quốc hội đại diện cho Chicago.

Mới đây ông ta có lấy cô Marie Axton, con gái của một nhà sản xuất thuốc khá giàu có, và hai người vẫn chưa có con.

william lại xem lại toàn bộ báo cáo để chắc chắn là mình không bỏ qua điều gì dù là không quan trọng.

Nhưng anh vẫn thấy giữa hai người không có gì thật sự gắn bó với nhau lắm. Dù sao, trong thâm tâm anh vẫn lo lắng cả hai người, Abel Rosnovski và Henry osbonle, đều là những người căm ghét anh, nếu quan hệ chặt chẽ với nhau tất thế nào cũng có điều gì nguy hiểm mà anh phải đề phòng. Anh ký một tấm séc gửi trả Thomas Cohen và yêu cầu ông ta cứ ba tháng một lần lại báo cáo thêm cho anh biết. Nhưng rồi tháng tháng trôi qua, những báo cáo ba tháng cũng không nêu được chuyện gì mới, vì vậy anh không còn lo nghĩ gì nữa, chỉ cho rằng mình đã quá quan tâm đến bức ảnh đăng trong báo mà thôi.

Mùa xuân năm 1937, Kate lại đẻ cho chồng được một đứa con gái. Họ đặt tên nó là Virginia. Wilham vẫn làm cái việc thay tã cho con. Anh quá săn sóc "cô công chúa" này đến nỗi Kate tối nào cũng phải dành về cho mình kẻo nó không được ngủ. Còn Richard bây giờ dã lên hai tuổi rưỡi, chả thích gì em bé và cả ngày chỉ chơi với bộ lính gỗ để khỏi ghen với em được săn sóc cẩn thận hơn.
 
Vào quãng cuối năm, bộ phận của William trong ngân hàng Kane và Cabot thu về được món lợi nhuận khá to. Anh như vừa thoát ra khỏi trạng thái lơ mơ do cái chết cua Matthew gây ra và lại nhanh chóng giành lại uy tín của mình như một trong những người rất khôn khéo đầu tư vào thị trường chứng khoán.

Anh cũng không còn thấy phiền lòng gì với sự điều khiển của Tong Simmons nữa:

Tuy nhiên, William trong thâm tâm cũng không vui gì với triển vọng dù có được làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot thì cũng phải chờ mười bảy năm nữa cho Simmons về hưu mới đến lượt anh, vì vậy anh tính đến tìm việc lành ở ngân hàng khác.

William và Kate vẫn đi New York thăm Charles Lester mỗi tháng một lần vào ngày cuối tuần. Trong ba năm qua kể từ khi Matthew chết đến nay, ông đã già đi ghê gớm. Trong giới tài chính người ta đồn ông chẳng còn thiết gì làm ăn và thỉnh thoảng mới thấy có mặt ở ngân hàng. William bắt đầu lo không biết ông già còn sống được bao lâu nữa. Thế rồi ít tuần sau ông qua đời luôn. Hai vợ chồng Kane xuống New York dự tang lễ. Hình như mọi người ai cũng có mặt ở đám tang này, kể cả ông Phó Tổng thống Hoa Kỳ John Nance Gamer. Sau khi dự đám tang, William và Kate đi xe lửa trở về Boston, biết là từ nay trở đi đã mất hẳn mối quan hệ với gia đình Lester.

Khoảng sáu tháng sau William nhận được thông báo của Sullivan và Cromwell, một công ty Luật ở New York, yêu cầu anh đến dự nghe công bố chúc thư của Charles Lester tại văn phòng của họ Ở phố Wall.

William nhận lời về dự vì tình nghĩa với gia đình Lester hơn là muốn biết nội dung chúc thư của Charles Lester. Anh chỉ muốn nhớ lại những kỷ niệm nhỏ với Matthew và những gì còn lại mà anh đang giữ trong nhà hiện nay. Anh cũng mong có dịp được gặp lại những người khác trong gia đình Lester đã quen biết từ hồi còn nhỏ cũng như trong những năm ở đại học với Matthew.

William tự mình lái chiếc xe Daimler mới mua xuống New York từ đêm hôm trước và ngủ trọ tại Câu lạc bộ Harvard. Bản di chúc sẽ được công bố vào mười giờ sáng hôm sau, và Wiìham lấy làm lạ khi đến văn phòng công ty Sulhvan và Cromwell thấy đã có đến năm chục người tề tựu sẵn ở đó rồi. Nhiều người ngước nhìn lên khi Wilham bước vào phòng. Anh đến chào các cô dì chú bác của Matthew, thấy họ đã già đi rất nhiều và anh nghĩ bụng có lẽ họ cũng nghĩ về anh như vậy. Anh để ý tìm Susan, em gái của Matthew, nhưng không thấy cô ta đâu. Đúng mười giờ ông Arthur Cromwell vào phòng, có một trợ lý đi kèm và cầm trong tay một cặp da màu nâu. Mọi người im lặng chờ đợi. Ông luật sư giải thích cho những hưởng di chúc biết rằng theo lời dặn của Charles thì di chúc này chỉ được mở ra sáu tháng sau khi ông đã qua đời.

Lý do là vì ông không có con trai để ông để lại gia tài nên ông muốn để cho thời gian chứng minh nguyện vọng của ông vậy.

William nhìn quanh căn phòng và các khuôn mặt đang theo dõi từng lời nói của ông luật gia. Arthur Cromwell đọc bản di chúc đó mất gần một tiếng đồng hồ. Sau khi đọc những mục thông thường để lại cho những thành viên khác nhau trong gia đình, cho những cơ quan từ thiện và trường Đại học Harvard, Cromwell cho biết thêm rằng Charles Lester đã chia tài sản cá nhân của ông cho tất cả bà con họ hàng, nhiều hay ít tùy theo mức độ xa gần của họ. Cô con gái, Susan, được nhận phần lớn nhất của bất động sản, còn năm người cháu trai và ba cháu gái, mỗi người được hưởng một phần tài sản ngang nhau còn lại Tất cả tiền của và chứng khoán dành cho họ đều do ngân hàng lưu giữ cho đến khi họ ba mươi tuổi.

Nhiều bà con cô bác và họ hàng xa đều được lĩnh tiền mặt ngay tại chỗ.

William ngạc nhiên thấy ông Cromwell tuyên bố.

- Đó là tất cả những gì liên quan đến tài sản của ông Charles Lester để lại.

Mọi người bắt đầu rục rịch trở về chỗ và có tiếng rì rầm trao đổi giữa người này người kia.

- Tuy nhiên, đó chưa phải đã hết những gì ông Charles Lester dặn lại trong Di chúc, - Luật gia bình tĩnh nói tiếp, và mọi người lại dằn lòng ngồi nghe, trong lòng rất lo không biết còn điều gì bất ngờ và không hay nữa chăng.

ông Cromwell tiếp:

- Tôi xin đọc tiếp những lời của chính ông Charles Lester. "Trước nay tôi vẫn cho rằng một ngân hàng và tiếng tăm của nó rất liên quan đến người quản lý nó. Ai cũng biết rằng tôi hy vọng con trai tôi là Matthew sẽ kế nghiệp tôi làm Chủ tịch ngân hàng Lester, nhưng nó chẳng may đã chết một cách bi thảm và không đúng lúc. Cho đến nay, tôi chưa hề nói cho ai biết tôi đã chọn người nào để quản lý ngân hàng Lester. Vậy nay tôi công bố đê mọi ngươi biết là tôi đã chọn William Lowell Kane, con của một trong những người bạn thân nhất của tôi lã Richard Lowell Kane trước đây, hiện đang là phó chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, làm chủ tịch ngân hàng Lester và toàn bộ Công ty Tín dụng, và nhận chức đó trong cuộc họp toàn thể ban giám đốc tới".

Lập tức có tiếng xôn xao. Mọi người nhìn quanh phòng xem con người bí mật William Lowell Kane ấy là ai, con người mà chỉ có vài thành viên trực tiếp trong gia đình Lester biết đến.

- Tôi chưa đọc hết, - Arthur Crnmwell nói.

lại im lặng. Cử tọa nhìn nhau kinh hãi, e rằng lại một quả bom nữa sắp nổ tung.

Nhà luật gia đọc tiếp:

'tất cả những khoản trợ cấp và phân chia chứng khoán của Công ty Lester nói trên đây đều tùy thuộc vào việc những người được hưởng sẽ bầu cho ông Kane tại cuộc họp toàn thể hàng năm và vẫn sẽ tiếp tục làm như vậy ít nhất là năm năm sau đó, trừ phi ông Kane tuyên bố là ông ta không nhận chức vụ chủ tịch".

Lại xôn xao ồn ào trong phòng. William ước gì mình ở cách xa chỗ này hàng vạn dặm, vì anh không biết mình nên sung sướng hay nên thừa nhận mình là người bị căm ghét nhất trong tất cả những ai có mặt ở đây - Đến đây là kết thúc Di chúc của ông Charles Lester, - Ông Cromwell nói. Nhưng chỉ có những người ngồi ở hàng đầu nghe rõ ông nói gì. William nhìn lên, Susan Lester đang bước về phía anh. Hình ảnh cô gái béo lùn đã biến đâu mất, chỉ còn những nét tàn nhang xinh đẹp. Anh mỉm cười, nhưng cô đi qua mặt anh, làm như anh không có đó. William nhăn nhó.

Một người cao lớn, tóc hoa râm, mặc bộ quần áo chật căng và thắt chiếc ca vát sáng, không để ý đến những tiếng ồn ào chung quanh, bước đến chỗ William.

- Ông là William Kane, có phải không ạ - Vâng, chính tôi, - William hơi bực bội đáp Tên tôi là Peter Parfitt, - Người đó nói.

- Một trong những phó chủ tịch ngân hàng, - William nói.

- Vâng, đúng, thưa ông, - Ông ta nói. - Tôi không biết ông, nhưng tôi được biết tiếng của ông, và tôi cũng là một trong những người có may mắn được quen biết người cha đáng kính của ông. Nếu như Charles Lester nghĩ rằng ông là người thích hợp để làm chủ tịch ngân hàng của ông ta, tôi cho rằng như thế là tốt rồi.

William chưa bao giờ cảm thấy nhẹ người như vậy.

- Ông đang ở đâu tại New York? - Peter Parfitt đã hỏi ngay trước khi William nói được câu gì.

- Tôi ở Câu lạc bộ Harvard..

- Tuyệt. Tôi xin hỏi ông tối nay có rảnh dùng bữa với tôi được không) Tôi định tối nay về Boston ngay, - William nói, - Nhưng bây giờ thì có lẽ tôi phải ở lại New York thêm vài ngày nữa.

- Tốt, vậy tôi mời ông đến nhà tôi ăn tối vào tám giờ được không ạ?

ông ta đưa danh thiếp cho William trong đó có địa chỉ in nổi bằng chữ vàng.

- Tôi sẽ có dịp được nói chuyện thân mật với ông trong không khí đó.

Cảm ơn ông, - William đáp và bỏ danh thiếp vào túi áo trong khi một số người khác xúm quanh đến.

Một số người nhìn anh bằng con mắt không thiện cảm, một số khác muốn chúc mừng anh.

Sau khi anh thoát được khỏi đám người này và trở về Câu lạc bộ Harvard, việc đầu tiên là anh phải gọi cho Ka te và báo tin trên cho cô biết.

Cô lặng lẽ trả lời.

- Matthew cũng lấy làm mừng cho anh đấy.

- Anh biết.- Wilham nói.

- Bao giờ anh về nhà?

- Có Trời biết. Tối nay anh đến ăn với ông Peter Parfltt, một phó chủ tịch của lester. Ông ta có vẻ rất quan tâm và thân mật, như vậy cũng dễ chịu. Đêm nay ở lại Câu lạc bộ và trong ngày mai sẽ gọi về cho em xem tình hình ở đây thế nào.

- Được thôi, anh yêu.

- Ở nhà bình thường chứ - Virginia nhổ một cái răng và nó làm nũng lắm, Richard hứa với cô bảo mẫu nên phải đi ngủ sớm. Cả nhà nhớ anh lắm.

William cười.

- Mai anh sẽ gọi về.

- Nhớ gọi nhé. Nhân đây cũng chúc mừng anh. Em rất hoan nghênh Charles Lester đã nhận xét về anh như vậy, mặc dù em sẽ rất ghét là phải ở New York.

Đây là lần đầu tiên William nghĩ đến chuyện ở New York.

Tám giờ tối hôm đó Wilham đến nhà Peter Parfitt ở Đường 64 và anh ngạc nhiên thấy chủ nhà ăn mặc rất trịnh trọng cho bữa tối. William cảm thấy hơi ngượng trong bộ quần áo làm việc bình thường hàng ngày của mình. Anh giải thích ngay cho bà chủ nhà là anh đinh tối hôm đó trở về Boston. Diana Parfitt, hóa ra là người vợ thứ hai của Peter, tiếp khách rất có duyên và tỏ ra vui mừng thấy William sẽ là chủ tịch tương lai của ngân hàng Lester. Trong suốt bữa ăn khá thịnh soạn, William tranh thủ hỏi Peter Parfltt về những người khác trong ban giám đốc ngân hàng Lester phản ứng về Di chúc của ông ta như thế nào.

Mọi người sẽ đều tán thành cả thôi, - Parfitt nói.

- Tôi đã nói chuyện với phần lớn trong số họ rồi. Sáng thứ hai tới sẽ có cuộc họp toàn ban giám đốc để khẳng định việc chỉ định ông làm chủ tịch, tuy nhiên tôi chỉ còn thấy có một điều hơi lấn cấn có thể xẩy ra thôi.

Đó là điều gì - William hỏi, cố tỏ ra không có vẻ lo lắng gì hết.

- Nói riêng để ông biết, người phó chủ tịch kia, Ted Leach, là người đã hy vọng sẽ được chỉ định lên làm chủ tịch kế nhiệm. Tôi có thể nói ông ta đã yên trí như vậy rồi. Tất cả chúng tôi được thông báo là chỉ sau khi công bố di chúc mới được biết ai là chủ tịch, tuy nhiên ý nguyện đó của Charles Lester đối với Ted quả là không thể ngờ được.

ông ta sẽ chống chứ? - William hỏi.

- Có thể như vậy, nhưng ông không có gì đáng phải lo đâu Tôi phải nói ngay rằng tôi chưa bao giờ thấy ưa ông ta được, - Diana Partikt vừa nói vừa nhìn vào đĩa bánh xèo trước mặt.

- Này thôi, em ơi, - Parfitt gạt đi, - Chúng ta không nên nói điều gì sau lưng Ted mà phải để cho ông Kane tự mình xét mới được chứ. Tôi thì tôi chắc chắn rằng trong cuộc họp ban giám đốc vào sáng thứ hai mọi người sẽ chấp thuận việc chỉ định ông Kane nhưng vẫn có khả năng Ted Leach từ chức.

- Tôi không muốn bất cứ ai cảm thấy vì có tôi mà phải từ chức, - William nói.

ông suy nghĩ như vậy là rất đáng quý, - Parfltt nói. - Nhưng ông chả nên bận tâm về chuyện nhỏ ấy.

Tôi tin chắc là toàn bộ vấn đề sẽ đâu ra đó. Ông cứ yên trí quay về Boston ngày mai đi, và tôi sẽ thông tin đều cho ông được biết.

- Có lẽ tôi nên qua ngân hàng vào sáng mai một chút. Không biết các bạn đồng nghiệp của ông có lấy làm lạ nếu tôi không có ý muốn gặp họ không?

- Không nên. Tôi nghĩ trong tình hình này ông chưa nên đến ngân hàng vội. Có lẽ tốt hơn là ông hãy đứng ngoài để chờ cho cuộc họp ban giám đốc vào sáng thứ hai xong đâu đấy đã. Như vậy họ cảm thấy mình độc lập và tự thấy có giá trị đàng hoàng hơn. Õng hãy nên nghe tôi, Bill, và trở về Boston đi. Trước mười hai giờ trưa sáng thứ hai, tôi sẽ gọi báo tin mừng cho ông.

William miễn cưỡng đồng ý với đề nghị của Peter Parfltt và ngồi lại nói chuyện cả tối với hai vợ chồng Parfltt, và nói cả chuyện anh và Ka te có thể ở New York tạm thời trong khi tìm một ngôi nhà nào đó để ở hẳn. William hơi lấy làm lạ thấy Peter Parfitt không có ý muốn bàn gì về chuyện ngân hàng, nhưng anh nghĩ có lẽ vì có mặt Diana Parfltt ở đó. Buổi tối kết thúc vui vẻ với rượu brandy uống hơi quá nhiều, và đến tận một giờ đêm William mới trở về Câu lạc bộ Harvard.

Về đến Boston, William nói lại ngay cho Tony Simmons biết về tất cả những gì đã xảy ra ở New York. Anh không muốn để ông ta biết về chuyện được chỉ định ấy qua bất cứ ai khác. Tony nghe tin đó lại vui mừng một cách không ngờ.

- Tôi rất tiếc là anh lại sẽ phải xa chúng tôi, william. Tất nhiên Lester còn lớn gấp hai ba lần Kane và Cabot, nhưng rất khó có thê kiếm được người nào thay cho anh, vì vậy tôi đề nghị anh cân nhắc rất kỹ trước khi nhận nhiệm vụ.

Wiìliam cũng ngạc nhiên và biểu lộ ra mặt.

- Thật tình, Tony, tôi vẫn cứ tưởng ông sẽ mừng mà thấy tôi không còn ở đây nữa.

- Wilìiam, đến bao giờ thì anh mới tin rằng mối quan tâm đầu tiên của tôi vẫn chỉ là ngân hàng, và trong óc tôi bao giờ cũng vẫn cho anh là một trong những người khôn ngoan nhất về lĩnh vực đầu tư của ngân hàng ở nước Mỹ hiện nay? Nếu bây giờ anh bỏ Kane và Cabot, thì sẽ có rất nhiều khách quan trọng của ngân hàng muốn bỏ đi_theo anh ngay đó.

- Tôi sẽ không bao giờ chuyển quỹ riêng của tôi sang Lester, cũng như không bao giờ mong bất cứ khách hàng nào của ngân hàng này bỏ đi với tôi cả, - William nói.

- Cố nhiên anh không kêu gọi họ bỏ theo anh, William, nhưng một số trong những khách hàng đó vẫn muốn anh tiếp tục quấn lý cho tài khoản của họ.

Cũng giống như bố anh trước đây với Charles Lester, họ hoàn toàn có lý khi tin vào ngân hàng tức là tin vào con người và cái tiếng tốt của họ.

William và Ka te qua một ngày cuối tuần căng thẳng chờ đến thứ hai và kết quả cuộc họp ban giám đốc ở New York. Cả buổi sáng thứ hai, anh ngồi ở phòng làm việc chờ một cách sốt ruột và đích thân trả lời các nơi gọi điện thoại đến nhưng không thấy gì.

Hết sáng lại đến chiều. Anh cũng không dám rời nhiệm sở đi ăn trun nữa. Mãi đến sau năm giờ chiều Peter Parfltt mới gọi về.

Có lẽ có vài điều trục trặc hơi bất ngờ một chút, Bill - Ông ta đã mở đầu thế. William lặng người.

- Nhưng ông khỏi lo, vì tôi vẫn nắm vững tình hình. Có điều ban giám đốc muốn có quyền được cử người ra cùng tranh cử với ông. Một số người còn đưa ra ý kiến hợp pháp để nói rằng điều khoản trong di chúc đó thực sự không có giá trị. Tôi phải lĩnh cái nhiệm vụ không lấy gì làm vui là hỏi xem ông có sẵn sàng ra tranh cử với một người khác trong ban giám đốc không?
 
- Ai là người trong ban giám đốc ra ứng cử - Wilìiam hỏi.

- Cho đến nay chưa ai nêu tên ra, nhưng tôi đoán họ sẽ chọn lựa Ted Leach. Ngoài ra chẳng có ai tỏ ý muốn ra tranh cử với ông đâu.

- Để tôi suy nghĩ thêm, - Wilham. - Cuộc họp lần sau vào ngày nào?

- Ngày này tuần sau, - Prafitt nói. - Nhưng ông không cần phải đến và bận tâm tới Ted Leach làm gì.

Tôi vẫn tin rằng ông sẽ thắng dễ đàng và trong tuần tôi vẫn sẽ báo tin cho ông biết để tiện theo dõi tình hình.

- Ông cần tôi xuống New York không, Peter Không, lúc này thì chưa. Tôi nghĩ ông xuống cũng chẳng giúp được gì vào đây.

William cảm ơn và bỏ máy xuống. Anh đóng cặp lại và rời phòng làm việc ra về, trong lòng cảm thấy hơi chán nản. Tony Simmons, tay cầm va li bỗng ở đâu ra gặp anh ở chỗ để xe.

- Tôi không biết là ông sắp đi đâu, Tony.

Đây chỉ là bữa tiệc hàng tháng của các nhà ngân hàng ở New York thôi. Chiều mai tôi về ngay rồi. Tôi nghĩ là có thể yên tâm để Kanne và Cabot hai mươi bốn giờ trong tay có tài năng của ông chủ tịch tương lai của Lester được chứ.

William mỉm cười.

- Có thể tôi đã là cựu chủ tịch rồi, - Anh nói và kể lại câu chuyện vừa qua. Một lần nữa, William lại ngạc nhiên với phản ứng của Tony Simmons.

- Đúng là Ted Leach vẫn hy vọng làm chủ tịch kế nhiệm của Lester đấy, - Ông nói. - Điều đó trong giới tài chính ai cũng biết cả. Nhưng ông ấy là một người phục vụ rất trung thành của ngân hàng, và tôi không thể nào tin rằng ông ta sẽ chống lại những nguyện vọng của Charles Lester đâu.

- Tôi không biết là ông có quen ông ta, - Wilham nói.

- Tôi cũng không quen ông ta lắm đâu, - Tony nói.- Ông ta học trước rồi một năm ở Đại học Yale, bây giờ thỉnh thoảng tôi gặp ông ta ở những bữa tiệc của các nhà ngân hàng, và khi nào anh làm chủ tịch thì anh cũng sẽ không tránh khỏi phải dự những bữa ấy đâu.

Tối nay tôi sẽ gặp ông ta ở đó. Nếu anh muốn nhắn gì tôi sẽ nói lại cho.

- Vâng, nhờ ông nói hộ, nhưng ông phải rất cẩn thận nhé, - William nói.

- Anh William thân mến ơi, đã đến cả chục năm nay anh vẫn bảo tôi là người quá cẩn thận, anh quên rồi ư?

- Tôi xin lỗi, Tony. Khi người ta quá lo về chuyện riêng của mình thì thường là đầu óc dở thế đấy. Vậy mà khi là chuyện của người khác thì mình lại cho là sáng suốt chứ. Tôi hoàn toàn tin cậy ở ông, ông bảo gì tôi sẽ làm nấy.

Được thế thì tốt. Cứ để việc đó cho tôi. Tôi sẽ hỏi Leach xem ông ta nói thế nào, và sáng mai sẽ gọi điện về cho anh.

Nhưng chỉ mấy phút sau mười hai giờ đêm Tony đã gọi từ New York về trong lúc William đang ngủ say.

Tôi đánh thức anh dậy phải không, William?

Vâng, ai đấy?

- Tony Simmons.

William bật ngọn đèn ở đầu giường và nhìn đồng hồ báo thức.

- Ông bảo đến sáng mai mới gọi về kia mà.

Tony cười.

- Có lẽ điều tôi nói với anh đây không lấy gì làm vui lắm đâu. Cái người chống anh làm chủ tịch Lester chính là Peter Parfitt.

- Sao? - William bỗng tỉnh hẳn.

- Ông ta đang tìm cách vận động ban giám đốc ủng hộ Ông ta và giấu không cho anh biết. Ted Leach, như tôi dự đoán đúng, lại là người ủng hộ anh làm chủ tịch, nhưng ban giám đốc bây giờ chia đôi làm hai phe rồi.

- Trời ơi. Trước hết cảm ơn ông đã, Tony. Và thứ hai là bây giờ ông bảo tôi nên làm thế nào?

- Nếu anh muốn làm chủ tịch tương lai của Lester, thì tốt hơn hết là anh hãy xuống đây cho nhanh, kẻo mọi người trong ban giám đốc sẽ bảo tại sao anh lại trốn lủi ở Boston.

- Trốn lủi ư - Đó chính là điều mấy ngày hôm nay Parfltt đã nói với các giám đốc khác như vậy đấy.

- Thằng cha thế thì đểu thật?

- Anh đã nói thế thì thôi, tôi không dám nhận là có quen thuộc gì với ông ta nữa đâu nhé, - Tony.

William cười.

- Anh xuống đây và đến Câu lạc bộ Yale nhứ. Rồi đến sáng mai chúng ta sẽ nói tiếp chuyện đó.

- Tôi sẽ xuống ngay đây, - William nói.

- Lúc anh đến có lẽ tôi sẽ còn đang ngủ. Đến lượt anh phải đánh thức tôi dậy đấy.

William bỏ máy xuống và nhìn sang Ka te, chợt quên ngay những vấn đề khó khăn mới của mình.

Suốt lúc anh nói chuyện, cô vẫn ngủ. Anh chỉ mong mình cũng ngủ ngon được như vậy. Chỉ cần có một ngọn gió hơi đụng vào màn cửa là anh đã thức giấc rồi. Có lẽ cô sẽ còn ngủ cho đến lúc Chúa trở lại thế gian. Anh biết vội vài dòng đề lại giải thích cho cô biết và để mảnh giấy trên bàn ngủ. Rồi anh mặc quần áo, chuẩn bị đồ đạc, lần này mang theo cả chiếc áo lễ phục, và lên đường đi New York.

Đường vắng và chiếc xe Daimler của anh hình như đi nhanh hơn bao giờ hết. Anh đến New York và tới Câu lạc bộ Yale vào đúng lúc thợ giặt, người đưa thư, trẻ bán báo đã bắt đầu hoạt động và mặt trời buổi sáng vừa rọi nắng xuống. Lúc này là sáu giờ mười lăm. Anh mở va li thay đồ và quyết định nghỉ ngơi một giờ rồi mới đánh thức Tony dậy. Nhưng lát sau anh lại nghe có tiếng gõ cửa phòng dồn dập. Anh đang ngái ngủ, bước ra mở cửa thì đã thấy Tony Simmons đứng đó - áo ngủ đẹp nhỉ, William, - Tony cười nói. Ông ta đã ăn mặc chỉnh tề.

- Tôi ngủ thiếp đi mất. Ông chờ một phút tôi ra ngay, - William nói.

- Không, không, tôi phải ra cho kịp tàu về Boston.

Anh cứ vào tắm rồi mặc quần áo đi, vừa làm vừa nói chuyện.

William vào buồng tắm và cứ để cửa mở.

- Bây giờ vấn đề chính của anh nhé. - Tony bắt đầu nói.

Wilham thò đầu ra ngoài cửa buồng tắm.

- Đang mở nước, không nghe thấy ông nói gì hết.

Tony chờ cho nước chảy xong.

- Peter Parfitt là vấn đề chính của anh. Ông ta cho rằng chính ông ta sẽ là chủ tịch kế nhiệm và lẽ ra tên ông ta đã phải được nêu lên trong di chúc của Charles Lester. Ông ta đang vận động các giám đốc chống lại anh và dùng các thủ đoạn bên trong để thực hiện điều đó Ted Leach có thể cho anh biết các chi tiết, và ông ta muốn anh đến cùng ăn trưa với ông ta ở Câu lạc bộ Metropolitan. Ông ta có thể sẽ đưa đến đó vài ba giám đốc khác nữa mà anh tin cậy được. Nhân đây, cũng nói luôn là hình như ban giám đốc chia đôi, nửa nọ nửa kiạ.

William bị lưỡi dao cạo làm đứt một tí ở cằm.

Đồ chết tiệt. Ông bảo Câu lạc bộ nào?

- Metropolitan, quá Đại lộ Năm một chút lên Đường 60 phía Đông.

Tại sao ở đó mà không ở nơi nào dưới phố Wall?

- William, khi anh phải đối phó với những loại người như Peter Parfltt ở cái thế giới này, thì anh chớ có đánh điện cho ai biết là anh muốn gì. Anh phải tỉnh táo và rất phớt mới được. Theo Leach cho tôi biết thì ông ta vẫn tin là anh có thể thắng được.

William trở lại phòng ngủ, quấn chiếc khăn quanh người.

- Tôi sẽ cố, anh nói. - Đúng là phải phớt mới được.

Tony cười.

Bây giờ tôi phải trở về Boston. Trong mười phút nữa là tàu chạy rồi. - Ông nhìn đồng hồ tay. - 'Chết chửa, chỉ còn sáu phút nữa thôi.

Tony dừng lại ở cửa.

Anh biết không, bố anh ngày xưa không bao giờ tin được Peter Parfitt. Phải mềm dẻo mới được, bố anh thường vẫn nói thế. Chớ bao giờ làm cái gì quá đáng, chỉ cần mềm dẻo một chút là được. - Ông ta cầm va li lên. Chúc anh may mắn, William.

Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây, Tony?

- Anh không cảm ơn được đâu. Đó là cách tôi chuộc lỗi vì đã cư xử không đúng với Matthew trước đây.

William nhìn cánh cửa khép lại và vừa mặc quần áo vừa nghĩ ngợi. Anh thấy thật lạ, anh đã sống bao nhiêu năm và làm việc gần gũi với Tony Sinmons mà chẳng thể nào hiểu được ông ta, thế mà chỉ qua có vài ngày khó khăn như thế này anh lại bỗng thấy yêu mến và tin cậy một con người anh chưa từng hiểu được bao giờ. Anh xuống phòng ăn gọi một bữa sáng điển hình của Câu lạc bộ, một quả trứng luộc đã để nguội, một mẩu bánh nướng rắn phết bơ với một ít mứt quả của ai đó còn để lại ở bàn bên cạnh. Người phục vụ đưa cho anh một số báo phố Wall ở trang bên trong có bài nói là ở ngân hàng Lester không phải mọi thứ đều trôi chảy sau việc chỉ định Wilham Kane làm chủ tịch. Rõ ràng là tờ báo không có được những thông tin nội bộ.

William trở về phòng yêu cầu tổng đài cho một số máy ở Boston. Anh phải chờ ít phút đường dây mới được thông.

- Tôi xin lỗi, ông Kane. Tôi không biết là ông gọi.

Tôi xin có lời mừng ông được chỉ định làm chủ tịch ngân hàng Lester. Tôi hy vọng điều này có nghĩa là văn phòng của chúng tôi ở New York tương lai sẽ có nhiều dịp được gặp ông.

- Điều đó còn tùy thuộc ở ông đấy, ông Cohen.

- Có lẽ tôi chưa hiểu rõ ý ông, - Nhà luật gia nói.

William kể cho ông ta nghe những điều xảy ra trong mấy ngày qua, và đọc lại đoạn nói trong di chúc của Charles Lester.

Thomas Cohen ghi lại từng lời rồi xem kỹ.

- Ông có cho rằng những nguyện vọng của ông ta sẽ đứng vững được nếu đưa ra tòa không - William hỏi.

- Điều này khó mà biết trước được. Việc như thế này chưa có tiền lệ. Thế kỷ 19 có một nghị sĩ dặn lại các cử tri của mình trong một bản di chúc và không có một ai phản đối, rồi sau người được hưởng di chúc cứ thế trở thành Thủ tướng. Nhưng đó là chuyện đã cách đây hơn một trăm năm rồi, và là ở Anh. Bây giờ, trong trường hợp này nếu ban giám đốc quyết định thách thức lại di chúc của ông Lester và nếu ông quyết định đưa ra tòa, thì tôi chưa thể đoán trước được là chánh án sẽ nghiêng về bên nào. Huân tước Melbolưne sẽ chẳng ra mặt đối chọi với một đại biểu của New York đâu. Dù sao, đây cũng là một chuyện khó giải về pháp lý, ông Kane ạ.

- Vậy ông khuyên tôi thế nào? - Wilham hỏi.

Tôi là một người Do Thái, ông Kane. Tôi đến đất này trên một con tàu từ Đức sang hồi đầu thế kỷ, và tôi vẫn phải đấu tranh rất chật vật để giành được những gì tôi muốn. Ông có rất cần phải trở thành chủ tịch ngân hàng Lester lắm không?

- Có chứ, ông Chen. Tôi rất cần.

Vậy ông hãy nên nghe kỹ một người già lâu nay vẫn nhìn ông bằng con mắt rất kính trọng và có thể nói bằng con mắt thân ái nữa. Tôi sẽ nói cho ông nghe nếu ở vào trường hợp khó khăn như của ông thì tôi làm như thế nào.

Một giờ sau William bỏ máy xuống và vì còn thừa thì giờ anh dạo chơi trên Đại lộ Công viên. Anh đi qua một công trường đang xây một tòa nhà cao tầng rất lớn. Một tấm biển to viết:

Khách sạn Nam tước sắp tới sẽ là ở New York. Đã đến ở Nam tước rồi, các bạn sẽ không bao giờ muốn ở đâu khác nữa. William mỉm cười và bước tiếp về phía Câu lạc bộ Metropolitan.

Ted Leach, một người thấp nhỏ nhưng ăn mặc rất lịch sự, có bộ tóc nâu sẫm và một hàng ria, đang đứng giữ câu lạc bộ chờ anh. Ông ta dẫn William vào quầy rượu, William rất thích câu lạc bộ bài trí theo kiểu thời Phục hưng, do otto Kuhn và Stanford White xây nên từ năm 1891. J. P. Morgan đã lập ra câu lạc bộ này khi một người bạn thân của ông ta bị thất bại trong cuộc bầu vào Liên đoàn.

- Thật là một cử chỉ ngông cuồng đối với bạn thân, phải không ạ, - Ted Leach thấy anh ngắm cảnh trong nhà định gợi chuyện. - Ông sẽ uống gì đây, ông Kane?

- Xin cho tôi "wyki se- ri, - William nói.

Một chú bé mặc đồng phục màu xanh đi một lát rồi quay lại với rượu se- ri và Whisky với nước. Chú không cần chờ Ted Leach gọi mới mang rượu đến.

Xin chúc chủ tịch tương lai của Lester, - Ted Leach nâng cốc lên nói.

William ngập ngừng ông đừng uống, ông Kane. Như ông biết đấy, mình chả bao giờ nâng cốc tự chúc mình cả.

Wilham cười, không biết nên nói thế nào.

Mấy phút sau, hai người khác lớn tuổi hơn bước đến chỗ họ, cả hai người cao lớn mặc bộ quần áo mầu sẫm kiểu nhà ngân hàng với cổ cứng và ca vát đồng màu. Giá như họ đang đi trên phố Wall thì William không liếc nhìn họ làm gì. Nhưng đây là Câu lạc bộ Metopolitan nên anh nhìn họ chăm chú.

- Ông Alfred Rogers và ông Wínthrop Davies, - Ted Leach giới thiệu hai người.

Wilìiam cười vui vẻ dè dặt, vì chưa biết thái độ họ như thế nào. Hai người mới đến nhìn anh rất kỹ.

Không ai nói gì.

- Chúng ta bắt đầu từ đâu? - Người có tên là Rodgers nói, chiếc kính một mắt của ông ta tuột xuống..

- Bắt đầu từ đi ăn trưa, - Ted Leach nói.

Cả ba người quay ra và William đi theo họ. Phòng ăn ở trên tầng hai rất rộng, trần nhà cao và đẹp.

Trưởng phòng ăn xếp cho họ ngồi bên cửa sổ nhìn xuống Công viên trung tâm, và ngồi đây nói chuyện thì không ai nghe được họ nói gì.

- Ta gọi ăn đã rồi nói chuyện, - Ted Leach nói.

Nhìn qua cửa sổ, Wilìiam có thể trông thấy khách sạn Plaza. Anh bỗng nhớ lại hôm kỷ niệm sinh nhật của anh cùng với các bà nội ngoại và Matthew, rồi còn có một cái gì khác nữa anh cố nhớ lại vào lúc diễn ra buổi tiệc trà ở khách sạn Plaza ấỵ...

ông Kane, chúng ta cứ nói thẳng với nhau nhé, - Ted Leach phát biểu. - Quyết định của Charles Lester cử ông làm chủ tịch ngân hàng đối với chúng tôi là một chuyện bất ngờ, nếu không nói là quá khó xử.

Nhưng nếu ban giám đốc không cần biết đến những mong muốn của ông ấy thì ngân hàng có thể rơi vào tình trạng hỗn loạn và đó là điều trong chúng tôi không ai muốn. Ông ấy là một người rất khôn ngoan, và ông ấy có những lý do để muốn ông làm chủ tịch tương lai, và tôi cho rằng như thế là tốt rồi.

William đã từng nghe những lời này một lần rồi, và đó là của Peter Parfltt.

Cả ba chúng tôi, - Winthrop Davies nói tiếp, - Đều mang ơn ông Charles Lester, và chúng tôi sẽ thực hiện những mong muốn của ông ấy nếu như đó là điều cuối cùng chúng tôi phải làm với tư cách là thành viên ban giám đốc.

- Nếu như Peter Parfitt thành công trong việc trở thành chú tịch, thì chúng tôi sẽ phải làm thế thật, - Ted Leach nói.
 
- Thưa các vị, William, - Tôi rất lấy làm tiếc đã khiến cho các vị phải bận tâm như vậy. Nếu như việc chỉ định tôi làm chủ tịch đã làm cho các vị ngạc nhiên, thì tôi cũng phải đảm bảo với các vị rằng chính tôi cũng hoàn toàn bất ngờ về chuyện đó. Tôi cứ nghĩ là mình sẽ nhận được chút kỷ niệm nhỏ gì đó về Matthew trong di chúc của Charles Lester, chứ không phải là nhận trách nhiệm quản lý ngân hàng.

- Chúng tôi hiểu hoàn cảnh ông đã bị đặt vào đó, ông Kane, - Ted Leach nói, - Và ông cũng phải tin chúng tôi khi chúng tôi nói là đến đây để giúp ông. chúng tôi biết rằng ông khó mà tin được sau khi Peter Parfitt đã đối xử với ông như vậy và những thủ đoạn mà ông ta đang dùng sau lưng ông.

- Tôi phải tin ở các vị chứ, thưa ông Leach, vì tôi không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài cách tự đặt mình vào trong tay các vị. Các vị xét tình hình hiện nay là thế nào?

- Tôi thấy tình hình là rõ rồi, - Leach nói. - Cuộc vận động của Peter Parfitt là rất có tổ chức, và bây giờ ông ta làm như mình đang ở trên thế mạnh. Vì vậy thưa ông Kane, nếu chúng ta muốn có cơ hội đánh bại ông ta thì chúng ta phải hoàn toàn nói thật với nhau đã. Cố nhiên, tôi cho rằng ông sẵn sàng lao vào cuộc chiến chứ.

Nếu không thì tôi đã không đến đây, thưa ông Leach. Bây giờ, vì các vị đã nói rõ lập trường của mình rồi, có lẽ các vị cho phép tôi đề nghị là chúng ta nên làm thế nào để đánh bại ông Parfitt.

- Cố nhiên, - Ted Leach nói.

Ba người chăm chú nghe.

- Các vị rất có lý khi cho rằng Parfltt cảm thấy ông ta đang ở thế mạnh vì cho đến nay ông ta vẫn là người tiến công, và luôn luôn biết là cái gì sẽ xảy ra. Vì vậy tôi xin đề nghị với các vị là đã đến lúc chúng ta đảo ngược lại chiều hướng ấy và chúng ta sẽ tiến công ở chỗ nào và lúc nào ông ta không ngờ đến nhất- Tức là ở ngay trong phòng làm việc của ông ta.

- Ông bảo chúng tôi làm tế nào, ông Kane? - Winthrop Davies hỏi với một vẻ hơi ngạc nhiên.

- Tôi sẽ trình bày cách đó nếu trước hết các vị cho phép tôi hỏi hai câu. Có tất cả bao nhiêu giám đốc chấp hành có quyền bỏ phiếu?

- Mười sáu, - Ted Leach đáp ngay.

- Lúc này đây thì họ có ý ủng hộ ai? - Wiìliam hỏi.

- Câu này không dễ trả lời đâu, ông Kane, - Winthrop Davies nói chen vào. Ông ta rút từ túi trong ra một phong bì nhàu và nhìn kỹ sau lưng nó rồi nói tiếp - Tôi nghĩ chúng ta có thể trông vào sáu phiếu chắc chắn và Petter Parfitt chắc ăn được năm. Sáng nay tôi sững cả người khi nghe nói Rupert Cork- smith, trước đây là bạn thân nhất của Charles Lester, không muốn ủng hộ Ông, ông Kane. Thật lạ kỳ, vì tôi biết ông ta không thích gì Parfitt. Nếu như vậy thì mỗi bên được sáu phiếu.

- Chúng ta còn thì giờ đến thứ năm, - Ted Leach nói thêm. - Từ nay đến đó có thể tìm hiểu thêm còn bốn thành viên nữa sẽ bỏ phiếu cho ai.

- Sao phải chờ đến thứ năm? - Wiìham hỏi.

- Tức là kỳ họp ban giám đốc lần sau, - Leach trả lời và đưa tay vuốt ria. William đã để ý mỗi lần ông ta sắp nói gì là thế nào cũng vuốt ria một cái. - Và điều quan trong nhất là việc bầu chủ tịch mới đứng hàng đầu trong chương trình nghị sự - Tôi nghe nói cuộc họp lần sau là vào thứ hai kia,- William ngạc nhiên nói.

Ai nói? - Davies hỏi.

- Peter Parfitt, - William đáp.

- Thủ đoạn của ông ta đấy, - Ted Leach nói. - Ông ta không bao giờ nói thật.

Tôi đã được biết khá nhiều về con người lịch sự này rồi. - William nói với một giọng mỉa mai. - Chính vì thế bây giờ tôi phải quyết định giao chiến với ông ta.

- Nói thì dễ thôi, ông Kane. Lúc này đây, ông ta là người ngồi ở ghế cầm tay lái, - Winthrop Davies nói,- Tôi chưa biết mình có thể làm cách gì nhấc được ông ta ra khỏi cái ghế đó.

- Thì bật đèn đỏ lên, - William đáp. - Ai là người có quyền triệu tập họp ban giám đốc?

Trong khi ban giám đốc không có chủ tịch, thì phó chủ tịch nào cũng triệu tập được, - Ted Leach nói. - Cụ thể hoặc là Peter Parfitt hoặc là tôi.

- Tối thiểu phải có bao nhiêu thành viên thì cuộc họp mới có giá trị?

- Chín, - Davies nói.

- Ông là một trong hai phó chủ tịch thì ai là Bí thư của ban lãnh đạo.

- Tôi, - A]fred Rodgers nói. Từ nãy đến giờ ông ta chưa hề mở miệng. Đó là một đức tính mà William bao giờ cũng đòi hỏi ở một người làm Bí thư của công ty - Nếu triệu tập một cuộc họp bất thường thì phải báo trước bao nhiêu lâu, ông Rodgers?

- Mỗi giám đốc phải được báo trước hai mươi bốn giờ mặc dầu điều đó chưa bao giờ xảy ra trừ cái hồi khủng hoảng năm hai mươi chín. Charles Lester thường báo trước ít nhất ba ngày.

- Nhưng ngân hàng có quy chế cho phép triệu tập cuộc họp bất thường nếu báo trước hai mươi bốn tiếng chứ - William hỏi.

- Vâng, quy chế thì có, - Alfred Rodgers nói. Lúc này chiếc kính một mắt đã được ông ta gắn chặt lên mắt để nhìn kỹ William.

- Thế thì tốt, vậy chúng ta triệu tập cuộc họp giám đốc riêng của chúng ta.

Cả ba người nhìn William như chưa nghe rõ anh nói gì.

- Các vị thử nghĩ xem, - William nói tiếp. - Ông Leach, với tư cách phó chủ tịch, triệu tập cuộc họp ban giám đốc, và ông Rodgers, với tư cách bí thư của ban lãnh đạo, thông báo cho các giám đốc được biết.

- Ông muốn cuộc họp này tiến hành vào ngày nào?- Ted Leach hỏi.

Chiều mai, - William nhìn đồng hồ tay. - Ba giờ.

- Trời đất ơi, thế thì gấp quá, - Alfred Rodgers nói.- Tôi không chắc là....

Vì ông muốn nói gấp quá đối với Peter Parfitt, phải không ạ? - William nói.

Gấp quá thật đấy, - Ted Leach nói, - Trừ phi ông đã biết rõ trước cuộc họp sẽ tiến hành như thế nào.

Về cuộc họp thì xin cứ để đó cho tôi. Chỉ cần các vị nắm chắc rằng cuộc họp được triệu tập theo đúng nội quy và mỗi giám đốc đều được thông báo cẩn thận.

- Chưa biết được Peter Parfitt, - William nói. - Đó là một sai lầm mà chúng ta đã mắc cho đến bây giờ. Ta hãy bắt đầu lo về phần mình xem sẽ thay đổi như thế nào. Chừng nào ông ta được báo trước đúng hai mươi bốn giờ và ông ta là người cuối cùng được thông báo, thì chúng ta không có gì đáng sợ. Chúng ta không để cho ông ta có thêm thì giờ cần thiết đề bố trí phản công được. Và thưa các vị, xin các vị đừng ngạc nhiên gì hết về những gì tôi làm hoặc tôi nói ngày mai. Chỉ xin các vị hãy tin vào xét đoán của tôi và các vị có mặt đó để ủng hộ tôi là được.

- Ông không nghĩ là chúng tôi cũng cần biết chắc ông sẽ tính toán như thế nào ư - Không, thưa ông Leach. Xin các vị hãy xuất hiện ở cuộc họp ban giám đốc như những người rất vô tư và chỉ vì nhiệm vụ của mình mà đến đó thôi.

Ted Leach và hai đồng nghiệp của ông ta bắt đầu hiểu ra tại sao Charles Lester đã chọn William Kane là người chủ tịch tương lai. Họ rời Câu lạc bộ Metropolitan ra về trong lòng vững tin hơn lúc mới đến, mặc dầu họ hoàn toàn chưa hiểu cuộc họp sẽ diễn ra như thế nào. William, trái lại, sau khi đã thực hiện được phần đầu những gì Thomas Chen đã dặn dò, bây giờ chuẩn bị bước vào phần thứ hai mà anh biết là sẽ khó khăn hơn.

Hầu hết cả buổi chiều và buổi tối, anh chỉ ngồi trong phòng ở Câu lạc bộ Yale, suy nghĩ thật cẩn thận về những sách lược anh sẽ đem ra thi hành ở cuộc họp ngày hôm sau , chỉ rảnh được một lúc để gọi về cho Kate.

- Anh đang ở đâu thế, anh yêu? - Cô nói. - Lủi đi giữa đêm mà không biết đi đâu.

- Đi gặp người tình ở New York, Wilham nói.

- Tội nghiệp cho cô ta nhỉ, Kate nói. - Có lẽ cô ta không biết tại sao. Thế cô ta khuyên anh về cái ông Parfitt ngoắt ngoéo ấy thế nào?

- Anh chưa có thì giờ hỏi cô ta, vì còn bận nhiều việc khác. Nhân tiện em đang nói điện thoại, em khuyên anh nên thế nào?

- Anh đừng làm bất cứ gì mà Charles Lester hay cha anh đã làm trong trường hợp tương tự như thế này, - Ka te bỗng nghiêm giọng nói.

- Có lẽ các cụ đang đánh gôn ở trên chín từng mây và đang nhìn chúng ta đánh cuộc đấy.

Anh làm gì tùy, William, nhưng chớ có làm quá đáng và nhớ rằng các cụ vẫn đang theo dõi anh đấy.

William dậy từ sáng sớm. Anh chỉ có ngủ vừa phải thôi. Sau sáu giờ một chút, anh đã dậy rồi. Tắm nước lạnh rồi đi dạo một vòng trong công viên trung tâm cho đầu óc tỉnh táo, rồi sau đó về Câu lạc bộ ăn sáng.

Có bức điện gửi cho anh để ở quầy tiếp tân. Đó là điện của vợ. Đọc đến lần thứ hai, William bỗng bật cười thấy trong điện nói:

nếu anh không bận lắm thì nhớ mua một chiếc găng dã cầu cho Richard. William nhặt tờ Nhật báo phố Wall lên xem, trong đó vẫn còn đăng chuyện rắc rối trong ban giám đốc ngân hàng Lester về chuyện bầu chủ tịch mới. Lần này, báo đăng ý kiến của Peter Parfitt nói ý rằng việc ông ta được chỉ định làm chủ tịch sẽ rõ ràng trong cuộc họp vào thứ năm.

William không biết đến số báo ngày mai sẽ có ý kiến của ai. và có lẽ bây giờ có thể hỏi ra số báo ngày mai được rồi. Cả buổi sáng, anh tìm hiểu về chuyện đó ở những nơi có liên quan đến ngân hàng Lester. Anh bỏ cả bữa cơm trưa nhưng vẫn có thời giờ đến nhà hàng Schwarz mua chiếc găng dã cầu cho con trai.

Đến hai giờ ba mươi, anh đi taxi đến ngân hàng ở phố Wall và tới đó mấy phút trước ba giờ. Người gác cửa trẻ tuổi hỏi anh có hẹn để gặp ai không.

- Tôi là William Kane.

- Thưa vâng, chắc ông muốn lên ban giám đốc.

Trời ơi, William nghĩ bụng, mình cũng không nhớ là phòng đó ở đâu nữa.

Người gác cửa thấy anh có vẻ lúng túng - Ông theo hành lang phía bên trái, thưa ông, rồi vào cửa thứ hai bên phải.

- Cảm ơn. - Wìlliam nói, rồi đàng hoàng đi xuống dưới hành lang. Lúc đó, anh nghĩ cái thành ngữ "bụng phập phồng" là ngớ ngẩn. Đúng ra, anh cảm thấy tim mình đập mạnh hơn cả chiếc đồng hồ treo ở trước sảnh, và nghe nó đánh ba tiếng chuông, anh chả ngạc nhiên tí nào.

Ted Leach đứng một mình ở cửa ra vào phòng giám đốc - Sẽ có rắc rối đây, - Ông ta vừa mở miệng đã nói thế.

- Tốt, - William nói. - Đó chính là cái mà Charles Lester rất thích và đối diện ngay với nó.

William bước thẳng vào căn phòng đồ sộ chung quanh tường lát gỗ sồi và anh cũng không cần đếm xem tất cả các giám đốc đều có mặt ở đó không. Đây sẽ không phải là một trong những cuộc họp giám đốc bình thường mà anh nào dám vắng mặt được. Thấy William bước vào, họ đã ngừng nói chuyện ngay và mọi người đứng quanh đó im lặng nhìn anh, một cái im lặng nặng nề. William ngồi ngay vào ghế chủ tịch ở đầu chiếc bàn dài bằng gỗ đen trước khi Peter Parfltt kịp hiểu ra đầu đuôi.

Mời các vị ngồi, - William nói, giọng chắc nịch.

Ted Leach và một số giám đốc ngồi vào chỗ ngay, còn một số khác đang có vẻ lừng chừng. Có tiếng rì rầm trong đám họ William có thể thấy hai giám đốc mà anh không biết là ai sắp sửa đứng dậy ngắt lời anh.

- Trước khi ai phát biểu gì, xin cho phép tôi được mở đầu vài lời, rồi sau đó các vị sẽ quyết định muốn thế nào thì tùy. Tôi nghĩ đó là điều tối thiểu chúng ta có thể làm để tuân theo những điều mong muốn của cố chủ tịch Charles Lester.

Hai người kia ngồi xuống.

- Cảm ơn các vị. Để mở đầu, tôi muốn nói rõ với tất cả các vị có mặt ở đây là tôi hoàn toàn không có ý muốn làm chủ tịch ngân hàng này. - William ngừng lại một chút để câu đó phát huy hiệu lực - Trừ phi đó là điều mong muốn của đa số các vị giám đốc.

Lúc này mọi con mắt đều hướng hẳn vào William.

- Thưa các vị, hiện nay tôi là phó chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, và tôi có 51 phần trăm cồ phiếu trong đó. Kane và Cabot là do ông nội tôi lập nên và tôi nghĩ tuy quy mô không lớn bằng Lester nhưng tiếng tăm thì cũng là ngang hàng. Nếu như tôi có phải rời Boston về New York để trở thành chủ tịch tương lai của Lester theo đúng như điều mong muốn của Charles Lester, thì cũng xin nói với các vị là điều đó không dễ cho riêng tôi cũng như cho gia đình tôi.

Tuy nhiên, vì đây là mong muốn của Charles Lester, ông muốn tôi thực hiện điều đó - Ông không phải là một người mỗi khi đưa ra ý kiến gì mà không cân nhắc kỹ càng nên, thưa các vị, tôi buộc cũng phải coi trọng những điều mong muốn ấy của ông. Tôi cũng muốn nói thêm rằng con trai ông, Matthew Lester, đã từng là bạn thân nhất của tôi trong hơn mười lăm năm, và tôi cho rằng thật là bi thảm vì đây lại là tôi, chứ không phải anh ấy, là người nói với các vị hôm nay với tư cách chủ tịch được chỉ định.

Một số giám đốc gật đầu tán thưởng.

- Thưa các vị, nếu tôi may mắn có được sự ủng hộ của các vị hôm nay, tôi sẽ hy sinh tất cả những gì tôi có ở Boston để có thể phục vụ các vị. Tôi nghĩ là không cần thiết phải trình bày chi tiết với các vị về kinh nghiệm ngân hàng của tôi làm gì. Tôi chỉ cho rằng bất cứ vị giám đốc nào có mặt đã từng đọc qua di chúc của Charles Lester ắt sẽ suy nghĩ tại sao ông lại chọn tôi làm người kế vị. Bản thân ông chủ tịch của ngân hàng tôi, Anthony Simmons, người mà nhiều vị đã biết, cũng yêu cầu tôi ở lại với Kane và Cabot.

Hôm qua tôi đã định báo cho ông Parfitt về quyết định cuối cùng của tôi, giá như ông gọi cho tôi để tìm hiểu việc đó. Tôi đã có vinh hạnh được cùng ăn với ông bà Parfitt tại nhà tuần trước, và ông Parfltt có nói với tôi là ông không quan tâm gì đến chuyện trở thành chủ tịch ngân hàng này. Theo ông nói thì người đối thủ với tôi ở đây là ông Edward Leach, tức là một phó chủ tịch khác. Sau đó tôi có tham vấn với ông Leach thì lại được ông cho biết là ông ủng hộ tôi làm chủ tịch. Từ đó, tôi có thể rút ra kết luận là cả hai vị phó chủ tịch đều ủng hộ tôi. Sau khi đọc tờ Nhật báo phố Wall số ra sáng nay, - Và đọc không phải vì tôi tin ở những dự đoán của họ kể từ hồi tôi tám tuổi đã biết đến tờ báo này - (có vài tiếng cười), thì tôi cảm thấy mình phải dự cuộc họp hôm nay để tự đảm bảo với mình rằng tôi không hề mất sự ủng hộ của hai vị chủ tịch, và để thấy rằng dự đoán của tờ báo là không đúng. Ông Leach triệu tập cuộc họp này và đến đây tôi xin hỏi ông một lần nữa rằng ông còn ủng hộ tôi kế vị Charles Lester làm chủ tịch ngân hàng hay không?

Willỉam nhìn về phía Ted Leach, lúc đó đang cúi đầu Ai cũng có thể cảm thấy như chờ đợi lời phán xét cuối cùng của ông ta. Nếu ông ta chống lại thì coi như phái Parfitt có thể nuốt sống phái ủng hộ anh.

Ted Leach từ từ ngửng đầu lên nói:

- Tôi hoàn toàn ủng hộ Ông Kane.

William lại nhìn thẳng vào Peter Parfitt. Ông ta toát mồ hôi, và trong khi nói ông ta không rời mắt khỏi chiếc cặp giấy màu vàng để trước mặt.

- Một số vị trong ban giám đốc cho rằng tôi nên tranh cử... - Ông ta nói.

- Vậy là ông đã thay đôi ý kiến về chuyện ủng hộ tôi và làm theo điều mong muốn của Charles Lester ?

William ngắt lời trong giọng nói hơi có chút ngạc nhiên.

Peter Parfitt hơi ngẩng đầu lên.

- Vấn đề không đơn giản như vậy, ông Kane.

- Xin ông nói có hay không thôi, ông Parfitt.

- Vâng, tôi sẽ đứng ra chống lại ông, - Peter Parfitt dằn giọng.

Mặc dầu tuần trước ông đã nói với tôi là không quan tâm đến chuyện làm chủ tịch?

- Tôi muốn có thể nói lên được lập trường riêng của tôi, - Parfitt nói. - Tôi e rằng ông khẳng định hơi quá nhiều. Đây chưa phải là phòng giám đốc của riêng ông, ông Kane.

- Vâng, tất nhiên, ông Parfitt.
 
Cho đến lúc này, cuộc họp đã diễn ra đúng như William dự kiến. Bài phát biểu của anh đã được chuẩn bị rất kỹ và nói ra một cách đàng hoàng. Peter Parfitt bây giờ đang ở cái thế không thuận lợi vì đã mất chủ động, đó là chưa nói đến chuyện ông bị công khai coi là một kẻ lừa dối.

- Thưa các vị, - Ông ta chầm chậm nói như đang tìm lời lẽ phát biểu. Các con mắt đang từ chỗ nhìn William bây giờ lại hướng vào Parfitt. Như vậy cũng khiến cho Wilham được nghỉ ngơi một chút và có thể quan sát vẻ mặt của các giám đốc khác.

- Nhiều vị trong ban giám đốc có gặp riêng tôi sau khi tôi mời ông Kane ăn tối. Và tôi cảm thấy bổn phận của mình là phải tôn trọng những mong muốn của họ và đứng ra tranh cử. Tôi chưa hề bao giờ có ý muốn chống lại những mong muốn của ông Charles Lester, một người mà tôi luôn luôn khâm phục và kính trọng. Cố nhiên, lẽ ra tôi phải báo cho ông Kane biết về ý định của tôi trước cuộc họp ban giám đốc dự định vào ngày mai, nhưng tôi phải thú thật là tôi bị bất ngờ với những sự việc diễn ra hôm nay. - Ông ta hít một hơi dài rồi nói tiếp. - Tôi đã phục vụ ngân hàng Lester hai mươi hai năm, trong đó sáu năm làm phó chủ tịch của các vị. Do đó tôi cảm thấy mình có quyền được xét đến làm chủ tịch. Tôi sẽ rất sung sướng nếu có ông Kane tham gia ban giám đốc, nhưng bây giờ tôi thấy mình không thể ủng hộ việc ông làm chủ tịch được. Tôi hy vọng các vị giám đốc thấy nên ủng hộ người nào đã phục vụ ngân hàng này trên hai mươi năm hơn là bầu cho một người ngoài mà ta không biết và chỉ vì thương xót một người đau khổ về cái chết của đứa con trai duy nhất của mình. Xin cảm ơn các vị.

ông ta ngồi xuống.

Nếu là bình thường thì William cũng có thể bị những lời phát biểu của ông ta tác động rồi. Nhưng Parfitt lại không có được những lời khuyên khôn ngoan của ông Chen về quyền lực của lời nói cuối cùng trong một cuộc tranh chấp gay go. William lại đứng dậy.

- Thưa các vị, ông Parfitt có nói rằng các vị không được biết gì về tôi. Do đó, tôi muốn rằng không còn vị nào ngờ vực gì nữa về chuyện tôi là ai, và là người như thế nào. Như tôi đã nói, tôi là cháu nội và là con đẻ của những nhà ngân hàng. Bản thân tôi đã suốt đời làm ngân hàng, và sẽ không trung thực nếu tôi nói rằng mình không thích gì nếu làm chủ tịch tương lai của ngân hàng Lester. Ngược lại, sau khi các vị đã nghe hết những điều đã nói hôm nay rồi mà vẫn quyết định ủng hộ Ông Parfitt làm chủ tịch, thì đành vậy Tôi vẫn trở về Boston và phục vụ cho ngân hàng của tôi một cách rất sung sướng. Hơn nữa, tôi sẽ công khai tuyên bố cho mọi người biết rằng tôi không hề có ý mong muốn làm chủ ngân hàng Lester, và như vậy các vị có thể yên trí không bị ai cho là mình không muốn thực hiện những điều nêu ra trong di chúc của Charles Lester.

- Tuy nhiên, cũng không thể nào có chuyện tôi sẽ phục vụ trong ban giám đốc này dưới quyền ông Parfitt. Về điểm này, tôi xin được nói thẳng ra với các vị như vậy. Tôi đến đây với các vị trong cái thế bất lợi, như ông Parfitt đã nói đó, là một người ngoài không ai biết. Tuy vậy, tôi lại có cái lợi thế là được sự ủng hộ của một người không thể có mặt ngày hôm nay được Một người mà tất cả các vị đều kính trọng và khâm phục, một người mà ai cũng biết là không bị lay chuyển bằng những cảm xúc và cũng không hề có những quyết định vội vã. Do đó tôi đề nghị ban giám đốc này không nên mất thời gian quý báu của mình vào việc quyết định xem ai sẽ là chủ tịch tương lai của Lester. Nếu như bất cứ ai trong các vị còn hoài nghi trong đầu về khả năng của tôi quản lý ngân hàng này, thì tôi chỉ biết đề nghị người đó cứ bầu cho Parfitt. Bản thân tôi, thưa các vị, sẽ không bỏ phiếu trong cuộc bầu này, và tôi cho rằng ông Parfitt cũng sẽ làm như vậy.

- Ông không thể bầu được. - Peter parfitt tức giận nói. - Ông chưa là thành viên của ban giám đốc này. Nhưng tôi là thành viên, tôi sẽ bầu.

- Thì tùy ông, ông Parfitt. Chẳng ai có thể nói là ông không có cơ hội giành được từng phiếu bầu ở đây.

William chờ cho những lời nói của anh đủ ngấm vào tai mọi người, rồi khi thấy một giám đốc mà anh không biết định ngắt lời, anh nói tiếp:

- Tôi sẽ yêu cầu ông Rodgers với tư cách là bí thư đứng ra thực hiện thủ tục bầu bán, và sau khi các vị đã bầu rồi thì xin đưa phiếu bầu lại cho ông Rodgers.

Trong suốt cuộc họp, chiếc kính một mắt của Alfred Rodgers thỉnh thoảng lại nhô ra. Ông ta đưa những phiếu bầu cho từng giám đốc. Viết xong tên ứng cử viên rồi, họ đưa lại cho ông.

- Trong những điều kiện lúc này, thưa ông Rodgers, có lẽ thận trọng hơn cả là mỗi phiếu sẽ được đọc to lên để tránh sai lầm không cần thiết có thể đưa đến chỗ phải bầu lại.

- Nhất định thế rồi, ông Kane.

- Như vậy có được ông đồng ý không, thưa ông Parfitt?

Peter Parfitt gật đầu không nhìn lên.

Cảm ơn ông. Có lẽ xin ông Rodgers đọc to lên cho cả ban giám đốc cùng nghe.

ông bí thư mở phiếu đầu tiên.

Parfitt.

Rồi phiếu thứ hai.

- Parfitt, - Ông ta nhắc lại.

Canh bạc bây giờ không còn nằm trong tay William nữa. Tất cả những năm chờ đợi để có được phần thưởng mà anh đã nói với Charles Lester từ lâu sẽ kết thúc trong giây lát sau đây.

- Kane. Parfitt. Kane.

Ba phiếu trên hai tay của anh. Liệu anh có gặp lại số phận trong cuộc đấu với Tony Simmons trước đây không?

Kane. Kane. Parfitt.

Bốn đều. Anh có thể trông thấy Parfitt toát mồ hôi trên mặt, nhưng bản thân anh cũng chẳng cảm thấy dễ chịu gì.

Parfitt.

Trên mặt William không biểu hiện gì. Parfitt hơi mỉm cười.

Năm phiếu trên bốn.

- Kane. Kane. Kane.

Nụ cười biến mất.

Hai phiếu nữa, hai phiếu nữa thôi. William nhủ thầm. Anh suýt bật thành tiếng.

Parfitt. Parfitt..

ông bí thư để khá lâu mới mở xong một lá phiếu mà người nào đó đã gấp lại nhiều lần.

Kane. - Tám phiếu trên bảy, nghiêng về phía William.

Lá phiếu cuối cùng bây giờ đã được mở. Willam nhìn vào cặp môi Alfred Rodgers. Ông Bí thư nhìn lên. Trong khoảnh khắc này, ông ta là người quan trọng nhất trong phòng.

Kane. - Parfitt gục đầu vào hai tay.

- Thưa các vị, kết quả là chín phiếu bầu cho ông William Kane, bẩy phiếu cho ông Peter Parfitt. Tôi xin tuyên bố ông William Kane là người được chính thức bầu làm chủ tịch ngân hàng Lester.

Trong phòng im lặng một cách nghiêm trang:

Mọi cái đầu trừ đầu của Pẹter Parfitt, quay về phía Wilham chờ xem ông chủ tịch mới nói gì.

William hít một hơi dài và lại đứng dậy, lần này là đứng dậy để nói với ban giám đốc của anh.

- Xin cảm ơn các vị về sự tin cậy của các vị đã đặt vào tôi. Mong muốn của Charles Lester là tôi sẽ làm chủ tịch kế vị, và bây giờ tôi rất sung sướng được các vị khẳng định mong muốn đó bằng lá phiếu của mình.

Tôi sẽ phục vụ ngân hàng này bằng tất cả những khả năng tôi có được, và tôi cũng sẽ không thể thực hiện được điều đó nếu không có sự ủng hộ nhiệt tình của ban giám đốc. Tôi mong rằng ông Parfitt....

Peter Parfitt nhìn lên với một chút hy vọng.

- Sẽ cho tôi được gặp ở phòng chủ tịch sau đây ít phút, tôi sẽ rất cảm ơn. Sau khi gặp ông Parfitt, tôi xin gặp ông Leach. Thưa các vị, tôi hy vọng trong ngày mai sẽ có dịp được gặp từng người trong tất cả các vị Cuộc họp ban giám đốc lần tới sẽ là cuộc họp hàng tháng. Cuộc họp này đến đây là kết thúc.

Các giám đốc lục tục đứng dậy và nói chuyện với nhau. William bước vội ra hành lang, tránh cái nhìn của Peter Parfitt. Ted Leach bước ra theo và chỉ cho anh phòng làm việc của chủ tịch.

- Ông đã làm một việc rất mạo hiểm, - Ted Leach nói, - May mà ông thắng. Nếu không được bầu thì ông sẽ làm gì?

- Trở về Boston, - Wilham thản nhiên đáp.

Ted Leach mở cửa phòng chủ tịch cho William. Căn phòng vẫn đúng như anh nhớ, có lẽ hình như hồi anh còn là học sinh trung học và đến đây bảo với Charles Lester là một ngày kia anh sẽ quản lý ngân hàng này thì lúc đó nó to rộng hơn. Anh nhìn lên bức chân dung của ông chủ tịch cũ treo ở phía sau bàn giấy và nháy mắt với ông. Rồi anh ngồi xuống chiếc ghế da đỏ rất to chống khuỷu tay lên mặt bàn gỗ màu đen. Anh rút trong túi ra cuốn sổ nhỏ có bìa bọc da để xuống trước mặt. Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. Một người đã nhiều tuổi bước vào, chống tay lên một cây gậy đen bịt bạc ở đầu. Ted Leach bỏ ra ngoài.

- Tên tôi là Rupert Cork- smith, - Ông ta nói, giọng nói hơi có chút ngữ điệu Anh.

William đứng dậy chào ông ta. Ông ta là thành viên già nhất trong ban giám đốc. Tóc đã bạc, tóc mai dài và chiếc đồng hồ vàng đều là biểu hiện của thời xưa nhưng ông nổi tiếng là người liêm khiết trong giới ngân hàng. Không ai cần phải ký hợp đồng gì với Rupert Cork- smith, vì lời nói của ông đủ đảm bảo rồi.

ông nhìn thẳng vào mắt William.

- Tôi đã bỏ phiếu chống lại ông, thưa ông, và cố nhiên ông có thể thấy đơn từ chức của tôi trên bàn giấy này trong vòng một giờ nữa.

Xin mời ông ngồi xuống đã, - Wiìliam nhẹ nhàng nói.

- Cảm ơn ông, - Ông ta đáp.

- Tôi đoán ông có quen biết bố tôi và ông tôi.

Tôi có vinh dự đó. Ông nội ông với tôi cùng học ở Harvard và tôi vẫn còn nhớ lại với một niềm thương tiếc cái chết bi thảm của cha ông.

- Còn Charles Lester? - William hỏi.

Là bạn thân nhất của tôi. Những điều nói trong di chúc của ông ta vẫn ám ảnh lương tâm của tôi. Ai cũng biết rằng sự lựa chọn của tôi lẽ ra không phải là Peter Parfitt. Tôi thì tôi muốn Ted Leach làm chủ tịch. Nhưng đời tôi chưa bao giờ bỏ phiếu trắng cho bất cứ gì, vì vậy tôi thấy mình phải ủng hộ ứng cử viên nào đối lập với ông, vì tôi nghĩ không thể nào lại bỏ phiếu cho một người tôi chưa được gặp bao giờ.

Tôi khâm phục sự thẳng thắn của ông, ông Cork- smith, nhưng bây giờ tôi có nhiệm vụ phải quản lý một ngân hàng. Lúc này tôi cần đến ông hơn là ông cần đến tôi, vì vậy, là một người còn trẻ hơn, tôi xin ông đừng từ chức.

ông già ngẩng đầu lên nhìn William.

- Tôi không chắc có thể như vậy. Tôi không thể chỉ qua một đêm là thay đổi thái độ của mình được, - Cork- smith nói, hai tay để lên đầu gậy.

ông hãy cho tôi sáu tháng, và nếu như lúc đó ông còn thấy như vậy thì tôi cũng không dám đấu tranh gì với ông nữa.

Hai người im lặng một lát, rồi Cork- smith lại nói:

- Charles Lester nói đúng, ông thật là con của Richard Kane.

- Ông sẽ tiếp tục làm việc cho ngân hàng này chứ, thưa ông?

Tôi đồng ý. Ông biết đấy, chẳng có anh ngốc nào bằng anh ngốc già.

Rupert Cork- smith chống gậy từ từ đứng dây. William bước đến đỡ nhưng ông ta gạt ra.

- Chúc anh bạn trẻ may mắn. Anh có thể trông vào sự ủng hộ hoàn toàn của tôi.

- Xin cảm ơn ông, - William nói.

Lúc mở cửa, William trông thấy Peter Parfitt đã đang chờ ở ngoài hành lang.

Rupert Cork- smith đã đi rồi, nhưng hai người chưa nói gì với nhau.

Peter Parfitt vừa bước vào đã nói ngay.

- Tôi đánh liều thế là thua rồi. Chả biết làm thế nào hơn được, - Ông ta cười. - Ông không giận gì chứ, Bill? - Ông ta giơ tay ra bắt.

- Không giận gì đâu, ông Parfitt. Ông vừa nói đúng đấy ông đánh liều và ông thua rồi. Bây giờ thì ông hãy từ chức khỏi ngân hàng này đi.

- Sao cơ ? - Parfitt hỏi.

- Từ chức, - William nói.

Thế thì hơi tệ đấy, phải không Bill? Hành động của tôi không cá nhân tí nào. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy rằng...

- Tôi không muốn có ông trong ngân hàng này của tôi nữa, ông Parfitt. Ngay đêm nay ông phải đi cho, và đừng bao giờ quay lại nữa.

Nếu tôi bảo là không đì thì sao? Tôi có nhiều cổ phiếu trong ngân hàng và còn được rất nhiều sự ủng hộ của ban giám đốc. Hơn thế nữa, tôi còn có thể kiện ông được.

Vậy tôi khuyên ông nên đọc kỹ nội quy của ngân hàng, ông Parfitt, tôi cũng đã nghiên cứu nó sáng nay rồi.

William nhặt cuốn sổ bìa da ở bàn lên và giở qua mấy trang. Tìm đến một chương anh đã đánh dấu từ sáng, anh đọc to:

Chủ tịch có quyền gạt bỏ bất cứ người nào không còn tin được nữa. - Anh nhìn lên. - Tôi không còn tin được ông nữa, ông Parfitt, do đó ông phải từ chức và nhận hai năm lương. Nếu ngược lại ông buộc tôi phải gạt bỏ ông, thì tôi đành phải để ông rời khỏi ngân hàng với cổ phiếu của ông thôi, ngoài ra không còn gì khác nữa. Tùy ông chọn.

- Ông không để cho tôi có cơ hội nào ư?

- Tôi đã cho ông một cơ hội trong bữa ăn tối ở nhà ông tuần trước, nhưng ông đã nói dối và lừa đảo. Đó không phải là những nét tôi muốn có trong những người phó chủ tịch sau này của tôi. Vậy ông muốn từ chức hay để tôi phải đuổi ông đi, ông Parfitt?

- Khốn kiếp, Kane. Thôi được, tôi từ chức.

- Vậy là tốt ông ngồi xuống đây và viết ngay đơn từ chức đi.

- Không ! sáng mai lúc nào tiện tôi sẽ viết và đưa cho anh. - Ông ta nói rồi định bước ra cửa.

- Viết ngay bây giờ, không thì tôi đuổi ông. - William nói.

Peter Parfitt ngập ngừng một chút rồi quay lại ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh bàn giấy của William.

William đưa cho ông ta tờ giấy của ngân hàng và một cây bút. Parafitt rút bút riêng của ông ta ra và bắt đầu viết đơn Viết xong, William cầm lấy xem cẩn thận.

- Thôi chào ông Parfitt.

Peter Parfitt bỏ ra không nói một lời. Vài lát sau Ted Leach bước vào.

- Ông muốn gặp tôi chứ, ông chủ tịch - Vâng, - William nói. - Tôi muốn chỉ định ông làm phó chủ tịch toàn diện của ngân hàng. Ông Parfitt cảm thấy ông ấy phải từ chức.

- Ồ tôi lấy làm lạ đấy, tôi tưởng ông tạ....

William đưa lá đơn cho ông xem. Ted Leach đọc rồi nhìn William.

Tôi sẽ lấy làm sung sướng được là phó chủ tịch toàn diện. Cảm ơn ông đã tin cậy.

- Tốt rồi. Tôi nhờ ông trong hai ngày tới thu xếp cho tôi được gặp từng giám đốc một. Tôi sẽ bắt đầu làm việc từ tám giờ sáng mai.

Vâng, thưa ông Kane.

- Có lẽ cũng nhờ ông đưa lá đơn từ chức này của ông Parfitt đến bí thư công ty.

- Tùy ông, thưa ông chủ tịch.

- Tên tôi là William. Ông Parfitt cũng đã mắc sai lầm về chuyện này.

Ted Leach mỉm cười dè dặt.

- Vâng, sáng mai sẽ gặp lại ông, William.
 
ông ta đi rồi, William ngồi xuống chiếc ghế của Charles Lester và quay tít một hồi đến chóng mặt. Rồi anh nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn xuống phố Wall, nhìn đám người đi lại tấp nập, nhìn ra những nhà ngân hàng và các cơ quan đại lý của nước Mỹ với một niềm vui khó tả. Từ nay anh là một phần của tất cả những cái đó - Xin hỏi, ông là ai, thưa ông? - Một giọng đàn bà vang lên phía sau lưng anh.

William quay ghế lại thấy một người đàn bà cỡ trung niên, ăn mặc cổ lỗ, nhìn anh với một vẻ giận dữ.

- Có lẽ tôi cũng muốn hỏi bà như vậy, - William nói.

- Tôi là thư ký của ông chủ tịch, - Người đàn bà cứng cỏi đáp.

- Còn tôi, - William nói, - Là chủ tịch.

Mấy tuần sau đó, Wilìiam chuyển gia đình về New York, kiếm được một ngôi nhà bốn tầng ở phía Đông đường 68. Ngôi nhà có đủ mọi thứ Kate cần đến, kể cả một mảnh vườn ở phía sau. Nhưng ở được đâu ra đấy còn mất lâu thời gian hơn họ tưởng. Trong ba tháng đầu William cố gắng bứt hẳn ra khỏi Boston để làm nhiệm vụ của mình ở New York. Anh muốn tập trung mỗi ngày đêm, mong cho nó dài hơn hai mươi bốn tiếng đề có thề dồn sức vào đây được, nhưng rồi anh vẫn thấy khó có thể cắt đứt quan hệ với ngân hàng cũ. Tong Simmons giúp đỡ anh rất nhiều, và bây giờ William mới thấy tại sao Alan Lioyd lại chủ trương ủng hộ Ông ta làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot. Lần đầu tiên anh phải thừa nhận Alan đã làm đúng.

Cuộc sống của Kate ở New York chẳng mấy chốc trở thành bận rộn. Virginia đã có thể bò quanh phòng và bò cả vào thư viện của William. Richard muốn có chiếc áo gió như mọi chú bé khác ở New York. Với tư cách là vợ của một chủ tịch ngân hàng ở New York, Kate phải thường xuyên tổ chức nhiều tiệc tùng chiêu đãi phải làm sao cho các giám đốc và khách hàng chủ yếu được có cơ hội gặp riêng và trao đổi với William.

Kate đã giải quyết mọi tình hình liên quan với một vẻ duyên dáng lịch sự, còn Willlam thì cũng rất cảm ơn ngân hàng Kane và Cabot đã giúp chuyển cho anh phần tài sản lớn nhất. Khi Kate báo cho William biết là chị lại sắp đẻ nữa, anh chỉ biết hỏi:

thế à, vậy mà anh không biết. Virgima thì rất thích, mặc dù không hiểu tại sao mẹ lại béo ra thế, Richard không cần biết gì hết.

Trong vòng sáu tháng, cuộc xung đột với Peter Parfitt đã trở thành chuyện quá khứ, và William thì đã làm một chủ tịch không ai chối cãi nổi của ngân hàng Lester, một nhân vật mà giới tài chính ở New York phải tính đến. Cứ ít tháng William lại xem lại tình hình và tính chuyện thay đổi hướng làm ăn để đạt mục tiêu mới. Anh đã thực hiện được tham vọng của đời mình là trở thành chủ ngân hàng Lester vào tuổi ba mươi, mặc dầu vậy anh vẫn cảm thấy còn nhiều giang sơn khác phải chiếm lĩnh, chưa thể thỏa mãn mà ngồi đó mơ mộng được.

Kate đẻ đứa con thứ ba vào cuối năm đầu tiên William làm chủ tịch Lester. Đó là một đứa con gái nữa, được đặt tên là Lucy. Virgima bây giờ đã biết đi. William dạy nó ru Lucy nằm trong nôi. Richard đã gần sáu tuổi và sắp phải vào trường tiểu học Buckley.

Chú tranh thủ dịp này đòi bố mua cho chiếc gậy dã cầu mới. Lucy đã biết nắm được vào tay bố.

Trong năm đầu William làm chủ tịch, lợi nhuận của ngân hàng Lester đã tăng lên chút ít. Anh dự đoán năm thứ hai sẽ thu được nhiều hơn.

Ngày 1 tháng Chín năm 1939, Hitler tiến quân vào Ba lan.

Một trong những phản ứng đầu tiên của William là nghĩ đến Abel Rosnovski và khách sạn Nam tước mới của ông ta trên Đại lộ công viên, lúc này đã rất nổi tiếng ở New York. Báo cáo hàng quý của Thomas Cohen gửi đến cho thấy Rosnovski ngày càng mạnh lên, tuy cái ý muốn mở rộng cơ nghiệp sang châu âu lúc này có thể hãy tạm đình lại đã. Cohen vẫn chưa tìm ra mối quan hệ trực tiếp nào giữa Henry osbome với Abel Rosnovski, tuy ông phải thừa nhận rằng càng ngày càng khó có thể khẳng định được những gì William yêu cầu.

Wilham chưa bao giờ nghĩ rằng nước Mỹ sẽ dính líu đến một cuộc chiến tranh nữa ở châu âu, nhưng anh vẫn để ngỏ chi nhánh ngân hàng Lester ở Lon don để tỏ cho thấy anh đứng về phía nào, và anh cũng không hề nghĩ đến chuyện bán mười hai nghìn mẫu đất ở Hampshire và Lincolnshire. Trái lại, từ Boston, Tony Simmons báo cho William biết ông có ý muốn đóng cửa chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London. William lấy cớ vì có những vấn đề do chiến tranh gây ra ở London nên cần trở về Boston gặp Tony.

Hai ông chủ tịch bây giờ gặp nhau rất thân mật và thoải mái vì họ chẳng còn có lý do gì mà đối chọi nhau nữa. Thực ra, họ đều muốn tranh thủ lẫn nhau để có được những cơ hội làm ăn mới. Như Tony đã dự đoán trước, ngân hàng Kane và Cabot đã mất đi một số khách hàng quan trọng từ khi Wiìliam làm chủ tịch Lester. Tuy nhiên, William bao giờ cũng báo cho Tony biết mỗi khi có một khách hàng cũ muốn chuyển tài khoản, mà anh thì anh không mong như vậy. Ngồi ăn với nhau ở một cái bàn góc phòng nhà hàng Locke- ober, Tony Simmons lại nhắc lại ý kiến của ông ta muốn đóng cửa chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London.

- Lý do của tôi rất đơn giản, - Ông ta nhấp rượu và nói.

thứ rượu nho nhập từ Pháp rất ngon nhưng ông không tỏ vẻ quan tâm gì đến chuyện những gót giầy của quân Đức sắp sửa giẫm nát các vườn nho trên đất Pháp. - Tôi nghĩ ngân hàng sẽ mất thêm tiền nếu chúng ta không rút ra khỏi Anh.

Tất nhiên, ông sẽ mất đi một ít tiền đấy, Wilham nói, - Nhưng chúng ta phải ủng hộ người Anh.

- Sao thế - Tony hỏi. - Chúng ta làm ngân hàng, chứ có phải là câu lạc bộ những người đi ủng hộ đâu.

- Nước Anh không phải là một đội dã cầu, Tony ạ. Đó là cả một quốc gia dân tộc mà tất cả di sản chúng ta có được là nhờ ở họ....

- Giá anh làm chính trị thì đúng hơn, - Tony nói. - Tài năng của anh bị phí phạm vào ngân hàng mất rồi.

Tuy nhiên, còn có một lý do quan trọng hơn nữa để chúng tôi phải đóng cửa chi nhánh ngân hàng. Nếu Hitler tiến quân vào Anh như đã tiến quân vào Ba lan và vào Pháp - Mà tôi chắc chắn là y sẽ làm như vậy thì ngân hàng sẽ bị chiếm ngay và chúng tôi sẽ không còn một xu nào ở London nữa.

- Nó không dám đâu, - William nói. - Nếu Hitler chỉ đặt một chân lên đất Anh thôi là Mỹ sẽ nhẩy vào chiến tranh liền.

Không bao giờ, - Tony nói. - FDR đã.tuyên bố ủng hộ mọi thứ trừ chiến tranh. Và dân Mỹ sẽ làm ầm lên cho mà coi.

- Ông đừng có nghe các nhà chính trị, - William nói. - Nhất là Roosevelt. Khi ông ta nói "không bao giờ' thì điều đó chỉ có nghĩa không phải là hôm nay, hoặc ít nhất không phải là sáng nay. Ông chỉ cần nhớ lại xem năm 1916 Wilson đã nói gì thôi.

- Bao giờ thì anh ra ứng cử vào Thượng viện? - Tony cười.

- Đó là câu hỏi mà tôi có thể trả lời chắc chắn là không bao giờ.

Tôi tôn trọng những tình cảm của anh, William, nhưng tôi muốn rút.

ông là chủ tịch, - William đáp. - Nếu ban giám đốc ủng hộ Ông, ông có thể đóng cửa chi nhánh Loi don ngay ngày mai, và tôi sẽ không bao giờ dùng địa vị của mình để chống lại đa số.

- Đến khi nào anh nhập hai ngân hàng lại với nhau thì nó sẽ thành quyết định của anh.

Tôi đã nói với ông rồi, Tony, khi nào ông còn là chủ tịch thì tôi sẽ không bao giờ có ý định làm thế.

Nhưng tôi nghĩ là chúng ta phải sáp nhập thôi.

Sao? - William làm bắn cả rượu nho ra khăn bàn vì anh không tin điều mình vừa nghe nói. - Trời đất ơi Tony, ông thật là người không ai có thể đoán trước được - Tất nhiên, tôi vẫn để lợi ích của ngân hàng lên trên hết, William. Anh thử nghĩ về tình hình hiện nay xem. Bây giờ New York là trung tâm tài chính của Mỹ hơn lúc nào hết, và nếu Anh rơi vào tay Hitler thì nó sẽ thành trung tâm tài chính của thế giới, mà Kane và Cabot thì phải cần vươn đến chỗ đó. Hơn nữa, nếu chúng ta sáp nhập lại với nhau thì có thể tạo ra được một thể chế hoàn chỉnh hơi, và những hiểu biết về chuyên môn của chúng ta sẽ bổ sung cho nhau. Kane và Cabot xưa nay vẫn làm nhiều về mặt hàng hải và công nghiệp nặng, trong khi đó Lester làm rất ít.

Ngược lại bên anh làm nhiều về cổ phiếu mà chúng tôi thì lại hầu như không đụng gì đến nó. Đó là chưa nói đến chuyện chúng ta có nhiều cơ quan không cần thiết ở các thành phố khác nữa.

- Tony, tôi đồng ý với tất cả những gì ông vừa nói, nhưng tôi vẫn muốn ở lại Anh.

Lại càng chứng minh điều tôi nói là đúng, William. Chi nhánh Kane và Cabot ở London sẽ đóng cửa, nhưng chúng ta vẫn còn giữ Lester. Như vậy nếu London gặp khó khăn gì thì cũng không ngại lắm, vì chúng ta đã được củng cố mạnh hơn rồi.

Nhưng ông sẽ thấy thế nào nếu tôi nói rằng trong khi Roosevelt có quy định về ngân hàng thương mại chỉ được hoạt động trên phạm vi một bang, như vậy nếu sáp nhập thì chỉ được hoạt động ở New York thôi, bấy giờ Boston chỉ còn là một bàn giấy hình thức thì sao nhỉ?

- Tôi sẽ ủng hộ anh, - Tony nói. - Anh có thể tính đến đi vào ngân hàng thương mại và bỏ quách hoạt động đầu tư đi.

Không đâu, Tony. Với FDR thì một người lương thiện không thể làm cả hai thứ một lúc được. Vả lại, bố tôi đã từng bảo hoặc là anh phục vụ cho một số ít người giàu hoặc anh phục vụ cho số đông người nghèo, không thể làm cho cả hai được, vì vậy Lester vẫn cứ tiếp tục là ngân hàng thương mại theo truyền thống của nó chừng nào tôi còn làm chủ tịch. Nhưng nếu chúng ta quyết định sáp nhập hai ngân hàng thì ông có thấy vấn đề gì khó khăn sẽ nảy sinh không ?

- Hai bên cùng có thiện chí thì chả có khó khăn nào không vượt qua được. Nhưng anh cũng nêu suy nghĩ kỹ về hậu quả của nó nhé, William, vì như vậy anh sẽ chỉ là một cổ đông thiểu số trong ngân hàng mới nên không còn kiểm soát được toàn bộ nữa, và anh sẽ dễ bị thao túng đấy.

- Tôi chỉ sợ lại phải làm chủ tịch của một trong những thể chế tài chính lớn nhất của nước Mỹ thôi.

Tối hôm đó William trở lại New York, trong lòng phấn khởi sau cuộc bàn luận với Tony. Anh triệu tập cuộc họp ban giám đốc Lester để trình bày cho họ nghe về đề nghị của Tony Simmons. Sau khi ban giám đốc chấp thuận về nguyên tắc việc sáp nhập, anh yêu cầu các giám đốc ngân hàng hãy xét kỹ thêm về chi tiết toàn bộ kế hoạch ấy.

Trưởng các bộ phận mất ba tháng mới trình bày lại được cho ban giám đốc và ai cũng đều đi đến kết luận giống nhau là việc sáp nhập chẳng qua chỉ là chuyện bình thường, vì hai ngân hàng có thể bổ sung cho nhau về nhiều mặt. Với nhiều văn phòng trên khắp đất Mỹ và các chi nhánh ở châu âu, hai ngân hàng có nhiều điểm có thể bồ trợ cho nhau được. Hơn nữa, chủ tịch ngân hàng Lester vẫn còn 51 phần trăm cổ phiếu trong Kane và Cabot nên việc sáp nhập càng tiện lợi.

Một số giám đốc của Lester không hiểu tại sao trước đây William không nghĩ đến điều đó. Ted Leach cho rằng có lẽ khi Charles Lester chỉ định William làm người kế vị thì ông ta đã nghĩ đến điều đó rồi.

Các chi tiết của việc sáp nhập phải mất gần một năm bàn đi tính lại mới xong, các luật gia phải làm việc đến khuya mới hoàn thành được giấy tờ. Sau khi hoán vị các cổ phiếu, hóa ra William lại là một cổ đông lớn nhất với 8 phần trăm tổng số tài khoản trong công ty mới, và lại được bầu làm chủ tịch và thống đốc ngân hàng. Tony Simmons ở lại Boston làm phó chủ tịch và Ted Leach ở New York làm một phó chủ tịch khác. Ngân hàng thương mại mới được đặt tên lại là Lester, Kane và Công ty tuy người ta vẫn chỉ gọi đó là Lester thôi.

William quyết định tổ chức một cuộc họp báo ở New York để công bố việc sáp nhập hai ngân hàng. Anh chọn ngày thứ hai, mùng 8 tháng Chạp, năm 1941, để thông báo cho thế giới tài chính nói chung. Cuộc họp báo phải hủy bỏ vì sáng hôm trước, quân Nhật đã tiến công Trân Châu Cảng.

Thông báo được chuẩn bị trước đã gửi cho các báo rồi, nhưng các trang báo tài chính sáng ngày thứ ba chỉ đăng việc sáp nhập vào một chỗ nhỏ thôi, khiến William không lấy gì làm thích lắm.

Anh chưa tính được đến lúc nào anh sẽ nói với vợ về chuyện anh ghi tên vào quân đội, và nói như thế nào. Khi Kate được tin đó, chị hoảng hồn lo sợ và lập tức bảo anh rút lại quyết định ấy đi.

- Cái mà hàng triệu người khác không làm được thì anh tưởng anh làm được ư - Chị hỏi.

- Anh cũng không chắc, - William nói. - Nhưng có thể tin chắc được một điều là anh phải làm điều gì mà bố anh và ông nội anh trong trường hợp này đều phải làm rồi.

- Các cụ làm là vì lợi ích của ngân hàng chứ.

Không, - William nói. - Các cụ đã làm vì lợi ích cao nhất của nước Mỹ.
 
Hai Số Phận - Chương 18
Albel đang chú ý xem một mẩu tin nói về ngân hàng Lester, Kane và Công ty trong trang tài chính của tờ Diễn đàn Chicago.

Phần lớn trên trang báo là những bài dự đoán về hậu quả của việc Nhật tiến công vào Trân Châu Cảng Giá như mẩu tin ngắn kia không kèm theo một bức ảnh nhỏ chụp William Kane từ xưa, tức là hồi Abel đến gặp anh ta ở Boston cách đây hơn mười năm, thì có lẽ Abel cũng bỏ qua không để ý đến. Rõ ràng trong tấm ảnh này Kane còn quá trẻ, không tương xứng với nội dung tin mô tả anh ta như một chủ tịch xuất sắc của ngân hàng Lester, Kane và Công ty mới thành lập Trong bài còn dự đoán:

Ngân hàng mới này, sáp nhập Lester ở New York với Kane và Cabot ở Boston là hai ngân hàng đã có lịch sử lâu đời, rất có thể sẽ trở thành một trong những thể chế tài chính quan trọng nhất ở Mỹ. Theo bán báo cáo được biết, chứng khoán sẽ nằm cả trong tay khoảng hai chục người có liên quan hoặc có dính dáng chặt chẽ với hai gia đình nói trên.

Abel lấy làm hài lòng với mẩu tin này. Anh tin chắc là bây giờ Kane không còn kiểm soát được toàn bộ. Anh đọc lại mẩu tin. Vậy là từ hồi hai người so kiếm với nhau đến giờ, William Kane rõ ràng đã leo cao hơn nữa rồi. Nhưng Abel đâu có kém. Và bây giờ anh biết là mình còn món nợ cũ phải thanh toán với con người mới làm chủ tịch ngân hàng Lester này đã.

Trong hơn mười năm qua, Công ty Nam tước đã làm ăn rất khám khá. Abel đã trả xong các khoản tiền vay của người ủng hộ mình trước đây, thực hiện đúng những điều đã ký kết, tức là chỉ trong mười năm trả hết nợ và hoàn toàn làm chủ các tài sản của công ty.

Vào cuối quý của năm 1939, không những Abel đã trả hết nợ mà lợi nhuận của năm 1940 xem ra còn vượt cả mức dự kiến đến hơn nửa triệu đô la. Thành tích này trùng hợp với việc mở thêm hai khách sạn Nam tước, một ở Washington và một ở San Francisco.

Mặc dầu trong thời kỳ này Abel không còn là một anh chồng tận tụy như trước, mà phần lớn là do Zaphia không thích đuổi theo những tham vọng của chồng, nhưng anh vẫn rất nâng niu cô con gái của mình. Zaphia muốn có đứa con thú hai để đỡ cám thấy quá rảnh rỗi, đã giục anh cứ thử đi khám bác sĩ xem sao. Nhưng đến khi Abel được cho biết là tinh trùng của anh quá yếu, có lẽ do ốm đau và ăn uống quá kham khổ từ hồi bị quân Đức và quân Nga chiếm đóng trước kia, anh đành coi chỉ có Florentyna là đứa con duy nhất, từ bỏ hy vọng có thêm con trai và từ nay dành hết mọi thứ cho cô con gái vậy.

Danh tiếng của Abel bây giờ đã lan ra khắp nước Mỹ. Báo chí thường chỉ nhắc đến tên anh như "Nam tước Chicago" thôi. Anh không còn bận tâm đến những lời chế giễu sau lưng. Bây giờ Wladek Koskiewicz đã thành đạt, và điều quan trọng là anh sẽ đứng vững với sự nghiệp ở đây. Lợi nhuận của mười ba khách sạn trong năm tài chính vừa qua đã suýt soát một triệu đô la, nếu cộng với vốn cũ dôi ra nữa là bây giờ anh có thể quyết định về một chính sách bành trướng được rồi.

Bất ngờ, Nhật tiến công Trân Châu Cảng.

Kể từ ngày 1 tháng 9 khủng khiếp của năm 1939 khi quân đội Quốc xã tiến đánh Ba lan rồi sau đó chạm trán với quân Nga ở Brest Litovsk và một lần nữa đất nước của anh lại bị chia cắt, Abel đã gửi rất nhiều tiền cho Hội Chữ thập đỏ Anh để cứu trợ quê hương. Anh đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt cả với đảng Dân chủ và với báo chí, để đẩy nước Mỹ lừng khừng phải tham gia vào cuộc chiến, dù cho sau đó họ có đứng về phía quân Nga đi nữa. Nhưng mọi cố gắng của anh cho đến lúc này đều vô hiệu. Rồi vào cái ngày chủ nhật của tháng Chạp ấy, với các trạm đài ở khắp nước đều tường thuật ầm ĩ về cuộc tiến công bất ngờ của Nhật, Abel biết chắc là đến bây giờ thì Mỹ phải nhảy vào cuộc chiến rồi. Ngày 11 tháng Chạp, anh nghe Tổng thống Roosevelt thông báo với quốc dân rằng Đức và Ý đã tuyên chiến với Mỹ. Abel rất muốn vào quân đội đi chiến đấu. Nhưng trước hết anh phải có lời tuyên bố chiến tranh riêng của mình đã, vì vậy anh gọi đến cho Curtis Fenton ở Ngân hàng Continental. Nhiều năm qua, Abel đã dần dần tin ở những điều dự đoán của Fenton, và bây giờ anh vẫn còn giữ ông ta trong ban giám đốc của Công ty Nam tước mặc dầu tự anh đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình. Anh làm như vậy đề duy trì mối quan hệ chặt giữa Công ty Nam tước với Ngân hàng Continental mà thôi.

Curtis Fenton ra nghe máy, giọng nói vẫn rất lễ độ.

- Nhờ ông xem giùm tiền dự trữ của công ty ngoài tài khoản là bao nhiêu, - Abel nói.

Curtis Fenton lấy ra một hồ sơ ngoài bìa đề "Tài khoản số 6". Trước nay ông vẫn đề tất cả những gì liên quan đến Rosnovski vào cùng một hồ sơ. Ông liếc nhìn qua vài con số.

Khoảng dưới hai triệu đô- la, - Ông nói.

Tốt, Abel nói. - Tôi muốn ông xem giùm cái ngân hàng mới thành lập có tên là Lester, Kane và Công ty ông tìm giúp tên tuổi từng cổ đông trong đó, xem mỗi cổ đông chiếm tỷ lệ bao nhiêu và xem họ muốn bán những cổ phiếu ấy không. Nhưng ông không được để cho chủ tịch ngân hàng là William Kane được biết chuyện này, và cũng không nhắc gì đến tên tôi cả.

Curtis Fenton nín thở, không nói gì. Ông tỏ ra rất ngạc nhiên. May mà nói chuyện điện thoại nên Abel Rosnovski không thấy được vẻ mặt của ông. Tại sao Abel Rosnovski lại muốn đổ tiền vào đây, và chuyện đó liên quan gì đến William Kane? Fenton cũng đã đọc Nhật báo phố Wall có bài nói về việc sáp nhập hai ngân hàng tư nhân nổi tiếng đó rồi. Ông đang còn lo về chuyện Trân Châu Cảng và việc vợ Ông nhức đầu, giá như Ronovski không gọi điện thoại yêu cầu về chuyện này thì ông đã quên khuấy đi mất, lẽ ra phải có bức điện mừng gửi cho William Kane rồi. Ông lấy bút chỉ ghi vài chữ vào dưới hồ sơ Công ty Nam tước trong khi vẫn nghe Abel dặn.

- Sau khi ông đã có đủ các chi tiết rồi, tôi muốn được ông thông báo lại bằng miệng chứ không nên viết trên giấy.

- Vâng, thưa ông Rosnovski.

Hẳn là giữa hai người này có chuyện gì với nhau rồi, Curtis Fenton nghĩ bụng. Nhưng mình cũng chẳng cần biết làm gì.

Abel nói tiếp :

- Tôi cũng muốn được ông thêm vào báo cáo hàng quý những chi tiết về tất cả những gì ngân hàng Lester công bố, và cả những công ty liên quan đến họ nữa.

Tất nhiên rồi, ông Rosnovski.

- Xin cảm ơn ông, ông Fenton. Nhân đây tôi xin nói để ông biết bộ phận nghiên cứu thị trường của tôi có khuyên tôi nên mở thêm một khách sạn Nam tước ở Montreal.

ông không lo là có chiến tranh sao, ông Rosnovski?

- Trời ơi, việc gì phải lo. Nếu bọn Đức đến được Montreal thì ai cũng phải đóng cửa hết, kể cả ngân hàng Continental của ông. Dù sao, lần trước chúng ta đã đánh bại bọn khốn kiếp ấy rồi, lần này tất nhiên sẽ đánh bại nữa. Chỉ có điều khác là lần này thì tôi có thể tham gia hành động được. Thôi chào ông, ông Fenton.

Mình chẳng hiểu được đầu óc Abel Rosnovski đang nghĩ gì, Curtis Fenton bỏ máy xuống tự hỏi. Ông chợt nghĩ về những yêu cầu của Abel với chi tiết các chứng khoán trong ngân hàng Lester. Điều này khiến ông lo ngại. Mặc dầu William Kane không còn gì liên quan đến Rosnovski nữa, nhưng Fenton vẫn sợ rằng nếu khách hàng của mình nắm giữ được tình hình cổ phiếu của ngân hàng Lester thì không biết rồi sẽ ra sao? ông quyết định không nói cho Rosnovski biết về nỗi lo ngại đó của mình. Ông tính rồi thế nào cũng có ngày một trong hai người đó sẽ giải thích cho ông biết là họ đang tính toán chuyện gì.

Abel cũng nghĩ không biết mình có nên nói cho Curtis Fenton biết tại sao mua chứng khoán của Lester không. Nhưng rồi anh nghĩ càng ít người biết về kế hoạch của mình càng tốt.

Anh tạm gạt bỏ William Kane sang một bên, không nghĩ đến nữa. Anh bảo thư ký đi tìm George, mới đây cũng được cử làm phó chủ tịch công ty Nam tước. Anh ta đã cùng khấm khá lên với Abel và hiện nay là người được Abel tin cậy nhất. Ngồi trong phòng làm việc trên tầng thứ bốn mươi hai của khách sạn Nam tước Chicago, Abel nhìn xuống hồ Michigan, nơi được người ta mệnh danh là Bờ biển Vàng. Lúc này đầu óc anh đang nghĩ về đất nước Ba lan. Anh tự hỏi không biết mình sẽ còn sống được để thấy lại tòa lâu đài nữa không. Abel biết sẽ không bao giờ còn về sống ở Ba lan được nữa, nhưng vẫn muốn tòa lâu đài ấy được trả về cho mình. Cái ý nghĩ về quân Đức hoặc quân Nga lại một lần nữa chiếm đóng quê hương tươi đẹp của mình khiến anh muốn... Đang nghĩ thế thì George bước vào.

- Muốn tìm tôi ư, Abel?

George là người duy nhất trong công ty dám gọi Nam tước Chicago bằng tên tục.

Ừ, Liệu anh có thể quản được tất cả các khách sạn trong ít tháng nếu tôi phải đi vắng xa không - Được chứ, - George nói. - Sao, anh đi nghỉ à?

- Không, - Abel đáp. Ra trận.

- Sao? - George hỏi. - Sao?

- Sáng mai tôi đi New York đăng lính.

- Anh điên à? Có thể chết đấy - Chết sao được, - Abel đáp. - Nhưng mình sẽ phải giết mấy tên Đức. Bọn khốn kiếp ấy trước kia đã không tóm được mình thì lần này cũng chẳng tóm được đâu George vẫn phản đối. Anh ta bảo không có Abel thì nước Mỹ vẫn chiến thắng được. Zaphia cũng phản đối.

Cứ nói đến chiến tranh là chị ta ghét rồi. Florentyna, lúc này đã gần tám tuổi, không hiểu chiến tranh là thế nào, nhưng biết lần này bố đi xa và đi lâu Lên cô bé khóc váng lên.

Mặc dầu nhiều người phản đối, Abel vẫn nhảy lên chuyến máy bay đầu tiên đi New York vào ngày hôm sau. Cả nước Mỹ như đang kéo nhau đi khắp ngả.

Anh đến thành phố chỉ thấy toàn những thanh niên mặc quần áo ka- ki màu xanh nước biển đang từ biệt cha mẹ vợ con và người yêu. Ai cũng nói với nhau - Tuy trong bụng không tin - Rằng chiến tranh chỉ trong mấy tuần nữa là kết thúc.

Abel đến khách sạn Nam tước New York vừa gặp lúc ăn tối. Phòng ăn đầy chặt những thanh niên. Các cô gái bíu chặt lấy những chàng trai, hoặc là lính bộ, lính thủy, hoặc là không quân, trong khi đó vang lên tiếng hát của Frank Sinatra và kèn trống của dàn nhạc Tommy Dorsey. Abel nhìn những người trẻ tuổi trên sàn nhẩy ấy, trong bụng nghĩ không biết trong số họ sẽ còn bao nhiêu người được dịp hưởng một tối vui như thế này nữa. Anh không thể không nhớ đến lời giải thích của Sammy trước đây khi ông ta trở thành người phụ trách nhà ăn ở khách sạn Plaza như thế nào. Ba người đi trước ông ta từ mặt trận phía Tây trở về mỗi người chỉ còn một chân. Trong lớp người trẻ tuổi đang nhảy ở đây, không ai hiểu được chiến tranh thực sự là thế nào. Anh không thể nào cùng chia vui với họ được. Anh trở về phòng.

Sáng hôm sau anh mặc vào người một bộ đồ sẫm và đi xuống phòng tuyển quân ở Quảng trường Thời đại Anh đã phải xuống New York đê đăng linh vì sợ Ở Chicago sẽ có người nhận ra anh mà không cho. Ở đây còn đông người hơn cả ở sàn nhảy đêm trước, nhưng không có ai bíu lấy ai cả. Anh không thể không nhận thấy mọi người khác đều có vẻ khỏe mạnh hơn anh nhiều. Gần hết buổi sáng Abel mới được đưa cho một tờ khai. Anh nghĩ bụng việc này nếu là ở chỗ mình thì chỉ mất mấy phút. Rồi sau đó anh lại phải xếp hàng hơn hai tiếng đồng hồ nữa, chờ đến lượt một viên thượng sĩ hỏi anh làm nghề gì:

- Quản lý khách sạn, - Abel nói, rồi liền đó kể cho ông ta nghe kinh nghiệm anh đã trải qua trong cuộc chiến tranh lần trước. Viên thượng sĩ yên lặng nghe một anh chàng vừa béo vừa lùn đứng trước mặt mình nói những điều ông ta không tin được. Giá như Abel xưng mình là Nam tước Chicago thì có thể ông kia không nghi ngờ gì lắm về chuyện tù tội và bỏ trốn của anh.

Nhưng Abel lại không nói gì về điều đó, vì anh không muốn được ưu đãi gì hết.

Sáng mai anh sẽ kiểm tra sức khỏe, - Viên thượng sĩ tuyển quân chỉ nói thế sau khi Abel độc thoại một hồi. Rồi, như để nói thêm cho 'đủ phận sự, ông ta bảo:

Cảm ơn anh đã tình nguyện.

Hôm sau Abel lại phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa mới được khám sức khỏe. Bác sĩ nói thẳng là tình hình của Abel không ra gì. Từ nhiều năm nay, do địa vị và thành công của anh, không ai dám bình luận gì về con người của anh cả. Bây giờ bỗng bác sĩ liệt anh vào loại 4, tức là loại bị loại, khiến anh sửng sốt.

- Anh quá cân, mắt kém và lại thọt Nói thật nhé, Rosnovski, anh không thể vào quân đội được. Chúng tôi không thể lấy những người lính mà chưa trông thấy địch đã có thể bị đau tim rồi. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng- Tôi không thể dùng đến những năng lực của anh, nếu anh quan tâm thì có rất nhiều những việc liên quan đến giấy tờ để làm trong chiến tranh đấy.

Abel chỉ muốn đấm cho ông ta một cái, nhưng anh biết làm thế cũng chả được vào lính.

- Không cảm ơn ông, - Anh nói. - Tôi muốn chiến đấu chống bọn Đức chứ không phải là viết thư cho chúng.

Anh thất vọng quay trở về khách sạn, nhưng rồi đến tối anh lại nghĩ mình vẫn còn có cơ hội. Hôm sau, anh đến một trạm tuyển quân khác, nhưng kết quả vẫn như trước và lại quay về khách sạn. Ông bác sĩ khác có lễ độ hơn một chút, nhưng ông ta vẫn kiên quyết như bác sĩ trước vậy, và Abel lại bị liệt xuống loại 4. Abel thấy rõ nếu cứ trong tình trạng sức khỏe như hiện nay thì người ta chẳng cho anh đi chiến đấu chống bất cứ ai.

Sáng hôm sau, anh tìm đến một nhà thể dục ở phía Tây đường 57, thuê một huấn luyện viên làm như thế nào đó để thay đổi được tình trạng sức khỏe của anh.

Ba tháng liền, anh tập luyện đủ các môn, đánh bốc, đánh vật, chạy, nhảy, cử tạ, và cả nhịn đói nữa. Đến một lúc, huấn luyện viên bảo anh là không thể nào khỏe hơn và gầy hơn thế được nữa. Abel trở lại phòng tuyển quân làm lại bản khai dưới cái tên Wladek Koskiewicz. Lần này là một viên thượng sĩ khác có vẻ hy vọng hơn, còn bác sĩ khám thì thử đi thử lại nhiều lần, cuối cùng cho anh vào danh sách dự bị, chờ khi nào cần sẽ gọi.

- Nhưng tôi muốn ra trận ngay bây giờ, - Abel nói.- Tôi muốn diệt cái bọn khốn kiếp ấy.

- Chúng tôi sẽ liên hệ với anh, Koskiewicz, - Viên thượng sĩ nói. - Anh hãy giữ sức khỏe cho đầy đủ, sẵn sàng. Chưa thể biết lúc nào chúng tôi sẽ cần đến anh.

Abel bực mình bỏ ra ngoài. Anh nhìn nhiều người Mỹ khác trẻ hơn, gầy hơn, đang được nhận vào lính ngay. Anh đang bước qua cửa chưa biết sẽ làm gì tiếp thì đụng ngay phải một người cao lớn dữ tợn mặc quân phục và trên vai có nhiều sao.

- Tôi xin lỗi, Abel nhìn lên nói và lùi lại.

- Này anh, - Ông tướng nói.

Abel vẫn cứ đi, nghĩ bụng không phải ông ta nói với mình, vả lại chả có ai còn gọi mình như thế nữa, mặc dầu đến bây giờ anh cũng chỉ mới ba mươi lăm tuổi ông tướng kia lại gọi.

Này anh, - Ông ta nói to hơn Lần này Abel quay lại.

- Tôi à? - Anh hỏi.

- Phải, anh.

Abel bước đến chỗ ông tướng.

- Xin mời ông đến chỗ tôi, ông Rosnovski.
 
Chết cha, Abel nghĩ bụng. Ông ta biết mình là ai rồi, thế là bây giờ không ai cho mình ra trận nữa.

Phòng làm việc tạm thời của ông tướng đó ở ngay sau ngôi nhà. Đó chỉ là một căn phòng nhỏ có chiếc bàn với hai ghế gỗ, tường sơn xanh đã tróc đi một ít và cửa luôn luôn để mở. Đến một nhân viên xoàng nhất của khách sạn Nam tước anh cũng không để cho phải ngồi làm việc trong một căn phòng như thế này được.

- Ông Rosnovski, - Ông tướng nói bằng một giọng sang sảng, - Tôi là Mark Clark, chỉ huy quân đoàn 5 của Mỹ. Tôi ở đảo Govemon vừa về đây một ngày để kiểm tra tình hình, bỗng thế nào lại gặp ông ở đây, thật là thú vị. Từ lâu tôi vẫn khâm phục ông lắm.

Chuyện của ông làm bất cứ người Mỹ nào cũng phải lấy làm hài lòng. Xin cho biết, ông ở trạm tuyển quân này làm gì thế?

Thế ông tưởng tôi làm gì? - Abel nói. - Tôi xin lỗi, tôi thật là vô lễ, nhưng không có ai nhận cho tôi tham gia làm gì trong cuộc chiến tranh khốn kiếp này cả.

- Thế ông muốn làm gì trong cuộc chiến tranh khốn kiếp này? - Viên tướng hỏi.

- Vào quân đội và đi đánh bọn Đức.

- Làm lính bộ binh ư? - Viên tướng không tin hỏi lại - Vâng, - Abel đáp. - Ông chả cần đến từng người một đó sao?

- Tất nhiên rồi, - Viên tướng nói. - Nhưng tôi có thể dùng tài năng đặc biệt của ông vào những việc tốt hơn là lính bộ binh nhiều chứ.

- Tôi sẽ làm bất cứ gì, - Abel nói. - Bất cứ gì.

ông có làm ngay bây giờ được không? - Viên tướng nói. - Và bất cứ gì chứ Nếu như tôi yêu cầu ông nhường khách sạn ở New York cho quân đội dùng làm sở chỉ huy ở đây, thì ông nghĩ sao? Vì, nói thật với ông, ông Rosnovski ạ, như vậy còn có ích cho chúng tôi nhiều hơn là đích thân ông giết được hơn chục thằng Đức.

- Cho ông toàn quyền dùng khách sạn Nam tước, - Abel nói. - Vậy bây giờ ông có cho tôi ra trận không ?

- Thế là ông điên đấy, ông biết không? - Tướng Clark nói.

- Tôi là người Ba lan, - Abel nói, và hai người cùng cười Abel nói tiếp bằng một giọng nghiêm túc. - Ông nên biết tôi sinh ra gần Slonim, ở Ba lan. Tôi đã chứng kiến bọn Đức đến chiếm nhà tôi, bọn Nga hiếp chị tôi. Sau đó tôi trốn khỏi được trại khổ sai của Nga và may mắn mà chạy sang được đến Mỹ. Tôi có điên đâu Đây là đất nước duy nhất trên thế giới anh có thể đến mà trong tay không có gì và trở thành triệu phú nếu chịu làm việc vất vả, không kể quá khứ của anh là thế nào. Bây giờ bọn khốn kiếp ấy lại muốn một cuộc chiến tranh nữa. Tôi đâu có điên, hả ông. Tôi rất con người đấy chứ.

- Thôi được, nếu ông rất muốn vào quân đội, ông Rosnovski, thì tới có thể sử dụng ông được, nhưng không phải theo cách như ông nghĩ. Tướng Demers đang cần có người đứng phụ trách hậu cần cho quân đoàn 5 trong khi họ chiến đấu ngoài tiền tuyến. Nếu ông tin rằng điều Napoleon nói là đúng khi ông ta bảo quân đội hành quân bằng cái dạ dày của mình, thì ông có thể đóng một vai trò quyết định đấy. Công việc này cần một người ở cấp thiếu tá. Đó là một cách ông có thể giúp nước Mỹ thắng cuộc chiến tranh này được.

ông thấy sao nào?

- Tôi sẽ làm việc đó, thưa ông..

- Cảm ơn ông Rosnovski.

Viên tướng bấm một nút chuông trên bàn. Một viên trung uý trẻ bước vào đứng nghiêm chào.

- Trung uý, anh đưa Thiếu tá Rosnovski đến phòng nhân sự rồi lại đưa ông trở lại đây nhé.

- Thưa vâng. - Viên trung úy quay sang Abel. - Xin mời Thiếu tá đi lối này.

Abel bước theo anh ta và quay lại nói:

Cảm ơn Ngài.

Cuối tuần, Abel về Chicago với Zaphia và Florentyna.

Zaphia hỏi anh bây giờ chị biết làm thế nào với mười lăm bộ quần áo của anh đây.

Thì cứ để đấy, - Anh đáp và không hiểu tại sao chị lại hỏi thế. - Anh có ra trận để chết đâu.

- Chắc là anh không chết rồi, Abel, - Chị nói. - Em không lo điều đó. Chỉ có cái là tất cả những quần áo đó bây giờ đều quá rộng đối với anh rồi.

Abel cười và đem tất cả những quần áo ấy đến cho trung tâm tị nạn người Ba lan. Rồi anh quay lại New York, đến khách sạn Nam tước, hủy bỏ danh sách những khách đặt phòng, và mười hai ngày sau giao lại tòa nhà cho Quân đoàn 5. Báo chí ca tụng quyết định của Abel như một cử chỉ quên mình của một người đã từng là dân tị nạn trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Lại mất ba tháng nữa Abel mới được gọi ra làm việc thường trực. Trước đó anh giúp cho Tướng Clark điều khiển các hoạt động trong khách sạn Nam tước New York. Rồi anh đến doanh trại Benning trình diện và học một lớp huấn luyện sĩ quan. Cuối cùng khi nhận được lệnh đến với Tướng Denness của Quân đoàn 5, anh mới biết là mình phải sang Bắc Phi. Anh nghĩ bụng không biết bao giờ mới sang đến Đức.

Trước ngày lên đường ra nước ngoài, anh thảo một chúc thư dặn lại những người thừa hành nhường toàn bộ Công ty Nam tước cho David Maxton với giá rẻ nếu anh bị chết trong chiến tranh, tài sản còn lại chia cho Zaphia và Florentyna. Đây là lần đầu tiên từ gần hai mươi năm nay anh nghĩ đến cái chết, mặc dầu anh nghĩ là nếu mình cứ ở hậu cần trung đoàn thì làm sao chết được.

Trong khi con tàu chở quân rời cảng New York, Abel ngắm nhìn bức tượng Thần Tự Do. Anh rất nhớ cái cảm giác của mình lần đầu trông thấy pho tượng ấy gần hai mươi năm trước đây. Tàu đi qua tượng đài rồi, anh không quay lại nhìn nữa mà nói to lên một mình:

Sẽ gặp lại cô nàng Pháp nhé, sau khi Mỹ đã thắng cuộc chiến tranh này rồi.

Tàu qua Đại Tây Dương. Abel đem theo mình hai người bếp trưởng với năm nhân viên khác cũng đã vào quân đội lượt này. Tàu dừng lại ở Algiers ngày 1 tháng 2 năm 1943. Abel phải sống gần một năm trong nắng nóng và cát bụi cua sa mạc, đảm bảo cho mọi người trong sư đoàn được ăn uống tử tế.

- Chúng ta ăn xoàng thôi, nhưng còn hơn bất cứ ai khác, - Tướng Clark bình thản.

Abel giành một khách sạn duy nhất tốt ở Algiers và biến nó thành sở chỉ huy của tướng Clark. Mặc dầu Abel có thể thấy mình đang đóng một vai trò đáng kể trong chiến tranh, nhưng anh vẫn cứ ngứa ngáy muốn đi chiến đấu thực sự. Tuy nhiên, một thiếu tá phụ trách hậu cần thì chẳng bao giờ người ta cho ra trận, mà chỉ có nhiệm vụ nuôi quân thôi.

Anh viết thư về cho Zaphia và George. Xem ảnh, thấy con gái yêu quý Florentyna của anh đã lớn lên nhiều. Anh còn nhận được cả thư của Curtis Fenton thỉnh thoảng gửi đến báo cho biết Công ty Nam tước ngày càng kiếm được lãi to, và tất cả các khách sạn ở Mỹ đều luôn luôn đầy chặt vì quân đội và thường dân đi lại rất nhiều. Abel rất tiếc không có mặt ở nhà để khánh thành khách sạn mới ở Montreal, chỉ có George đại diện cho anh thôi. Đây cũng là lần đầu tiên anh vắng mặt ở một cuộc khánh thành khách sạn Nam tước nhưng George viết thư đảm bảo với anh là khách sạn mới này sẽ rất thành công. Abel nghĩ bụng như vậy là mình đã xây dựng được khá nhiều ở Mỹ.

Anh rất muốn trở về với vùng đất mà bây giờ anh đã coi như quê hương của mình rồi.

Chẳng mấy chốc anh đã thấy chán với cảnh sống ở châu Phi. Ngoài sa mạc phía Tây thỉnh thoảng có vài trận đánh nhau lẻ tẻ gì đó. Anh chỉ nghe ngươi ta về thuật lại chứ chưa tận mắt trông thấy đánh nhau bao giờ Đôi khi đưa lương thực ra tiền tuyến anh cũng có nghe thấy tiếng súng, nhưng điều đó chỉ càng làm anh tức giận thêm. Một hôm anh rất vui mừng được tin Quân đoàn 5 của Tướng Clark sẽ sang đóng ở miền Nam châu âu. Abel hy vọng đây là cơ hội sẽ được thấy lại Ba lan.

Vì quân đoàn 5 là của Mỹ nên đổ bộ vào vùng bờ biển nước Ý bằng xe lội nước. Không quân yểm hộ chiến thuật. Việc đổ bộ quân gặp phải sự chống cự khá mạnh, trước hết là ở Anzio rồi sau đó ở Monte Cassino. Tuy nhiên, chẳng có cuộc nào Abel được tham gia cả. Anh bắt đầu lo ngại rằng có thể chiến tranh chấm dứt mà mình không được đánh đấm gì hết. Anh cũng không làm cách nào để mình có thể trực tiếp chiến đấu được. Anh được phong trung tá và phái sang Lon don để chờ lệnh mới, thế là anh không còn cơ hội nào khác ra trận nữa.

Đến ngày N, cuộc đại tiến công vào châu âu bắt đầu Quân đồng minh tiến vào Pháp và giải phóng Paris ngày 25 tháng 8 năm 1944. Abel cùng đi diễn binh với lính Mỹ và lính Pháp tự do dọc Đại lộ Elysée ở phía sau tướng De Gau le được chào mừng như một anh hùng, anh để ý nhìn thành phố rất tráng lệ và xem đâu là chỗ anh có thể xây khách sạn Nam tước đầu tiên của mình trên đất Pháp được.

Quân đồng minh tiếp tục tiến qua miền Bắc nước Pháp, qua biên giới Đức và cuối cùng tiến quân về phía Berlin. Abel được điều lên quân đoàn Một dưới quyền chỉ huy của Tướng omar Bradley. Lương thực chủ yếu đem từ Anh sang. Nguồn tiếp tế địa phương hầu như không có, vì quân đồng minh hễ vào được thành phố hay thị trấn nào thì nơi đó đều đã bị quân Đức phá hết khi họ rút lui. Khi Abel đến một thành phố mới. Anh chỉ mất vài tiếng đồng hồ là có thể thu được toàn bộ lương thực còn lại cho quân của mình, trong khi các sĩ quan hậu cần khác còn tìm chưa ra.

Các sĩ quan Anh Mỹ rất sung sướng được cùng ăn với Sư đoàn thiết giáp số 9 và họ không hiểu Sư đoàn này kiếm đâu ra ? S Patton cùng đến ăn với tướng Bradley, Abel được dẫn ra giới thiệu với tướng Patton nổi tiếng, vì ông này bao giờ ra trận cũng vung tay trong khẩu súng có cán bằng ngà.

- Đây là bữa ăn ngon nhất của tôi trong suốt cuộc chiến tranh khốn kiếp này, - Patton nói.

Đến tháng hai năm 1945, Abel đã mặc quân phục được gần ba năm, và anh biết là chiến tranh sẽ chỉ trong mấy tháng nữa là kết thúc. Tướng Bradley vẫn gửi thư khen và cho anh những huân chương rất vô nghĩa để anh đeo lên ngực bộ áo mỗi ngày một rộng thùng thình. Nhưng anh chả yên tâm tí nào. Abel vẫn cứ xin tướng Bradley cho anh được tham gia chỉ một trận đánh thôi, nhưng ông không nghe.

Mặc dầu việc chở những xe lương thực ra tiền tuyến và kiểm tra việc phân phối cho quân lính là nhiệm vụ của sĩ quan dưới quyền, nhưng Abel thường tự mình lĩnh trách nhiệm ấy. Giống như việc quản lý các khách sạn, anh không bao giờ cho nhân viên dưới quyền mình biết trước sẽ làm gì và ở đâu.

Vào một ngày tháng ba, chính là do thấy có nhiều cáng phủ chăn ùn ùn khiêng về trại nên Abel muốn tự mình ra mặt trận xem thế nào. Đến một lúc không thể chịu được cái cảnh chỉ thấy có xác người chở về thôi, Abel bèn tập hợp người của mình và đích thân tổ chức một chuyến mười bốn xe lương thực ra trận.

Anh đem theo một trung uý, một thượng sĩ, hai hạ sĩ và hai mươi tám lính.

Sáng hôm đó, chuyến đi ra mặt trận mặc dầu chỉ có hai chục dặm thôi nhưng đi rất ì ạch. Abel cầm lái chiếc xe đầu - Anh có cảm tưởng như mình cũng hơi giống tướng Patton - Qua mưa to và đường rất lầy lội.

Nhiều lần anh phải cho xe tránh sang bên đường để xe cứu thương ở mặt trận về được nhanh.

Thương binh còn quan trọng hơn bụng đói. Những đám người được chở về ấy không chỉ là bị thương mà thôi, họ gần như không còn dấu hiệu gì là sống nữa.

Mỗi dặm đường bùn lầy đến gần mặt trận, Abel lại cảm thấy rõ hơn là đang có đánh nhau ác liệt ở Renmagen. Tim anh đập rộn lên, và biết là lần này anh được dính đến chiến tranh thật rồi.

Đến sở chỉ huy tiền phương, anh đã có thể nghe thấy tiếng súng của địch ở cách đó không xa. Anh dậm chân tức giận khi nhìn thấy những chiếc cáng lại tiếp tục khiêng những bạn chết và bị thương không biết từ đâu về. Abel đã chán với việc mình chẳng hiểu biết gì về chiến tranh thật sự, và chỉ khi nó đã kết thúc và đi vào lịch sử rồi mới biết. Anh nghĩ có lẽ bất cứ độc giả nào của Thời báo New York cũng đều có thể biết hơn anh về điều đó.

Abel đưa đoàn xe của mình đến một chỗ gọi là bếp dã chiến rồi dừng xe lại. Mưa vẫn nặng hạt. Anh trú mưa ở đây mà thấy xấu hổ vì cách đây chỉ vài dặm các bạn đồng ngũ không chỉ trú mưa mà còn trú bom đạn nữa kia. Anh cho gỡ một trăm thùng súp, một tấn thịt bò ướp muối, hai trăm con gà, nửa tấn bơ, ba tấn khoai và một trăm hộp đậu mỗi hộp mười cân, ngoài ra còn những suất đặc biệt cho những ai sắp ra trận hoặc ở mặt trận về. Bước vào lều làm nhà ăn, Abel chỉ thấy toàn những bàn ghế dài trống không. Anh để hai bếp trưởng ở lại chuẩn bị bữa ăn và đám lính ngồi gọt một ngàn củ khoai, còn anh đi tìm sĩ quan chỉ huy ở đây Abel đi thẳng đến lều của tướng John Leonard xem tình hình thế nào. Trên đường anh vẫn gặp những chiếc cáng khiêng lính chết và gần chết. Nếu là bình thường trông thấy những cảnh ấy không ai chịu nổi, nhưng đây là Remagen nên người bị thương là chuyện quá phổ biến. Abel vừa sắp bước vào trong lều tướng Leonard cùng người trợ lý của ông ta cũng ở trong đó ra. Ông ta vừa đi vừa nói với Abel.

Tôi làm gì được cho ông đây, Trung tá?

- Tôi đã bắt đầu chuẩn bị lương thực cho tiểu đoàn của ngài theo yêu cầu của lệnh đã phát trong đêm. Và bây giờ...

- Bây giờ ông không phải lo chuyện lương thực nữa, Trung tá. Sáng sớm nay Trung uý Bụrrows của Sư đoàn 9 phát hiện ra một chiếc cầu có đường sắt ở phía lắc Remagen chưa bị phá hoại, đó là cầu Ludendorff, tôi đã ra lệnh phải vượt qua chiếc cầu đó ngay và phải tìm mọi cách thiết lập được đầu cầu ở bên kia bờ sông. Cho đến nay, bọn Đức đã phá được mọi chiếc cầu qua sông Rhine trước khi chúng ta đến. Vì vậy không thể ngồi đó chờ ăn trưa để chúng. phá nốt chiếc cầu nàỵ.

- Đoàn 9 đã qua cầu được chưa ạ? - Abel hỏi.

- Qua rồi chứ, - Viên tướng đáp, - Nhưng sang đến bìa rừng bên kia thì họ gặp sức chống cự ghê gớm.

Những trung đội đầu tiên bị phục kích. Chỉ có Chúa mới biết chúng ta đã mất bao nhiêu người. Bây giờ thì ông hãy cất số lượng thực ấy đi, ông Trung tá, vì tôi chỉ quan tâm đến chuyện còn bao nhiêu người sống sót trở về thôi.

- Tôi có thể làm gì giúp vào đây được không - Abel hỏi.
 
Viên tư lệnh đứng lại rồi nhìn anh trung tá béo lùn một lát.

- Ông có bao nhiêu người trong tay lúc này?

- Một trung uý, một thượng sĩ, hai hạ sĩ quan, hai mươi tám lính.

Tất cả ba mươi ba người, kể cả tôi, thưa ngài.

- Tốt. Đi báo cho bệnh viện dã chiến rồi dùng người của ông mang về được bao nhiêu người bị chết với bị thương thì tuỳ.

- Tuân lệnh, - Abel nói rồi chạy một mạch về bếp dã chiến.

Phần lớn những người của anh còn đang ngồi trong góc lều hút thuốc. Không ai để ý thấy Abel bước vào trong lều.

Đứng dậy đi, đồ lười ở đâu. Chúng ta có việc khác để làm đây.

Cả ba mươi hai người vùng dậy đứng nghiêm.

Theo tôi? - Abel quát. - Mau lên?

Anh quay ngoắt người và lại chạy, lần này chạy về hướng bệnh viện dã chiến. Một bác sĩ trẻ đang nói với mười sáu người trong đội y tế. Abel và những người của anh thở hồng hộc chạy đến trước cửa lều.

- Tôi giúp gì được ông đây? - Bác sĩ hỏi.

- Không, chúng tôi hy vọng giúp ông được, - Abel đáp - Tôi có ở đây ba mươi hai người do Tướng Leonard ra lệnh đến đây giúp ông. - Đám người theo anh bây giờ mới nghe nói thế.

Bác sĩ nhìn Trung tá kinh ngạc.

- Vâng thưa ông.

- Đừng thưa ông với tôi, - Abel nói. - Chúng tôi đến đây xem có thể giúp ông được gì không.

Vâng, thưa ông, - Bác sĩ lại nói.

Bác sĩ đưa cho anh một hộp băng có dấu Chữ thập đỏ Mấy anh bếp trưởng và đám gọt khoai lúc này cầm lấy băng đeo lên tay mình trong khi tai nghe bác sĩ dặn dò. Bác sĩ cũng nói chi tiết trận chiến vừa rồi ở trong rừng bên kia cầu Ludendorff.

Đoàn 9 bị thương vong rất nặng, - Bác sĩ nói tiếp.

- Những người có chuyên môn về y tế này sẽ ở lại trong khu vực tác chiến, còn những người của ông cố gắng đưa về đây được càng nhiều người bị thương càng tốt.

Abel lấy làm mừng bây giờ được hoạt động rồi. Bác sĩ lúc này chỉ huy cả một đội bốn mươi chín người, đưa ra mười tám chiếc cáng và mỗi người được nhận một túi cứu thương. Ông ta dẫn đoàn người ô hợp đi về phía cầu Ludendorff. Abel đi theo sau ông ta chỉ cách một thước. Đi trong mưa và qua đám bùn lầy, họ lên tiếng hát, nhưng gần đến cầu họ không hát nữa.

Trước mắt họ có những chiếc cáng có người nằm trên nhưng đều là bất động. Họ lặng lẽ men theo đường tàu đi qua bên kia cầu. Bọn Đức có dùng chất nổ nhưng không phá được trụ cầu. Gần về phía rừng có tiếng súng. Abel thấy xúc động vì đã gần địch nhưng anh lại lo sợ không biết quân địch có thể làm gì đối với các bạn đồng ngũ của mình. Từ các phía vang lên những tiếng kêu đau của các bạn anh, những người bạn cho đến hôm nay vẫn còn tin là chiến tranh đã sắp kết thúc....

Anh thấy bác sĩ thỉnh thoảng dừng lại xem những người bị thương. Đôi khi, nếu thấy không còn tí hy vọng nào cứu được một người bị thương nữa, bác sĩ giúp cho họ chết được nhanh hơn. Abel đi từ người này đến người khác giúp một tay cho những người khiêng cáng đưa thương binh về phía cầu Ludendorff.

Tới lúc đến được bìa rừng thì chỉ còn có bác sĩ, một người gọt khoai lúc trước và Abel. Mọi người khác đã khiêng người chết và người bị thương về bệnh viện.

Ba người chạy vụt vào trong rừng. Họ nghe tiếng súng địch nổ rất gần. Abel trông thấy rõ một khẩu pháo dưới lùm cây chĩa nòng về phía cầu, nhưng bây giờ đã hỏng không còn dùng được nữa. Rồi anh nghe thấy một loạt đạn nổ rất to và biết quân địch ở phía trước chỉ cách mình có vài trăm thước. Abel vội quỳ một đầu gối xuống, lắng nghe kỹ. Bỗng một đám lửa bắn tóe lên trước mặt. Abel nhảy chồm lên và chạy về phía trước, bác sĩ và anh gọt khoai buột phải chạy theo sau. Họ chạy tiếp vài trăm thước nữa rồi đến một bụi cây rậm rạp trong đó nằm rải rác những xác lính Mỹ. Abel và ông bác sĩ xem từng xác một.

- Chúng nó tàn sát thế này đây, - Abel tức giận hét lên. Anh nghe tiếng súng xa dần. Bác sĩ không nói gì, ba năm trước đây ông ta đã kêu hét nhiều rồi.

Đừng lo đến người chết nữa, - Bác sĩ nói. - Xem có tìm được ai còn sống không.

- Ở đây này, Abel kêu lên rồi quỳ xuống bên cạnh một thượng sĩ nằm trong đống bùn. Hai mắt người đó trợn trừng chỉ còn lòng trắng:

Abel đặt hai miếng gạc lên tròng mắt anh ta và chờ.

- Anh ta chết rồi, Trung tá, - Bác sĩ nói và cũng không nhìn lại nữa. Abel lại đến xác sau, rồi xác sau nữa, nhưng cái nào cũng vậy. Chỉ đến lúc trông thấy một cái đầu đã bị chặt đứt khỏi thân người và đặt đúng giữa đống bùn Abel mới sững người lại. Anh cứ nhìn mãi vào đó, tưởng như cái tượng của một ông thần La Mã nào. Abel bỗng đọc lên một loạt những lời xưa kia được Nam tước dạy cho:

Máu, tàn phá và những điều khủng khiếp trở thành quen thuộc đến nỗi các bà mẹ chỉ còn biết cười mà ôm trong tay mình những đứa trẻ do chiến tranh vứt lại. Anh điên tiết, quát lên:

- Không có gì thay đổi được sao?

- Chỉ có chiến trường thôi, - Bác sĩ nói.

Khi Abel đã xem được ba chục người - Hay bốn chục, anh cũng không biết nữa - Anh quay lại chỗ bác sĩ lúc này đang tìm cách cứu sống một viên đại uý đầu quấn đầy băng thấm máu chỉ còn chừa lại một mắt nhắm nghiền và cái miệng. Abel đứng sau bác sĩ nhìn vào viên đại uý một cách tuyệt vọng, anh để ý nhìn thấy cầu vai của anh ta có quân hiệu - Đoàn thiết giáp số 9 - Và chợt nhớ lại câu nói của Tướng Leonard lúc trước:

Có Chúa mới biết được chúng ta mất bao nhiêu người.

Bọn Đức hèn mạt, - Abel thốt lên.

- Đúng đấy, - Bác sĩ nói.

- Anh ta chết chưa? - Abel hỏi.

- Rất có thể, - Bác sĩ đáp lại như cái máy. - Anh ta mất nhiều máu quá. Vấn đề chỉ còn là thời gian thôi.

- Bác sĩ ngửng lên. - Ở đây không còn gì cho ông làm nữa đâu, Trung tá. Sao ông không cố đem được người này về bệnh viện dã chiến. May ra anh ta có thể sống được Và nhờ ông nói với tư lệnh là tôi còn đi lên phía trên nữa, và tôi cần bất cứ người nào ông có thể cho được Đồng ý, - Abel đáp. Rồi anh cùng bác sĩ nhẹ tay đỡ viên đại uý nằm lên cáng. Abel với anh linh gọt khoai từ từ khiêng cáng về trại. Bác sĩ đã dặn anh trước là phải rất cẩn thận vì bất cứ một động tác bất ngờ nào đụng đến cáng sẽ chỉ làm cho người đó mất thêm máu. Trong suốt chặng đường dài hai dặm về đến bệnh viện, Abel không cho anh gọt khoai được nghỉ một tí nào. Anh muốn cho viên đại uý này có cơ hội sống được. Rồi sau đó anh sẽ trở lại khu rừng với bác sĩ.

Trong hơn một giờ họ bì bõm trong bùn và trong mưa. Abel cảm thấy viên đại uý chắc là chết rồi. Cuối cùng, về được đến bệnh viện thì hai người mệt lử và giao chiếc cáng lại cho một tổ y tế.

Lúc người ta đưa lên xe đẩy đi, viên đại uý mở một bên mắt không bị băng nhìn xoáy vào Abel. Anh ta tính giơ cánh tay lên. Abel chào, thấy anh ta mở mắt và định giơ tay mà mừng quá. Anh cầu nguyện cho người đó sống được.

Anh chạy ra ngoài bệnh viện, định trở lại rừng với tốp người của mình thì một sĩ quan trực đến giữ anh lại - Trung tá, - Anh ta nói, - Tôi đi tìm ông khắp nơi. Hiện có ba trăm người đang cần ăn. Trời ơi, ông đi đâu thế Đi làm một việc khác có ý nghĩa vậy thôi.

Abel từ từ quay trở về nơi có bếp dã chiến và suy nghĩ về viên đại uý trẻ vừa rồi.

Đối với cả hai người, chiến tranh thế là đã kết thúc.
 
Hai Số Phận - Chương 19
Những người khiêng cáng đưa viên đại uý vào trong lều rồi khẽ đặt lên bàn mổ. Đại uý William Kane của Sư đoàn thiết giáp số 9 có thề trông thấy cô y tá nhìn mình một cách thất vọng nhưng anh không thể nghe rõ cô ta nói gì. Anh không biết đó là do đầu mình bị băng quá nhiều hay anh đã bị điếc rồi. Anh thấy môi cô ta động đậy nhưng không nghe gì hết. Anh nhắm mắt lại suy nghĩ.

Anh suy nghĩ rất nhiều về quá khứ, suy nghĩ một chút về tương lai, và chợt nghĩ nếu mình chết thì sao.

Anh biết rằng nếu anh sống thì sẽ có nhiều thời gian để suy nghĩ. Anh nghĩ về Kate đang ở New York. Cô y tá có thể thấy một giọt nước mắt của anh chẩy xuống mặt.

Kate đã nhất định không chịu để anh vào quân đội mặc dầu anh tỏ ra rất quyết tâm. Anh biết là chị sẽ chẳng bao giờ hiểu được, và anh cũng không thể nào chứng minh được cho chị, vì vậy anh đã không nói gì.

Bây giờ anh chỉ thấy có vẻ mặt thất vọng của chị ám ảnh. Anh chưa bao giờ nghĩ đến cái chết thật sự - Có ai nghĩ đến điều đó đâu - Và bây giờ anh chỉ muốn sống để trở về với gia đình.

William đã để ngân hàng Lester lại cho Ted Leach và Tony Simmons cùng quản lý cho đến khi nào anh về Phải, cho đến khi nào anh về.... Anh không dặn lại nếu anh không về thì sao. Cả hai người đều yêu cầu anh đừng đi. Lại thêm hai người đàn ông nữa không hiểu anh. Cuối cùng, sau khi anh đã đăng lính rồi, anh cũng không dám gặp con nữa. Richard, lúc đó đã bẩy tuổi, đòi đi theo bố đánh bọn Đức, nhưng bố không cho đi theo nên chú khóc.

Trước hết họ cho anh đi theo học trường sĩ quan dự bị Ở Vermont. Trước đây anh đã đến vermont rồi, đi trượt tuyết với Matthew, lên đồi thì chậm mà xuống thì rất nhanh. Lớp học sĩ quan kéo dài ba tháng. Sau lớp học, anh thấy mình khỏe lên như cũ. Từ sau Harvard đến giờ mới lại thấy được như vậy.

Nhiệm vụ đầu tiên của anh là sang Lon don làm sĩ quan liên lạc giữa quân Mỹ với quân Anh. Anh được đến ở Dorchester, nơi đã bị Bộ Quốc phòng Anh tiếp quản và giành cho quân đội Mỹ. William đã đọc báo ở đâu đó nói Abel Rosnovski cũng đã giành khách sạn Nam tước ở New York cho quân đội và anh rất hoan nghênh cử chỉ ấy. Những chuyện tắt đèn với còi báo động máy bay khiến anh có cảm giác mình đang dính đến chiến tranh thật, nhưng anh thấy lạ, tưởng mình như ở xa tận đâu đâu phía nam công viên Hy de. Suốt đời làm gì anh cũng chủ động được. Anh không hề là người đứng ngoài cuộc bao giờ. Việc đi lại giữa sở chỉ huy của Eisenhower ở Si. James với phòng Tác chiến của Churchill ở Storey không phải là thứ việc mà William chủ động được. Anh cảm thấy như suốt cả cuộc chiến tranh này anh sẽ chẳng bao giờ được đối diện với một tên Đức trừ phi Hitler đem quân sang xâm chiếm Quảng trường Trafalgar.

Khi một phần của Quân đoàn Một được đưa lên vùng Scotland để tập luyện cùng với trung đoàn bộ binh nổi tiếng của Anh được mệnh danh là Cảnh Giới Đen, William cũng được phái lên đó quan sát để về báo cáo xem phát hiện được những gì. Trong suốt cuộc hành trình bằng xe lửa vừa chậm vừa dài lên Scotland, anh bắt đầu tưởng như mình chỉ là một anh liên lạc được đề cao lên thế thôi, và anh tự hỏi sao mình lại vào quân đội làm gì chứ. Nhưng đến Scotland rồi, anh thấy mọi thứ đều rất khác. ít ra ở đây cũng có không khí chuẩn bị chiến tranh rất sôi nối, và khi trở về Lon don, anh lập tức làm đơn xin chuyển sang Quân đoàn Một. Viên sĩ quan chỉ huy của anh không thích giữ một người ưng hành động ngồi ở bàn giấy, nên chấp nhận cho anh đi luôn.

Ba ngày sau William trở lại Scotland, nhập vào trung đoàn mới và bắt đầu tập luyện với quân Mỹ ở Inveraray để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ sắp tới. Tập luyện rất vất vả, căng thẳng. Những đêm đánh trận giả trên đồi ở Scotland với trung đoàn Cảnh Giới Đen thật khác hẳn với những tối ngồi viết báo cáo ở Dorchester.

Ba tháng sau họ nhẩy dù xuống miền Bắc nước Pháp đề nhập với cánh quân của omar N. Bradley tiến sâu vào lục địa châu âu. Không khí thắng lợi đã lởn vởn trước mặt và William muốn mình là người lính đầu tiên vào Berlin.

Quân đoàn Một tiến về phía sông Rhine, quyết tâm vượt qua mọi chiếc cầu. Đại úy Kane sáng hôm đó được lệnh là cánh quân của anh phải vượt qua cầu Ludendorff trước để giao chiến với địch đóng trong một khu rừng phía bờ bắc Remagen cách đó chừng một dặm. Khu vực này nằm sâu phía trong sông.

Anh đứng trên đỉnh đồi quan sát binh đoàn thiết giáp số 9 vượt qua cầu, chỉ lo không biết nó sẽ bị nổ tung bất cứ lúc nào.

Viên đại tá đưa sư đoàn của ông ta vào theo.

William cùng một trăm hai mươi người do anh chỉ huy đến tiếp. Phần lớn trong số những người này, cũng như William, bây giờ mới ra trận là lần đầu. Ở đây không còn là chuyện tập dượt với quân Scotland và bắn đạn giả nữa, và không còn chuyện tập xong thì cùng ăn nữa. Ở đây, trái lại, là quân Đức, là đạn thật, là chết và sau đó cũng không có ăn nữa.

Vào đến bìa rừng, William và các bạn không thấy có chống cự, thế là họ quyết định vào sâu trong rừng hơn nữa. Họ từ từ tiến quân, không thấy có chuyện gì và William đã bắt đầu nghĩ rằng binh đoàn số 9 đã giải quyết xong công việc và cánh quân của anh chỉ còn có việc đi theo. Đang nghĩ thế thì một loạt đạn phục kích ào ào bắn ra, có cả đạn súng cối. Họ bị hoàn toàn bất ngờ. Những người của William phục ngay xuống đất và tìm cách nấp vào sau các gốc cây. Chỉ trong vài giây đồng hồ anh đã mất quá nửa trung đội.

Trận đánh. nếu như có thể gọi đó là trận đánh, chỉ không đầy một phút, mà anh thì chưa trông thấy mặt mũi một tên Đức nào. William nằm bò xuống đất ướt và anh hoảng hồn trông thấy một đợt quân của Sư đoàn 9 tiếp tục kéo vào rừng. Anh nhẩy từ chỗ nấp ra phía sau một cái cây báo cho họ biết là có phục kích.

Viên đạn đầu tiên trúng vào đầu anh. Anh ngã khuỵu xuống bùn nhưng vẫn giơ tay vẫy hét bảo đồng đội đừng tiến lên nữa. Viên đạn thứ hai trong vào cổ anh, và viên thứ ba vào ngực. Anh nằm lặng trong vũng bùn, chờ chết mà vẫn chưa trông thấy địch, một cái chết không vinh dự mà cũng chẳng anh hùng tí nào.

Rồi sau đó William biết là mình được nằm trên cáng và người ta khiêng đi. Anh không nghe, không thấy gì hết. Anh không biết đó là đêm tối hay chính anh bị mù.

Hình như người ta khiêng anh đi xa lắm. Rồi anh mở được mắt, trông thấy một viên trung tá đi khập khiễng từ trong lều ra. Trông ông ta quen quen, nhưng anh không thể nghĩ ra ai. Những người khiêng cáng đem anh vào trong lều mổ và đặt anh lên bàn. Anh cố không ngủ thiếp đi, vì sợ ngủ có thể chết luôn.

William tỉnh dậy. Anh biết là có hai người đang đỡ mình. Họ khẽ lật người anh lại và cắm một mũi kim vào người anh. William mơ gặp Kate, rồi mẹ anh, rồi Matthew đang chơi với Richard con anh. Anh ngủ thiếp đi.

Anh lại tỉnh dậy. Anh biết là họ đã chuyển anh sang một chiếc giường khác. Một chút hy vọng mỏng manh thay thế cho ý nghĩ không tránh khỏi chết. Anh nằm bất động, một bên mắt nhìn lên mái lều bạt. Đầu anh không cựa quậy được. Một cô y tá bước đến xem bảng theo dõi bệnh rồi nhìn anh. Anh lại ngủ thiếp.

Anh lại tỉnh dậy. Không biết đã bao lâu rồi? Lại một cô y tá khác. Lần này, anh có thể nhìn được rõ hơn một chút. Ôi, mừng quá! Anh đã cựa quậy được cái đầu nhưng đau vô cùng. Anh cố thức được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Anh muốn sống rồi. Rồi anh lại ngủ.

Anh lại tỉnh dậy. Bốn bác sĩ đang chăm chú nhìn anh. Họ quyết định gì đây? Anh không nghe được họ nói gì nên không thể biết. Họ lại chuyển anh đi nữa.

Anh có thể thấy họ đặt anh vào một chiếc xe cứu thương. Cánh cửa xe khép lại, tiếng động cơ rì rì rồi chiếc xe bắt đầu lăn trên đường gập ghềnh. Một cô y tá ngồi bên giữ chặt lấy người anh. Hình như xe đi hơn một giờ đồng hồ , nhưng anh không biết thời gian ngắn dài như thế nào nữa. Xe đến một chỗ êm hơn rồi dừng lại. Họ lại khiêng anh nữa. Lần này họ đi trên chỗ thẳng, rồi lên gác, đưa anh vào một căn phòng tối. Họ lại chờ, rồi thấy căn buồng di chuyển, có lẽ là một cái xe khác. Căn buồng đó bay lên. Cô y tá chích cho anh một mũi tiêm nữa. Anh không còn nhớ được gì hết. Cho đến lúc anh cảm thấy như máy bay hạ xuống rồi lăn bánh lên một chỗ nào đó mới đứng lại. Họ lại di chuyển anh nữa. Lại một xe cứu thương khác, một cô y tá khác, một mùi vị khác, một thành phố khác. New York chăng, hoặc ít nhất đây cũng là nước Mỹ chăng. Chẳng nơi nào trên thế giới có mùi vị như thế cả. Chiếc xe cứu thương đưa anh đến một nơi khác êm hơn, xe đứng lại rồi đi tiếp, cuối cùng đến một nơi như cố định. Họ lại khiêng anh một lần nữa, lên cầu thang gác và đưa vào một căn phòng nhỏ chung quanh có tường trắng. Họ đặt anh vào một chiếc giường êm và dễ chịu hơn. Anh cảm thấy đầu mình đã đặt xuống gối, và đến lúc anh tỉnh lại, anh tưởng như chỉ còn một mình mình. Nhưng rồi anh thấy mắt mình vẫn nhìn được và tưởng như Kate đang đứng trước mặt anh. Anh định giơ tay sờ vào người chị, định nói, nhưng không thốt được thành lời.

Chị mỉn cười, nhưng anh biết chị không thấy được anh cũng mỉm cười. Anh lại tỉnh. Kate vẫn còn đó nhưng mặc chiếc áo khác. Hay là chị đã đi rồi lại đến nhiều lần? Chị lại cười với anh. Không biết đã bao lâu rồi nhỉ? Anh cố nghiêng đầu đi một. chút, trông thấy Richard con trai anh, nó đã cao lớn và đẹp trai rồi.

Anh muốn nhìn các con gái nhưng không nghiêng được đầu thêm nữa. Chúng đã bước gần đến bên anh để anh nhìn thấy được. Virginia, lẽ nào nó đã lớn bằng này rồi? Và Lucy nữa kia, không thể thế được.

Những năm tháng sao đã trôi đi nhanh thế? Anh ngủ thiếp đi.

Anh lại tỉnh dậy. Không có ai ở đây, nhưng bây giờ anh đã cựa quậy được cái đầu. Người ta đã tháo đi một số băng và bây giờ anh có thể nhìn rõ hơn. Anh định nói điều gì đó, nhưng không nói thành lời được.

Kate chỉ đứng nhìn. Mớ tóc vàng của chị đã dài hơn, trùm xuống vai. Đôi mắt nâu hiền dịu và nụ cười không sao quên được của chị bây giờ thật đẹp, rất đẹp Anh gọi tên chị. Chị cười. Rồi anh lại ngủ thiếp.

Anh lại tỉnh dậy nữa. ít băng quấn hơn trước. Lần này con trai anh nói.

- Chào bố, - Richard nói.

Anh nghe tiếng nói của con và đáp. - "Chào Richard", nhưng không nhận ra tiếng của chính mình.

Cô y tá đỡ anh ngồi dậy, sẵn sàng chào đón cả gia đình. Anh cảm ơn cô. Một bác sĩ sờ vào vai anh.

- Cái đáng lo nhất đã qua rồi, ông Kane. Ít hôm nữa ông sẽ khỏe và về nhà được.

anh mỉm cười nhìn Kate bước vào phòng, có virginia và Lucy đi theo sau. Anh muốn hỏi mẹ con rất nhiều điều. Bắt đầu từ đâu nhỉ? Trí nhớ của anh có nhiều khoảng trống phải lấp đã. Kate cho anh biết là anh đã gần chết. Anh biết như thế, nhưng không thể ngờ được là từ lúc binh đoàn của anh bị phục kích trong rừng Remagen đến giờ đã hơn một năm trôi qua rồi.

Những năm tháng hôn mê bất tỉnh đã đi đâu cả, những tháng mà sự sống đã mất đi chẳng khác gì như đã chết? Richard bây giờ đã gần mười hai tuổi, đã đang chuẩn bị vào trường Si. Paul rồi. Virginia đã lên chín và Lucy gần lên bẩy. Hình như áo chúng nó mặc đã ngắn hơn trước. Anh lại phải tìm hiểu các con từ đầu Kate có vẻ như đẹp hơn là William nhớ lại. Chị bảo với William là không bao giờ chị chấp nhận việc anh có thể chết, chị kề cho anh nghe Richard học ở Buckley rất khá và Viginia chừng như Lucy đều rất nhớ bố. Chị nén đau nói với anh rằng những vết sẹo trên mặt và trên ngực rồi sẽ lành. Chị cảm ơn Chúa khi nghe các bác sĩ đảm bảo với chị rằng óc anh không hề gì và mai kia anh sẽ có thể nhìn được như thường. Chị chỉ mong mình có thể làm được gì giúp cho anh phục hồi mau chóng.

Mỗi thành viên trong gia đình đóng một phần vào quá trình phục hồi ấy. Richard giúp bố đi lại cho đến lúc không cần đến nạng nữa. Lucy giúp bố ăn đến lúc nào bố tự ăn được. Virginia đọc sách của Mark Twain cho bố nghe. William không biết là nó đọc vì nó hay vì anh, vì cả hai bố con đều rất thích. Đêm nào William không ngủ được, thì Kate đến ngồi bên cạnh.

Rồi cuối cùng sau lễ Giáng sinh là bệnh viện cho anh được về nhà.

Một khi đã về đến căn nhà ở Đường 68 rồi, William phục hồi càng nhanh chóng. Các bác sĩ dự đoán chỉ trong sáu tháng nữa là anh có thể trở về ngân hàng làm việc. Tuy người có sứt sẹo đấy nhưng rất linh hoạt. Anh được phép tiếp khách đến thăm.

Người đầu tiên đến thăm là Ted Leach. Ông ta ngạc nhiên với vẻ bề ngoài khác hẳn của anh. Theo Ted nói lại, William được biết là trong năm qua ngân hàng Lester làm ăn đã khá hơn, và các bạn đồng nghiệp mong chờ anh về với tư cách là chủ tịch của họ. Tony Simmons đến thăm với những tin tức khiến anh đau buồn. Lan Lloyd và Rupert Cork- smith đều qua đời. Như thế là anh không còn được nghe những lời khuyên của họ nữa. Rồi Thomas Chen có gọi đến nói ông ta rất hài lòng được tin William đã bình phục, đồng thời cũng cho anh biết rằng ông ta đã về hưu nửa vời, chuyển rất nhiều khách hàng sang cho anh con trai của ông là Thađeus hiện nay đang có văn phòng ở New York. William nhận xét là cả hai bố con cùng mang tên của các thánh tông đồ. Thomas Chen cười và nói ông hy vọng Wilham vẫn sẽ tiếp tục sử dụng đến công ty của ông. William đảm bảo với ông như vậy.

- Nhân đây, tôi có một mẩu tin này mà có lẽ ông cũng cần biết.

William yên lặng nghe ông luật sư già nói và anh bỗng trở nên giận dữ, rất giận dữ.
 
Hai Số Phận - Chương 20
Tướng Alfred Jodl ký bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện tại Reims ngày 7 tháng 5, 1945 trong khi Abel trở về New York lúc này đang chuẩn bị lễ chiến thắng và kết thúc chiến tranh. Một lần nữa, đường phố lại đầy chặt những người trẻ tuổi mặc quân phục, nhưng lần này vẻ mặt của họ là vui mừng thật sự chứ không phải vui gượng như trước. Abel lấy làm buồn thấy có quá nhiều người cụt chân, cụt tay, mù hoặc sứt sẹo đầy mình. Đối với họ, chiến tranh không bao giờ là kết thúc, dù cho người ta có ký kết những tờ giấy gì đi nữa ở cách xa đây bốn nghìn dặm.

Khi Abel bước vào khách sạn Nam tước trong bộ đồ trung tá thì chẳng ai nhận ra được anh. Ba năm trước đây, lần cuối cùng họ thấy anh trong quần áo bình thường thì vẻ mặt anh lúc đó còn trẻ chứ có đâu sứt sẹo thế này. Khuôn mặt họ trông thấy bây giờ còn già hơn cái tuổi ba mươi chín của anh. Những nét nhăn trên trán chứng tỏ chiến tranh còn để lại dấu vết trên người anh. Anh đi thang máy lên tầng bốn mươi hai là văn phòng của mình, một người bảo vệ cứ khăng khăng là anh lên nhầm tầng.

- George Novak đâu? - Abel hỏi.

- Ông ấy ở Chicago, thưa Trung tá, - Người bảo vệ đáp - Gọi ông ấy ra nghe điện thoại, - Abel nói - Tôi sẽ bảo là ai gọi?

- Abel Rosnovski.

Anh bảo vệ vội chạy đi.

Giọng quen thuộc của George lạch cạch trên điện thoại chào mừng khiến Abel cảm thấy trở về nhà thật là dễ chịu. Anh đã mong mãi mới có hôm nay. Anh quyết định đêm đó không ở lại New York và lên máy bay đi ngay tám trăm dặm về Chicago. Anh đem theo báo cáo mới nhất của George để đọc trên máy bay.

Anh xem kỹ từng chi tiết những tiến bộ của Công ty Nam tước trong những năm cuối cùng của chiến tranh, vui mừng thấy George đã làm ăn khá và trong những năm anh đi vắng vẫn giữ được cho công ty ở cái thế vững vàng. Abel không có điều gì phải phàn nàn về sự thận trọng của George trong việc dùng người. Lợi nhuận vẫn cao vì trong chiến tranh nhiều nhân viên làm việc đã đi quân dịch nhưng khách sạn vẫn đông người vì khắp nước người ta đi lại nhiều.

Abel quyết định dùng ngay nhân viên mới nếu không các khách sạn khác sẽ chọn lấy những người tốt nhất mới trở về.

Đến sân bay Midway, cửa vào 11c, anh đã thấy có George đứng sẵn đó chờ anh. George hầu như không thay đồi gì, chỉ có béo hơn một chút, tóc rụng đi một ít thôi. Họ nói chuyện với nhau đến một giờ về tất cả những chuyện gì đã xảy ra trong ba năm qua mà Abel tưởng như mình chưa hề đi vắng xa. Abel thầm cảm ơn con tàu Mũi Tên Đen đã giới thiệu cho anh một người làm phó chủ tịch công ty như vậy.

Tuy nhiên George thì khổ tâm về chuyện thấy Abel có vẻ như khập khiễng hơn cả hồi đi.

- Ông Thọt của ngành khách sạn đó, - Anh ta nói đùa. "Bây giờ anh không còn chân mà đứng nữa nhé" - Chỉ có anh Ba lan mới đùa ngốc thế, - Abel đáp.

George cười và có vẻ ngượng như vừa bị chủ mắng.

- Cảm ơn Chúa là tôi đã có được một anh Ba lan ngốc trông nom cho mọi thứ trong khi tôi đi tìm bọn Đức Abel không cưỡng lại được chuyện đi quanh một tua xem khách sạn Nam tước Chicago đã rồi mới lên xe về nhà. Trong những năm chiến tranh thiếu thốn, khách sạn không còn giữ được vẻ lộng lẫy như xưa nữa. Anh thấy có nhiều thứ cần được đổi mới. Nhưng thôi, hãy để đấy đã. Ngay lúc này đây, tất cả những gì anh cần là gặp lại vợ con. Bỗng anh như bị choáng.

ở George thì ba năm qua không thay đổi gì mấy nhưng Florentyna thì khác hẳn. Cô bé bây giờ đã mười một tuổi và đã biến thành một thiếu nữ rất xinh đẹp trong khi đó thì Zaphia, mặc dầu chỉ mới ba mươi tám, trông đã như một bà trung niên béo ụt ịt xấu xí.

Đầu tiên là Zaphia và Abel không biết phải đối xử với nhau như thế nào và vài tuần sau đó thì Abel hiểu ra là quan hệ giữa hai người với nhau không còn có thể như trước kia được nữa. Zaphia không làm gì để kích thích Abel và cũng chẳng tỏ ra hứng thú gì với những cố gắng của anh. Anh lấy làm buồn thấy vợ không quan tâm. Anh định cho chị ta chú ý đến công việc của anh hơn, nhưng chị không thiết. Chị ta chỉ hài lòng với việc ở nhà và không muốn dính dáng gì đến Công ty Nam tước. Anh đành cứ để chị như vậy, và không biết mình còn có thể trung thành với vợ được bao lâu nữa. Trông thấy Florentyna anh mừng rỡ bao nhiêu thì thấy Zaphia anh lại lạnh lùng bấy nhiêu. Cùng ngủ với nhau nhưng anh tránh không làm tình với chị. Đôi khi có làm thì anh lại nghĩ đến những người đàn bà khác. Lâu dần, anh kiếm cớ đi vắng khỏi Chicago và để tránh cái nhìn như lặng lẽ trách móc và rầu rĩ của Zaphia.

Anh bắt đầu đi những chuyến xa về các khách sạn khác đem Florentyna đi theo vào những kỳ cô nghỉ hè. Sau khi trở về Mỹ, anh bỏ ra sáu tháng đầu đi thăm các khách sạn của công ty Nam tước như anh đã làm hồi tiếp quản Công ty Rich Mong sau khi Davis Loroy qua đời. Trong năm, khách sạn nào cũng trở lại được với những tiêu chuẩn anh mong đợi.

Nhưng Abel muốn tiến lên hơn nữa. Anh báo cho Curtis Fenton biết trong một cuộc họp của công ty là tổ nghiên cứu thị trường của anh đã khuyên anh nên cho xây một khách sạn ở Mexico và một nứa ở Brazil, trong khi đó họ vẫn đang tìm những vùng đất mới để xây khách sạn Nam tước.

- Nam tước Mexico City và Nam tước Rio de Janeiro, - Abel nói. Anh thích nghe những cái tên đó vì nó âm vang.

- Ông có đủ kinh phí để xây được những cái đó, - Curtis Fenton nói. trong khi ông đi vắng thì tiền đã tích luỹ được nhiều đấy. Ông có thể xây Nam tước ở bất cứ nơi nào ông muốn. Có Trời mà biết được đến bao giờ thì ông mới thôi không xây nữa, hả ông Rosnovski".

- Một ngày kia, ông Fenton ạ, tôi sẽ xây một Nam tước ở ngay Warsaw, rồi sau đó tôi sẽ thôi, - Abel nói. - Có thể là tôi đã góp phần đánh bại được bọn Đức rồi, nhưng tôi vẫn còn có món nợ phải thanh toán với bọn Nga nữa.

Curtis Fenton cười. (Chỉ mãi đến tối, khi kể lại chuyện cho vợ nghe, ông ta mới hiểu được là Abel Rosnovski đã quyết tâm xây cho được một Nam tước ở Warsaw).

- Còn đối với ngân hàng của Kane thì sao rồi?

Abel bỗng đổi giọng làm Curtis Fenton chột dạ.

ông lo ngại thấy Abel Rosnovski vẫn còn cho là William Kane phải chịu trách nhiệm về cái chết quá sớm của Davis Loroy. Ông mở hồ sơ đặc biệt ra xem lại ông đọc:

- Lester, Kane và công ty có chứng khoán chia ra cho mười bốn thành viên của gia đình Lester cùng với sáu người làm việc trước kia và hiện nay, trong khi đó bản thân ông Kane là cổ đông lớn nhất với tám phần trăm của quỹ ủy thác gia đình.

- Có người nào của gia đình Lester muốn bán cổ phiếu không? Abel hỏi.

- Nếu chúng ta trả giá cao thì mua được. Cô Susan Lester, con gái của Chales Lester trước đây, đã cho chúng tôi biết là cô có thể xét đến bỏ phần chứng khoán của cô, và ông Peter Parfitt, một cựu phó chủ tịch của Lester, cũng tỏ ra quan tâm đến việc chúng ta muốn mua lại.

- Họ chiếm tỷ lệ bao nhiêu?

Susan Lester có sáu phần trăm. Peter Parfitt chỉ có hai phần trăm.

Họ muốn bao nhiêu?

Curtis Fenton lại nhìn vào hồ sơ trong khi Abel cũng liếc nhìn vào báo cáo hàng năm mới nhất của Lester. Anh dừng lại ở Điều thứ bảy.

- Cô Susan muốn hai triệu đô la cho chỗ sáu phần trăm của cô, còn ông Parfitt đòi một triệu đô la cho chỗ hai phần trăm.

- Ông Parfitt tham quá đấy, Abel nói. "Vậy chúng ta chờ cho đến khi nào ông ta thật đói. Ông hãy mua ngay chứng khoán của cô Susan Lester mà không cần nói ông đại diện cho ai, còn khi nào ông Parfitt thay đổi ý kiến thì ông báo cho biết".

Curtis Fenton lên tiếng ho.

- Ông có thấy phiền điều gì không, ông Fenton. - Abel hỏi.

Curtis Fenton ngập ngừng. "Không, không có gì, - Ông dè dặt đáp.

- Thế thì tốt, vì tôi sẽ để cho một người nhận tài khoản đó, một người chắc là ông biết rồi, Henry osbome.

- Nghị sĩ osborne ấy ư - Curtis Fenton hỏi.

- Phải, ông có quen ông ta không ?

- Tôi chỉ biết tiếng - Fenton nói với một giọng như không thích lắm va ông cúi đầu xuống.

Abel không để ý Anh biết tiếng Henry đã đành, nhưng anh còn biết ông ta có khả năng vượt qua những bọn quan liêu trung gian và có được những quyết định chính trị nhanh chóng, do đó Abel xét có thể mạo hiểm với ông ta được. Ngoài ra, hai người đều có mối căm thù chung đối với ông Kane.

- Tôi cũng mời ông osborue làm giám đốc của Công ty Nam tước đặc trách về tài khoản Kane. Điều này phải được coi là hết sức mật, vậy xin ông giữ kín cho.

- Vâng, tuỳ ông, - Fenton buồn bã nói. Ông nghĩ bụng không biết mình có nên nói ra điều hoài nghi của mình cho Abel Rosnovski biết không.

- Giải quyết xong với cô Susan Lester thì ông cho tôi biết ngay nhé.

Vâng, thưa ông Rosnovski, - Curtis Fenton đáp nhưng không ngửng đầu lên.

Abel quay về khách sạn Nam tước ăn trưa. Henry osborne đang ở đó đợi anh.

Ngài nghị sĩ, - Abel lên tiếng chào ông ta trong nhà sảnh.

Nam tước, - Henry đáp lại, rồi hai người khoác tay nhau đi vào nhà ăn, ngồi ở một chiếc bàn trong góc. Abel mắng thậm tệ một anh phục vụ vì áo anh ta để thiếu một khuy Vợ Ông khỏe không, Abel?

Khỏe lắm, còn vợ Ông, Henry.

- Rất cừ, - Cả hai người cùng nói dối.

- Có tin gì hay không?

- Có đấy Cái miếng đất ở Atlanta mà ông cần đã được trông coi cẩn thận, - Henry nói bằng một giọng kín đáo. "Giấy tờ cần thiết trong vài ngày nữa xong.

ông có thể bắt đầu xây Nam tước Atlanta vào khoảng đầu tháng." - Chúng ta không làm cái gì bất hợp pháp đấy chứ?

- Không có gì để những người cạnh tranh với ông có thể mó đến được, điều đó tôi đảm bảo, Abel. - Henry osborue cười.

Thế thì tốt, Henry. Tôi không muốn rắc rối với pháp luật.

- Không, không, - Henry nói. "Chỉ có ông với tôi biết về chuyện này thôi".

- Tốt, - Abel nói. "Trong những năm qua ông đã giúp tôi được nhiều lắm, Henry, và tôi có chút quà này cho ông về những cái ông đã làm. Ông có muốn trở thành một trong những giám đốc của Công ty Nam tước không?

- Vậy thì vinh dự cho tôi lắm, Abel.

- Ông đừng nói thế. Ông đã giúp cho tôi có được biết bao nhiêu giấy phép xây dựng, quý hoá biết chừng nào. Tôi thì tôi chẳng bao giờ có thời gian đi giao thiệp với những nhà chính trị và đám quan liêu cả Thế mà họ thì họ lại cứ muốn giao thiệp với những người tốt nghiệp Hazward kia, mà ngược lại đám này lại rất coi thường họ chứ.

- Ông đối với tôi thế là rộng rãi lắm, Abel.

- Chẳng qua là đáp nghĩa đối với ông thôi. Bây giờ thì tôi muốn ông làm việc này lớn hơn mà lại thiết thân đến chúng ta nữa, nhưng phải rất bí mật mới được Việc này không tốn thì giờ của ông lắm nhưng lại giúp cho chúng ta có thể trả thù được cái ông bạn chung của chúng ta ở Boston ấy, ông William Kane.

Người quản lý nhà ăn đưa đến hai đĩa bít- tết thịt bò thật ngon. Henry chăm chú nghe Abel trình bày kế hoạch của anh ta về William Kane.

Mấy ngày sau, vào mùng 8 tháng 5, 1946, Abel đi New York để dự lễ kỷ niệm chiến thắng. Anh tổ chức một bữa tiệc cho hơn một nghìn cựu binh Ba lan ở khách sạn Nam tước, mời tướng Kasimierz Sosnkowski là tổng chỉ huy các lực lượng Ba lan ở Pháp sau năm 1943, làm khách tham dự. Abel đã chờ đợi sự kiện này từ mấy tuần trước, và anh đem theo Florentyna về New York, Zaphia ở lại Chicago.

Đêm liên hoan, phòng tiệc của khách sạn Nam tước New York được trang hoàng lộng lẫy, tất cả 120 bàn tiệc đều cờ sao vạch của Mỹ và cờ trắng đỏ của Ba lan. Chung quanh tường đều có ảnh của các tướng lĩnh Eisenhower, Patton, Bradley, Clark, Paderewski và Sikorsky. Abel ngồi ở giữa bàn đầu, viên tướng ngồi phía bên phải anh và Florentyna, bên trái.

Tướng Sosnkowski đứng lên phát biểu và tuyên bố Trung tá Rosnovski đã được bầu làm chủ tịch suốt đời của Hội cựu binh Ba Lan vì những hy sinh to lớn của ông cho sự nghiệp chung Ba lan - Mỹ, nhất là việc ông đã dành khách sạn Nam tước New York cho quân đội suốt thời kỳ chiến tranh. Một người ở cuối phòng, có lẽ uống nhiều rượu đã hơi say, lên tiếng hét to:

- Chúng ta sống sót được với bọn Đức thì cũng sống sót được với bữa tiệc này của Abel.

Hàng nghìn cựu binh cùng cười lên vui vẻ, chúc Abel bằng rượu vốt ka của Danzig. Rồi họ yên lặng nghe viên tướng nói về tình cảnh Ba lan sau chiến tranh vẫn còn bị nước ngoài xâm chiếm, kêu gọi mọi người hãy tiếp tục đấu tranh để giành lại chủ quyền cho quê hương đất nước. Abel tin rằng một ngày kia Ba lan sẽ được tự do và anh sẽ còn sống để được thấy tòa lâu đài trả về cho anh. Tuy nhiên, anh vẫn còn nghi ngại, không biết rồi có thực hiện được ý nguyện đó không Viên tướng tiếp tục nhắc nhở mọi người rằng những người Mỹ gốc Ba lan, nếu tính theo đầu người, còn hy sinh nhiều nhân mạng và tiền của hơn bất cứ nhóm ngoại kiều nào khác ở Mỹ. "Thử hỏi có bao nhiêu người Mỹ tin rằng Ba lan đã mất sáu triệu người .trong khi đó Tiệp Khắc chỉ mất có mười vạn?

Một số người bảo là chúng ta ngốc không chịu đầu hàng ngay khi biết là thế nào mình cũng bị đánh bại.

Một dân tộc đã biết dùng ky binh để chống lại xe tăng của bọn Quốc xã thì sao có thể bị đánh bại được? Các bạn thấy đó, rõ ràng là bây giờ chúng ta không bị bại".

Abel lấy làm buồn thấy rằng phần lớn người Mỹ vẫn còn cười khi họ nghe nói đến cố gắng chiến tranh của Ba lan, nhất là khi nghe nói đến anh hùng chiến đấu của Ba lan. Viên tướng kia lại thuật lại cho cử tọa nghe về câu chuyện Abel dẫn một đoàn người đi cứu đồng ngũ bị chết và bị thương trong trận Remagen. Viên tướng nói xong và ngồi xuống rồi, các cựu binh đều đứng dậy hoan hô hai người mãi.

Florentyna rất lấy làm tự hào về cha mình.

Abel rất ngạc nhiên thấy sáng hôm sau báo chí đều đăng lại chuyện đó. Trước nay, những thành tích của Ba lan ít khi được tưa lên báo chí xuất hiện trong tờ báo riêng của họ thôi. Anh nghĩ bụng giá như mình không phải là Nam tước Chicago thì báo chí cũng chẳng nhắc đến chuyện này làm gì đâu. Tự nhiên Abel được hưởng cái vinh dự như một anh hùng Mỹ chưa được ca tụng, và suốt ngày hôm đó anh phải đứng cho người ta chụp ảnh và phỏng vấn.
 
Đến tối thì Abel mới cảm thấy thất vọng. Viên tướng đã lên máy bay đi Los Angeles làm việc khác, Florentyna trở về trường ở La ke Forest, George ở Chicago, còn Henry osborne đã đi Washington. Khách sạn Nam tước New York bỗng trở nên quá rộng và trống vắng đối với Abel. Tuy nhiên, anh không có ý muốn trở về Chicago với Zaphia.

Anh quyết định ăn sớm ở dưới nhà rồi xem lại một loạt những báo cáo hàng tuần của các khách sạn khác trong công ty, sau đó lên căn phòng ở gác thượng, cạnh phòng làm việc. Anh ít khi ăn một mình trong phòng riêng, trái lại muốn được ăn ở phòng ăn chung của khách sạn để tiện quan sát các hoạt động. Càng có thêm nhiều khách sạn mới, anh càng lo sợ mất đi mối quan hệ chặt chẽ với các nhân viên ở dưới.

Abel đi thang máy xuống nhà, dừng lại ở quầy tiếp tân hỏi xem tối nay có bao nhiêu người thuê phòng, nhưng anh chợt nhìn thấy một người đàn bà khá đẹp đang đứng đó ghi tên. Anh tin chắc là mình có quen biết người đàn bà này, nhưng ở chỗ anh đứng khó nhận ra được. Khoảng ngoài ba mươi, anh nghĩ bụng.

Viết xong, cô ta quay ra nhìn anh.

- Abel, - Cô ta nói. "Gặp anh tuyệt quá".

- Trời đất ơi, Melaniel Tôi không nhận được ra cô nữa.

Còn anh thì ai cũng nhận ra được, Abel.

- Tôi không biết là cô đang ở New York.

Chỉ qua một đêm thôi. Tôi ở đây có việc cho tờ báo.

- Cô là nhà báo à? - Abel hỏi có vẻ không tin.

- Không, tôi là cố vấn kinh tế cho một số tờ báo có trụ sở ở Dallas. Tôi đến đây nghiên cứu về thị trường.

Hay đấy nhỉ.

- Không hay lắm đâu, - Melanie nói, nhưng có việc làm cho đỡ hư thôi.

- Cô có thì giờ ăn tối với tôi được không?

- Ý kiến hay đấy, Abel. Nhưng tôi cần đi tắm thay quần áo cái đã, anh chờ được chứ.

- Tất nhiên, tôi chờ được. Hẹn gặp cô ở nhà ăn chính nhé. Cô đến chỗ bàn tôi, khoảng một tiếng đồng hồ thôi.

Cô mỉm cười rồi đi theo chú nhỏ ra thang máy. Abel ngửi thấy mùi nước hoa lúc cô bước qua. Abel vào nhà ăn xem bàn của anh có hoa tươi không, rồi vào bếp chọn thức ăn sẽ gọi cho Melanie.

Cuối cùng không còn gì để làm nữa, anh ngồi vào đó chờ. Anh luôn luôn liếc nhìn đồng hồ rồi lại nhìn ra cửa nhà ăn xem Melanie có đến không. Cô ta sửa soạn đến hơn một tiếng mới xong, nhưng cũng bõ cho anh chờ. Lúc cô ta xuất hiện ở cửa vào trong tấm áo dài bó sát người và long lanh dưới ánh đèn nhà ăn, trông cô thật đẹp và lịch sự. Người phụ trách nhà ăn vội đưa cô đến bàn Abel ngồi. Anh đứng dậy đón, trong khi một người hầu bàn mở chai rượu Krug và rót ra hai cốc.

- Hoan nghênh cô, Melanie. - Abel rót và nâng cốc.

"Rất mừng gặp lại cô ở Nam tước".

- Rất mừng được gặp lại Nam tước, - Cô nói, "nhất là trong ngày kỷ niệm chiến thắng".

- Cô nói thế là sao? - Abel hỏi.

- Tôi đọc báo thấy nói về bữa tiệc lớn của anh, lại được biết anh mạo hiểm cứu những đồng đội bị thương ở Remagen. Chuyện hấp dẫn lắm. Hóa ra anh là một chiến sĩ vô danh nhưng nổi tiếng.

- Họ nói quá lên đó thôi, - Abel nói.

- Tôi chưa hề thấy anh khiêm tốn bao giờ, Abel, vì vậy tôi tin rằng những điều họ thuật lại là đúng.

Anh rót cho cô ta cốc sâm banh thứ hai.

- Sự thật là trước nay tôi chỉ sợ có cô thôi, Melanie.

Nam tước mà còn biết sợ ai nữa? Tôi không tin.

- Đúng đấy, tôi không phải một anh chàng quý tộc ở miền Nam, như cô đã có lần nhận xét như thế rồi đấy - Anh luôn luôn nhắc đến những chuyện cũ. - Cô mỉm cười rồi hỏi đùa:

"Thế anh có lấy cô gái Ba lan xinh đẹp không - Có tôi có lấy - Có hạnh phúc không?.

- Không hay lắm. Cô ta bây giờ béo tròn, đã bốn mươi rồi, và chẳng còn hấp dẫn gì đối với tôi nữa.

- Rồi sau đó anh sẽ bảo là cô ta không hiểu được anh chứ gì, - Melanie nói, giọng cô có vẻ thích thú vừa nghe Abel nói.

- Thế cô có kiếm được chồng cho mình không? - Abel hỏi.

- Ồ có chứ, - Melanie đáp. "Tôi lấy một anh chàng thực sự quý tộc ở miền Nam, với đủ những tiêu chuẩn của nó".

- Thế thì rất mừng cho cô, - Abel nói.

- Năm ngoái tôi ly dị anh ta rồi, với một khoản tiền lớn - Ồ tiếc quá nhỉ, - Abel nói, nhưng trong bụng lại thích. "Cô uống thêm sâm banh nữa chứ Anh có định tìm cách quyến rũ tôi không đấy, Abel?

- Chờ cô ăn xong đã chứ, Melanie. Mặc dầu thế hệ đầu tiên của những người Ba lan nhập cư có một số tiêu chuẩn đấy, nhưng tôi phải thừa nhận nếu có quyến rũ thì bây giờ là đến lượt tôi.

Vậy tôi phải cảnh cáo anh trước, Abel, là từ khi ly dị chồng tới giờ tôi chưa ngủ với một người đàn ông nào khác. Chả thiếu gì đâu, nhưng không có ai ra hồn cả Sờ soạng thì nhiều đấy, nhưng yêu thì quá ít.

Họ ăn cá hun khói, kem trứng và phó mát Rothshild. Họ kể lại cho nhau nghe về đời mình từ cuộc gặp lần trước đến nay.

- Lên tầng thượng uống cà- phê chứ. Melanie?

- Sau một bữa ăn thịnh soạn thế này, còn có cách chọn lựa nào khác nữa đâu? - Cô ta nói.

Abel cười và khoác tay cô ra khỏi nhà ăn rồi vào thang máy. Cô ta hơi loạng choạng với đôi giày gót cao khi bước vào thang máy. Abel bấm vào nút số 42.

Melanie nhìn những con số chạy, mỗi khi qua một tầng. "Tại sao không có tầng mười bẩy" cô ngây thơ hỏi. Abel không biết trả lời thế nào.

Lần trước tôi uống cà phê trong phòng anh.... - Melame định nói nữa.

Thôi đừng nhắc lại, - Abel nói, sợ cô ta nhắc đến chuyện đau thương cũ. Họ bước ra ngoài thang máy vào tầng 42 và chú nhỏ chạy đến mở cửa phòng.

Trời ơi - Melani nhìn căn phòng thốt lên. abel, phải nói là anh đã học được cách sống của một đại triệu phú rồi đấy. Tôi chưa từng thấy những gì quá đáng đến như thế này".

Abel đang sắp giơ tay ra ôm lấy cô thì có tiếng gõ cửa. Một nhân viên phục vụ trẻ đưa cà phê với một chai Remy Martin đến.

- Cám ơn chú, Mike, - Abel nói. "Tối nay chỉ có thế thôi là hết".

- Thế là hết ư? - Melanie cười nói.

Chú phục vụ nghe thấy thế đỏ mặt, nhưng vì chú là da đen nên không rõ. Chú nhanh chóng bước ra ngoài.

Abel rótc cà phê và rượu brandy. Cô ta từ từ nhấp rượu, ngồi bắt tréo hai chân. Abel cũng muốn ngồi bắt tréo hai chân nhưng anh chưa biết xoay thế nào. Lúng túng một lát, anh nằm ngay xuống bên cạnh cô. Cô ta xoa tóc anh. Anh đưa tay lần lần lên đùi cô. Họ bắt đầu hôn nhau thì Melanie đưa chân hất chiếc giầy của cô bắn ra, vô ý thế nào làm đổ luôn cả cà phê lên tấm thảm Ba Tư.

- Ôi thôi chết? - Cô nói. "Làm hỏng cái thảm đẹp của anh rồi".

- Mặc kệ nó đấy. - Abel nói và kéo cô lại gần mình, đưa tay mở khóa kéo sau áo. Melanie cung cởi khuy áo sơ- mi của anh. Abel vừa hôn vừa định cởi áo nhưng vướng khuy ở tay áo, anh đành tập trung vào cởi áo cho cô ta trước. Thân hình của cô chưa hề mất đi chút nào cái đẹp của nó và vẫn đúng như anh hình dung, chỉ có khác là bây giờ đầy đặn hơn. Bộ ngực căng phồng và đôi chân dài thon thả. Anh chịu không cởi được khuy tay áo nữa, đành buông cô để cởi cho xong, và anh biết rằng thân thể của mình chẳng ra thế nào so với cô ta thật đẹp. Anh chợt nghĩ đến tất cả những gì anh đã được học về phụ nữ thường bị hút vào những người đàn ông có quyền lực thì bây giờ anh thấy đúng là như vậy. Cô ta không nhăn nhó như đã có lần trông thấy anh trước đây. Anh từ từ vuốt ve ngực cô và thân hình cô. Chiếc thảm Ba tư xem ra còn tiện hơn cả giường nữa. Cô ta cũng vừa hôn anh vừa cởi hết những gì còn lại trên người.

Nghe tiếng cô ta rên rỉ, anh chợt hiểu ra đã lâu lắm mình không có được cảm giác đê mê như vậy.

Nhưng bây giờ cảm giác ấy trôi qua cũng rất nhanh. Cả hai người chẳng ai nói gì, họ nằm thở dốc một lúc lâu Bỗng Abel cười khẩy.

anh cười gì thế - Melanie hỏi.

- Không - Abel nói - Anh nhớ đến đoạn trong cuốn sách của bác sĩ Johnson mô tả cái tư thế quái gở của con người ta và cái sung sướng chỉ có trong chốc lát.

Abel nằm lại và Melanie gối đầu lên vai anh. Abel lấy làm lạ thấy mình không còn thèm muốn gì cô ta nữa. Anh đang nghĩ xem tìm cách gì để cho cô đi khỏi đây mà không tỏ ra thô bạo, thì cô bỗng nói. "Em không ở lại đây cả đêm được đâu, Abel. Em có cuộc hẹn sáng sớm mai nên phải đi ngủ một lúc. Em không muốn để người ta tưởng cả đêm em nằm trên cái thảm Ba tư này của anh".

- Em phải đi à? - Abel nói, ra vẻ thất vọng nhưng thực tình không thất vọng lắm.

- Em rất tiếc, anh ạ. - Cô đứng dậy vào buồng tắm.

Abel nhìn cô mặc áo và kéo giúp cho cô chiếc khóa kéo trên áo. Anh thấy cô mặc quần áo và có vẻ nhanh chóng và dễ dàng hơn lúc vội vã cởi ra. Anh hôn lên bàn tay chào cô.

- Anh hy vọng chúng ta sẽ lại sớm gặp nhau, - Anh nói dối.

- Em cũng hy vọng thế. - Cô ta nói, và cô cũng biết rằng anh ta không nói thật.

Anh khép cửa lại rồi bước đến điện thoại ở bên giường - Cô Melanie Leroy ở phòng nào thế - Anh hỏi.

ở dưới nhà chưa trả lời ngay được. Anh nghe rõ cả tiếng giở sổ đăng ký.

Abel sốt ruột gõ ngón tay lên bàn.

- Không có ai đăng ký tên đó, thưa ông, - Dưới nhà trả lời. Ở đây chỉ có bà Malanie Seaton từ Dallas, Texas đến lúc chiều và sáng mai sẽ đi luôn".

Đúng bà đó đấy, - Abel nói. "Hóa đơn của bà ta tính vào tôi nhé".

- Thưa vâng.

Abel bỏ máy xuống, đi tắm nước lạnh một lúc lâu trước khi đi ngủ. Anh cảm thấy thoải mái, bước đến bên lò sưởi, rồi lên giường, tắt ngọn đèn đã chứng kiến hành động gian dâm đầu tiên của anh và để ý thấy vết loang cà phê trên thảm lúc này đã khô rồi.

Anh vừa giơ tay tắt đèn vừa nói to, "Con đĩ ngu ngốc".

Sau cái đêm đó, Abel còn thấy rất nhiều vết loang cà phê trên chiếc thảm Ba tư vào những tháng tiếp theo, vết do những cô phục vụ ngoan ngoãn gây ra, vết do những người khách không mất tiền gây ra, vì anh với Zaphia mỗi lúc một xa nhau hơn. Điều Abel không tính trước được là vợ anh đã thuê thám tử điều tra về anh và sau đó kiện đòi ly dị. Ly dị là chuyện hầu như không có trong cộng đồng những bạn bè Ba lan, phần lớn chỉ là cách ly hoặc lặng lẽ bỏ nhau. Abel cố thuyết phục Zaphia đừng làm thế, vì như vậy sẽ có ảnh hương đến chỗ đứng của anh trong cộng đồng người Ba lan, không những thế sẽ còn ngăn cản những hoạt động chính trị xã hội của anh sau này.

Nhưng Zaphia nhất quyết ly dị, dù muốn đi đến đâu thì đi. Abel ngạc nhiên, không ngờ cái người đàn bà rất giản dị trong bước đường thắng lợi của anh mà lại hóa ra, như George nói, một con qủy trong cuộc trả thù của cô ta như vậy.

Lúc Abel hỏi luật gia của anh xem đối phó thế nào, mới biết trong năm qua đã có không biết bao nhiêu cô phục vụ và những khách trọ không mất tiền đến đây với anh rồi. Anh đành chịu thua kiện, và điều duy nhất anh còn đấu tranh được là giữ lấy Florentyna lúc này đã mười ba tuổi và là niềm yêu thực sự của đời anh. Zaphia, sau một hồi gay go, chấp nhận số tiền bồi thường 500.000 đô la cộng với ngôi nhà ở Chicago và quyền được gặp Florentyna vào ngày cuối tuần của mỗi tháng.

Abel chuyển trụ sở và nhà riêng xuống New York. George gọi anh là "Nam nước Chicago lưu vong, vì anh đi khắp nơi trên đất Mỹ xây khách sạn mới và chỉ khi nào cần gặp Curtis Fenton anh mới trở về Chicago mà thôi.
 
Hai Số Phận - Chương 21
Bức thư để mở nằm trên bàn trong phòng khách, bên chiếc ghế William đang ngồi. Anh mặc áo ngủ và đã đọc bức thư ấy đến lần thứ ba, cố hình dung xem tại sao Abel Rosnovski lại muốn mua nhiều cổ phiếu của ngân hàng Lester như vậy, và tại sao ông ta lại cử Henry osbome làm giám đốc của công ty Nam tước. William cảm thấy có lẽ không nên cứ đoán mò nữa. Anh nhấc điện thoại lên.

Cái ông Chen mới này thật là giống bố. Khi anh ta đến căn nhà phía Đông đường 68 thì không cần phải tự giới thiệu nữa. Tóc anh ta bắt đầu chớm bạc ở đúng chỗ như bố anh ta trước kia, thân người tròn trặn trong một bộ quần áo cũng như của bố nữa.

Có lẽ cùng là bộ quần áo ấy chưa biết chừng. Wilham chăm chăm nhìn anh ta, cảm thấy anh không chỉ có giống bố mà thôi.

ông không nhớ tôi đâu, ông William- Nhà luật gia nói.

Trời ơi - William thốt lên. cuộc tranh luận lớn ở trường Harvard. Năm một ngàn chín trăm hai mươị... ?

- Hai mươi tám. Ông thắng cuộc tranh luận đó và hy sinh vai trò hội viên Porcell của ông.

William bật cười. "Có lẽ chúng ta ở cùng một tổ thì hơn vì cái nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa của ông sẽ cho phép ông hành động Như một nhà tư bản không có gì đáng phải xấu hổ".

Anh đứng dậy bắt tay Thađeus Cohen. Hai người tưởng như mình hãy còn đang là sinh viên chưa tốt nghiệp.

William mỉm cười. "Hồi ở Câu lạc bộ Porcell, ông đã không được uống gì. Bây giờ thì sao?".

Thađeus Cohen lắc đầu. "Tôi không uống gì", và nháy mắt một cái khiến William rất nhớ lại hồi đó.

Tôi e rằng bây giờ tôi cũng đã trở thành một nhà tư bản chính hiệu rồi".

Anh ta có cái đầu giống hệt như bố. Rõ ràng anh ta đã được thông báo đầy đủ hồ sơ về Rosnovski - Osborne và bây giờ sẵn sàng gặp William. William đã giải thích lại sự việc đúng như anh ta yêu cầu.

Như trước kia, họ có báo cáo trước mắt và báo cáo ba tháng một lần. Nội dung hết sức bí mật, nhưng tôi muốn ông tìm ra bất cứ gì, - Wllliam nói. tại sao Abel Rosnovski lại mua chứng khoán Lester? Liệu ông ta còn cảm thấy tôi là người chịu trách nhiệm về cái chết của Davis Leroy không? Liệu ông ta còn tiếp tục đấu tranh với Kane và Cabot mặc dầu bây giờ nó đã nhập vào với Lester không? Trong tất cả những chuyện này, vai trò của Henry osborne là gì? Liệu một cuộc gặp giữa tôi và Rosnovski có giải quyết gì không, nhất là nếu tôi nói ngân hàng, chứ không phải tôi đã từ chối không chịu ủng hộ Công ty Richmond"?. Ngòi bút của Thađeus Cohen chạy lẹt xẹt trên giấy đúng như trước kia bố anh đã làm.

Tất cả những câu hỏi này cần được trả lời càng nhanh càng tốt đề tôi có thể quyết định xem có phải thông báo cho ban giám đốc của tôi không.

Thađeus Cohen mỉm cười dè dặt, một cái cười giống như của bố anh trước kia, và đóng cặp lại. "Tôi rất tiếc là ông đang dưỡng bệnh mà phải bận tâm như thế này. Tôi sẽ tìm hiểu ngay những sự việc này rồi trở lại với ông". Ra cửa, anh ta dừng lại một chút. "Tôi rất khâm phục điều ông đã làm ở Remagen".

Mấy tháng sau đó, William đã nhanh chóng phục hồi sức khỏe, những vết sẹo trên mặt và trên ngực hầu như đã mất hẳn. Đêm đêm, Kate cùng thức với anh cho đến lúc nào anh buồn ngủ. Chị thầm nói, 'tạ Ơn Chúa, anh không sao cả" .dần dần anh không còn nhức đầu ghê gớm và mất ngủ nữa, cánh tay phải đã trở lại bình thường. Kate nhất đinh chưa cho anh trở lại làm việc nếu chưa đi nghỉ ít lâu ở vùng biển Tây Đại tây dương. Trên biển, William nghỉ với Kate còn nhiều hơn thời gian trước đây họ cùng ở Lon don. Kate lấy làm mừng là trên tàu không có ngân hàng cho William hoạt động, mặc dầu chị vẫn lo là nếu hai vợ chồng còn ở trên tàu thêm một tuần nữa thì chắc thế nào William cũng tìm cách mua lại con tàu này cho Lester và tổ chức lại hoàn toàn bộ máy với chương trình hoạt động của nó, biến nó thành một đường hàng hải khác. Trở về đến New York, anh đã là một con người cháy nắng và đứng ngồi không yên, do đó Kate không thể ngăn anh trở lại ngân hàng được.

William đã lại lao vào những vấn đề của ngân hàng Lester. Bộ máy bây giờ là một loạt những người mới, được chiến tranh rèn luyện, hoạt động nhanh nhẹn và có hiệu quả, quản lý những ngân hàng hiện đại của Mỹ. Tổng thống Truman giành thắng lợi bất ngờ một nhiệm kỳ nữa ở Nhà Trắng sau khi tờ Diễn đàn Chicago đã đưa lên những dòng tít rất lớn là Thomas E. Dewey thắng cử. William biết rất ít về vị cựu thượng sĩ nhỏ bé của bang Missouri kia, anh chỉ đọc báo và biết rằng đó là một đảng viên Cộng hòa rất trung thành, tin chắc đảng của ông sẽ tìm được người xứng đáng đưa họ lên trong cuộc vận động bầu cử năm 1952.

Báo cáo đầu tiên của Thađeus Cohen cho biết Abel Rosnovski vẫn còn tìm cách mua chứng khoán của Lester. Anh ta đã tìm gặp tất cả những người được hưởng di chúc của Charles Lester nhưng chỉ có một người nhận lời. Susan Lester thì từ chối không chịu gặp luật sư của William, vì vậy anh ta không làm sao biết được nguyên nhân việc cô ta bán đi sáu phần trăm cổ đông của mình. Anh chỉ đoán chắc là cô ta không có lý do tài chính nào để làm như vậy.

Tài liệu báo cáo của Cohen rất hoàn chỉnh.

Hình như Henry osborne được chỉ định làm giám đốc Công ty Nam tước tháng 5- 1946 với trách nhiệm đặc biệt về tài khoản trong ngân hàng Lester. Quan trọng hơn nữa là Abel Rosnovski đã đảm bảo cho chứng khoán của Susan Lester chỉ có về tay ông ta hoặc osbome mà thôi. Hiện nay Rosnovski làm chủ sáu phần trăm ngân hàng Lester và có vẻ sẵn sàng trả ít nhất 750.000 đô la nữa để mua số hai phần trăm của Peter Parfit. William biết rất rõ là một khi đã chiếm được 8 phần trăm rồi thì Rosnovski có thể làm gì. William còn thấy lo là tỷ lệ lãi suất của Lester không thuận lợi bằng Công ty Nam tước bây giờ đã đang cạnh tranh với những đối thủ như Hilton và Sheraton William nghĩ không biết có nên thông báo cho ban giám đốc về những đlều anh mới được biết này không, và còn nghĩ không biết có nên trực tiếp nói chuyện với Abel Rosnovski không. Mất mấy đêm không ngủ, anh quay sang hỏi ý kiến Kate.

- Anh đừng làm gì hết, - Kate nói. "Để xem có đúng những ý đồ của ông ta là như vậy không đã chứ. Có khi lại là cơn bão trong tách nước trà đó thôi".

- Với Henry osborne làm tay sai thì có thể biết chắc là cơn bão còn ra ngoài cả tách trà nữa. Anh không thể cứ ngồi đó mà chờ tìm hiểu xem âm mưu của họ đối với mình là thế nào.

- Ông ta có thể thay đổi chứ, William. Chuyện giao dịch cá nhân với ông ta đến nay cũng đã hơn hai chục năm rồi còn gì.

Kate không nói gì thêm, nhưng William đành cứ cho là như vậy. Anh không làm gì khác, chỉ chờ báo cáo hàng quý của Chen, và mong rằng linh cảm của Kate là đúng.
 
Hai Số Phận - Chương 22
Công ty nam tước kiếm được rất nhiều lợi nhuận trong tình hình kinh tế bùng nổ sau chiến tranh ở Mỹ. Từ những năm hai mươi đến giờ, chưa có khi nào kiếm tiền được nhanh chóng và dễ dàng như vậy. Vào những năm đầu của thập kỷ năm mươi, người ta bắt đầu tin rằng lần này thì sẽ bền lâu hơn. Nhưng Abel không bằng lòng với những thành công của mình chỉ về mặt tài chính mà thôi. Bây giờ nhiều tuổi hơn, anh bắt đầu lo nghĩ đến số phận của Ba lan trong thế giới sau chiến tranh.

Anh cảm thấy thành công nói trên không cho phép mình là kẻ đứng ngoài cách xa những bốn ngàn dặm như vậy được. Anh còn nhớ Pawel Za]eski, ông lãnh sự Ba lan ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã nói với anh rằng có lẽ đến đời anh thì nước Ba lan sẽ lại đứng lên được.

Abel làm bất cứ gì để có thể tác động và thuyết phục Quốc hội Mỹ có thái độ cứng rắn hơn trước việc người Nga kiểm soát những vệ tinh Dông âu của họ.

Cứ thấy mỗi chính phủ ******** liên tiếp ra đời ở đây, Abel lại cho rằng mình hy sinh vô ích. Anh bắt đầu vận động các chính khách ở Washington, nói với các nhà báo và tổ chức tiệc tùng cho những người Mỹ gốc Ba lan, cho đến khi bản thân sự nghiệp của Ba lan cùng đồng nghĩa với "Nam tước Chicagó' Tiến sĩ Teodor Szymanowski, trước kia là giáo sư ở trường đại học Cracow, viết một bài xã luận trên báo Tự do về cuộc đấu tranh của Abel để được thừa nhận", Abel lập tức tìm đến ông ta ngay. Giáo sư bây giờ đã già lắm rồi. Anh không ngờ ông gầy gò ốm yếu đến như vậy, chỉ có ý kiến của ông là rất mạnh mẽ.

ông nhiệt tình đón tiếp Abel, róc rượu vốt- ka Danzig mời anh uống, mà không cần hỏi anh có thích hay không.

Nam tước Rosnovski này, - Ông nói và đưa cốc rượu cho anh. - Từ lâu tôi đã khâm phục anh và cái cách anh đang làm cho sự nghiệp của chúng ta. Mặc dầu chưa có kết quả gì lắm, nhưng xem ra tình hình thì hình như anh không mất lòng tin bao giờ.

- Tôi mất sao được? Xưa nay tôi vẫn tin là bất cứ gì cũng có thể có được ở Mỹ.

- Nhưng Nam tước này, tôi e rằng những người hiện nay anh đang tìm cách tác động lại cũng chính là những người đã để cho xảy ra chuyện đó. Họ sẽ chẳng bao giờ làm gì tích cực cho nhân dân ta được tự do đâu.

- Tôi không hiểu ý giáo sư muốn nói gì. Tại sao họ lại không giúp đỡ chúng ta - Abel hỏi.

Giáo sư ngả người ra ghế.

- Nam tước, chắc anh biết rằng các quân đoàn Mỹ đã được lệnh đặc biệt là tiến chậm thôi để cho người Nga có thì giờ chiếm được vùng Trung âu càng nhiều càng tốt. Lẽ ra tướng Patton đã đến Berlin trước quân Nga từ lâu kia, nhưng Eisenhower bảo ông ta hãy từ từ Chính là những người lãnh đạo của chúng ta ở Washington - Những người mà anh định thuyết phục họ đem quân linh súng ống của Mỹ trở lại Châu âu ấy đã ra lệnh cho Eisenhower như thế đấy.

- Nhưng lúc đó họ chưa thể biết được Liên Xô sẽ thành ra thế nào. Người Nga cũng là đồng minh của chúng ta. Tôi thừa nhận là năm 1945 chúng ta quá yếu và quá thiện chí với họ, nhưng dù sao thì cũng không phải là người Mỹ đã phản bội nhân dân Ba lan.

Szymanovski chưa nói tiếp. Ông ngả thêm ra sau ghế và lim dim con mắt.

- Nam tước Rosnovski, tôi ước gì anh được biết đến ông em của tôi. Mãi đến tuần trước tôi mới được tin là nó đã chết cách đây sáu tháng trong một trại giam xô viết có lẽ không khác gì lắm với cái trại anh đã trốn ra được.

Abel dướn người tới như muốn chia buồn nhưng Szymanovski giơ tay ngăn lại Không, anh đừng nói gì hết Tự anh đã biết những trại giam đó rồi. Anh phải là người đầu tiên hiểu ra rằng tình cảm bây giờ không còn quan trọng nữa. Chúng ta phải thay đổi thế giới trong khi những người khác còn đang ngủ - Szymanovski ngừng lại. - Thằng em tôi chính là đã bị người Mỹ giao cho người Nga.

Abel ngạc nhiên nhìn ông.

- Người Mỹ ư? Sao có thể thế được? Nếu như em của ông bị quân Nga bắt ở Ba lan thì....

Em tôi không bị bắt ở Ba lan bao giờ. Nó được thoát ra khỏi trại giam của Đức gần Frankfurt. Người Mỹ giữ nó lại một tháng trong một. trại giam của những người không có nhà cửa, rồi sau đó giao nó lại cho người Nga.

- Không thể thế được. Có lý gì họ lại làm thế - Người Nga muốn rằng tất cả những ai là dân Xlavơ được trả về quê quán. Trả về quê quán để họ có thể thủ tiêu hoặc bắt làm khổ sai. Cái gì Đức không làm được thì Nga làm. Tôi có thể chứng minh rằng em tôi đã sống trong khu vực Mỹ chiếm đóng hơn một tháng.

- Nhưng, - Abel nói, - Đó là trường hợp cá biệt hay có nhiều người khác cũng như vậy?

- Ồ, có chứ, nhiều người khác nữa chứ, - Szymanovski thản nhiên nói- Hàng trăm ngàn người ấy chứ. Có lẽ đến một triệu. có lẽ chả bao giờ chúng ta có được con số chính xác. Rất có thể là giới cầm quyền Mỹ giữ kín về chiến dịch Kee Chanl.

- Chiến dịch Kee Chanl là cái gì, sao tôi không nghe thấy ai nói bao giờ? Chắc chắn là nếu mọi người biết rằng những người Mỹ chúng ta thả những tù nhân đã được giải phóng cho họ chết ở Nga, thì họ sẽ phải khủng khiếp lắm chứ.

- Chẳng có tài liệu chứng cớ gì về Chiến dịch đó cả.

Mark Clark, Chúa phù hộ cho ông ta, đã không tuân lệnh ấy và đã báo trước cho một số tù nhân biết, rồi lính Mỹ giúp cho họ trốn được trước khi đưa vào trại bên kia. Nhưng những người này vẫn còn đang lẩn lút và chả bao giờ dám công nhận chuyện đó. Một trong những người bất hạnh ấy là thằng em tôi. - Giáo sư dừng lại một chút. - Dù sao bây giờ cũng đã quá muộn rồi.

- Nhưng phải nói cho dân Mỹ biết chứ. Tôi sẽ thành lập một ủy ban, đi nói chuyện. Chắc chắn là Quốc hội sẽ nghe nếu chúng ta nói lên sự thật.

- Nam tước Rosnovski, tôi nghĩ điều này quá lớn đối với anh.

Abel đứng vụt dậy.

- Không, không, tôi không bao giờ đánh giá anh quá thấp đâu, - Giáo sư nói. - Nhưng anh còn chưa hiểu được cái tâm địa của những nhà lãnh tụ thế giới.

Nước Mỹ bằng lòng giao lại nhưng người tội nghiệp ấy cho Nga chỉ vì yêu cầu thế thôi. Tôi chắc họ không bao giờ nghĩ rằng sẽ có những chuyện đem ra xử hoặc tống giam. Nhưng cho đến bây giờ, sắp bước sang thập kỷ 50 rồi, vẫn chưa có ai thừa nhận rằng mình gián tiếp chịu trách nhiệm về chuyện đó. Không, họ sẽ chẳng bao giờ thừa nhận đâu. Đến một trăm năm nữa cũng chẳng có ai thừa nhận. Rồi đến lúc đó, sẽ chẳng có ai khác ngoài các nhà sử học sẽ quên mất rằng Ba lan mất nhiều sinh mạng trong chiến tranh hơn bất cứ quốc gia nào khác trên trái đất này, kể cả nước Đức. Tôi đã tưởng kết luận duy nhất anh có được ở đây là anh phải đóng một vai trò trực tiếp hơn trong chính trị kia chứ.

- Tôi đã có suy nghĩ về điều đó nhưng chưa thể quyết định được là làm như thế nào, bằng cách nào.

- Tôi có quan điểm riêng của mình về vấn đề này, Nam tước, vậy anh cứ liên lạc với tôi nhé. - Ông già từ từ đứng dậy và ôm lấy Abel. - Trong khi chờ đợi, anh làm gì được cho sự nghiệp của chúng ta thì cứ làm, nhưng anh đừng có ngạc nhiên mỗi khi người ta không chịu đến với anh nhé.

Về đến khách sạn Nam tước là Abel gọi ngay điện thoại và bảo tổng đài cho anh nói chuyện với văn phòng thượng nghị sĩ paull Douglas. paull Douglas là thượng nghị sĩ phái tư do của đảng Dân chủ ở Illinois, được bầu lên do bộ máy cua chicago giúp đỡ, ông ta thường sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu cua Abel vì biết rằng cử tri của ông gồm số người đông nhất trong cộng đồng Ba lan. Người trợ lý của ông là Adam Tomaszewiczl, chuyên giao dịch với cử tri Ba lan.

- Chào ông, Adam, Abel Rosnovski đây. Tôi có điều này hơi rắc rối muốn bàn với ngài Thượng nghị sĩ. Ông có thể thu xếp cho tôi gặp sớm được không?

- Hôm nay ông ấy lại đi vắng, thưa ông Rosnovski. Tôi biết là ông ấy sẽ vui lòng nói chuyện với ông và thứ năm này ông ấy mới về. Tôi sẽ yêu cầu ông ấy gọi trực tiếp cho ông. Tôi có thể nói lại với ông ấy là về chuyện gì được không?

- Được chứ. Là người Ba lan, chắc ông cũng quan tâm chuyện này. Tôi nghe từ những nguồn tin đáng tin cậy là các nhà đương cục Mỹ ở Đức có giúp vào việc đưa những người công dân Ba lan lưu vong trở về vùng đất do Liên Xô chiếm đóng và rất nhiều những công dân Ba lan ấy bị đưa vào các trại lao tù của người Nga, và rồi từ đó đến nay không có tin tức gì của họ nữa.

Đầu dây đằng kia im lặng một lát.

ông thượng nghị sĩ về tôi sẽ nói ngay, thưa ông Rosnovski. Xin cảm ơn ông đã gọi đến.

Ngày thứ năm, ông thượng nhhl sĩ không liên lạc với Abel. Ngày thứ sáu và cuối tuần cũng không thấy gì Sáng thứ hai, Abel lại gọi đến lần nữa. Lần này, vẫn là Dam Tomaszewicz trả lời điện thoại.

- A thưa vâng, ông Rosnovski, - Abel tưởng như có thể nghe thấy ông ta ngượng ngập. - Ngài thượng nghị sĩ có dặn lại để nói với ông. Lúc này, ngài đang rất bận, chắc ông cũng biết là có rất nhiều dự án phải thông qua trước khi Quốc hội nghỉ. Nghị sĩ có dặn tôi nói lại với ông là khi nào rỗi được là sẽ gọi đến cho ông ngay.

- Ông có nói với nghị sĩ những gì tôi đã nói không?

- Có chứ ạ. Nghị sĩ bảo tôi nói lại để ông yên tâm vì những điều đó chỉ là một thứ tuyên truyền chống Mỹ thôi. Nghị sĩ có cho ông biết đã nghe chính một người trong Bộ tham mưu liên quân nói quân đội Mỹ được lệnh không đưa đi bất cứ người nào lưu vong đang ở trong vùng Mỹ kiểm soát.

Tomaszewicz nói như kiểu ông ta đọc một bản tuyên bố đã chuẩn bị sẵn, và Abel cảm thấy như mình bị bưng bít và đây là lần đầu. Trước đây, Thượng nghị sĩ Douglas chưa bao giờ né tránh như vậy.

Abel bỏ máy xuống và bảo cô thư ký liên lạc với một thượng nghị sĩ khác, mà ông này thì đang nổi tiếng và không sợ có ý kiến về bất cứ ai.

văn phòng thượng nghỉ sĩ Mccarthy hỏi ai gọi đến.

- Tôi sẽ cố tìm ngài thương nghị sĩ, - Một giọng nói trẻ đáp.

Mccarthy đang là một nhân vật rất có quyền thế và Abel biết là may mắn lắm mới gọi nói chuyện được với ông ta một lúc.

- Ông Rosenevski, - Mccarthy nói.

Abel tự hỏi không biết ông ta cố tình đọc sai tên mình đi hay đó là do liên lạc tồi.

- Vấn đề cấp bách ông muốn bàn với tôi là gì thế- Thượng nghị sĩ hỏi. Abel ngập ngừng. Anh hơi chột dạ vì biết là mình đang nói chuyện thẳng với ông ta.

- Ông có điều gì bí mật cũng không ngại - Anh nghe thượng nghị sĩ nói thế, có lẽ vì ông ta cảm thấy anh ngập ngừng.

- Vâng, tất nhiên, - Abel nói rồi lại ngừng để suy nghĩ. "Ngài thượng nghị sĩ đúng là một người nói lên nguyện vọng của chúng tôi muốn được thấy Đông âu giải phóng khỏi ách đô hộ....".

- Phải, phải. Tôi cũng mừng thấy ông hoan nghênh điều đó ông Rosenevski.

Lần này thì Abel yên trí là ông ta đã đọc sai tên mình rồi, nhưng anh không nhắc đến chuyện đó làm gì Còn về Đông âu, - Nghị sĩ nói tiếp, - Chắc ông biết là chỉ khi nào bọn phản bội bị đẩy ra khỏi chính phủ chúng ta thì lúc đó mới có hành động thực sự để giải phóng đất nước đang bị giam hãm của ông được.

- Vâng, chính đó là điều tôi muốn nói với ngài Thượng nghị sĩ. Ngài đã rất thành công trong việc tố cáo sự lừa dối trong chính phủ chúng ta. Nhưng cho đến nay, một trong những tội lớn của họ vẫn chưa bị tố giác - Ông nói đến tội lớn nào thế, ông Rosenevski? Từ khi đến Washington tôi đã thấy được rất nhiều rồi.

- Tôi muốn nói đến... - Abel ngồi thẳng lại trên ghế,- .... việc các nhà cầm quyền Mỹ buộc hàng ngàn công dân Ba lan phải hồi cư sau khi chiến tranh kết thúc. Họ vô tội nhưng bị trả về Ba lan rồi đưa sang Liên Xô để làm khổ sai, và đôi khi còn bị giết nữa. - Abel chờ trả lời, nhưng anh không thấy nói gì. Anh nghe thấy cạch một tiếng, không biết có ai nghe câu chuyện này không.

- Làm sao ông có thể ngu ngốc đến như vậy được, ông Rosenevski? - Thượng nghị sĩ nói, hoàn toàn với một giọng khác trước.

- Ông dám gọi điện thoại cho tôi để nói rằng những người Mỹ- Những nhân vật rất trung thành của Mỹ - Đã đưa hàng ngàn người Ba lan về Nga rồi không ai được biết tin tức gì về họ nữa? ông muốn tôi tin được điều đó sao? Ngay đến một người nông dân Ba lan cũng không thể ngu ngốc như thế được. không hiểu tại sao có hạng người có thể chấp nhận được điều đó mà không có chứng cớ gì? Vậy ông cũng muốn tôi tin rằng những người lính Mỹ đó là không trung thành hay sao? Có phải ông muốn thế không ông Rosenevski, ông cho tôi biết tại sao ông lại nghĩ như vậy? Chẳng lẽ ông ngốc đến mức tin ở tuyên truyền của địch như vậy sao? Tại sao ông làm mất thì giờ của một thượng nghị sĩ Mỹ đang bận bao nhiêu thứ việc chỉ vì một lời bịa đặt của người ta cố tình gây hoang mang trong cộng đồng những người nhập cư ở Mỹ thế Abel ngồi im không động đậy, sững người về chuyện ông thượng nghị sĩ mắng mỏ. Trước khi ông ta chấm dứt một loạt những lời lẽ như vậy, Abel đã biết là có cãi lại cũng vô ích. Anh lấy làm mừng là vì nói điện thoại nên vị thượng nghị sĩ không trông thấy vẻ mặt ngạc nhiên quái lạ của anh.

- Thượng nghị sĩ, tôi chắc ngài nói đúng và tôi xin lỗi đã làm mất thì giờ của ngài, - Abel bình tĩnh đáp lại - Tôi không nghĩ được như vậy.

- Phải, cũng để cho ông thấy rằng bọn khốn kiếp chúng lừa dối người ta ghê lắm, - Mccarthy nói, giọng đã mềm hơn, - Ông phải luôn luôn đề phòng bọn chúng. Dù sao, tôi cũng hy vọng từ nay trở đi ông thấy rõ hơn mối nguy mà nhân dân Mỹ luôn luôn gặp phải.

- Vâng, tôi thấy rõ, Thượng nghị sĩ. Một lần nữa cảm ơn ngài đã bỏ thì giờ nói chuyện riêng với tôi. Xin chào ngài Thượng nghị sĩ.

Chào ông Rosenevski.

Abel nghe tiếng điện thoại cạch một cái. Anh biết rằng tiếng cạch ấy chẳng khác gì đóng cửa.
 
Hai Số Phận - Chương 23
William biết là mình đã già đi nhiều khi Kate nói đùa với ông về chuyện tóc bạc, những sợi tóc trước đây còn đếm được nhưng đến bây giờ thì chịu, và nhất là khi Richard bắt đầu đưa bạn gái về nhà. William vẫn thường khen Richard là khéo chọn bạn gái, những cô mà ông gọi là "phu nhân trẻ" vì tất cả những cô đó đều có vẻ hao hao như Kate, loại người ông cho là càng bước vào tuổi trung niên càng đẹp. Những cô con gái của ông, Virginia và Lucy, bây giờ cũng đã trở thành những thiếu phụ và mang những hình ảnh như của mẹ khiến ông cảm thấy rất hạnh phúc. Virginia đã gần như một nghệ sĩ. Mọi nơi trên tường, trong bếp và phòng ngủ của mấy anh em, đều có tranh của cô. Richard chế cô và bảo đó là những tác phẩm của thiên tài. Virginia trả thù chế lại bằng những lời bình luận ác hơn khi Richard bắt đầu học đàn xe- lô. Lukcy thì quý cả hai anh chị, cô không có thành kiến gì với ai hết, coi Virginia như một Picasso mới và Richard, một Casals mới. William thì chỉ lo không biết đến khi mình không còn đó để kiểm soát cuộc sống của con nữa thì tương lai ba đứa sẽ ra sao.

Trong con mắt của Kate thì cả ba đứa đều lớn lên đâu ra đấy. Richard, bây giờ đang học trường St.Paul, kéo đàn xe- lô đã khá nên được chọn vào chơi trong buổi hòa nhạc ở trường, còn Virginia thì vẽ giỏi đến mức đã có tranh được treo ở phòng ngoài nhà.

Tuy vậy cả nhà ai cũng thấy Lucy sẽ trở thành hoa khôi của gia đình này. Mới mười một tuổi, cô đã bắt đầu nhận được thư tình của những cậu con trai xưa nay chỉ quan tâm đến dã cầu.

Năm 1951, Richard được nhận vào học trường Harvard. Tuy anh không giành được học bổng về chuyên toán, nhưng Kate đã cho William thấy ngay là con ông đã từng chơi dã cầu và kéo đàn xe- lô ở trường St Paul, hai thứ thành tích mà William trước kia không bao giờ có được. William thầm tự hào về thành tích của con, nhưng cũng lẩm bẩm nói lại với Kate rằng ông chẳng thấy có nhà ngân hàng nào biết chơi dã cầu hay kéo đàn xe- lô.

Công việc ngân hàng đang đi vào thời kỳ mở rộng vì người Mỹ bắt đầu tin rằng lần này thi có hòa bình lâu dài. William hết sức bận rộn với công việc. Trong một thời gian không lâu, ông không còn cảm thấy mối đe dọa của Abel Rosnovski và những vấn đề liên quan nữa. Ông hầu như đã quên đi.

Những báo cáo ba tháng của Thađeus Chen tiếp tục gửi đến cho thấy Rosnovski dứt khoát không từ bỏ con đường ông ta đã chọn. Thông qua một thành phần thứ ba, ông ta đã tỏ ý cho mọi cổ đông, trừ William, biết rằng ông chú ý đến chứng khoán Lester. William ngại rằng cứ như thế này sẽ có 'lúc dẫn đến có sự đụng chạm trực tiếp giữa ông và người Ba lan kia.

ông bắt đầu cảm thấy đã sắp đến lúc ông phải thông báo cho ban giám đốc ngân hàng Lester biết về những hành động của Rosnovski, và nếu ngân hàng bị kiềm chế thật sự thì có lẽ ông sẽ xin từ chức, và điều đó sẽ có nghĩa là Abel Rosnovski đã hoàn toàn thắng lợi, và William thì trước nay không hề có khi nào ngờ được như vậy. Ông quyết định nếu cần phải đấu thì ông sẽ đấu chứ không chịu. Nếu như một trong hai người phải chịu thua thì ông sẽ làm mọi cách để đảm bảo rằng người thua ấy không phải là William Kate.

Nhưng vấn đề làm như thế nào về chương trình đầu tư của Abel Rosnovski thì cuối cùng đã tuột ra khỏi bàn tay William.

Đầu năm 1951, ngân hàng được mời ra đại diện cho một trong những công ty hàng không mới của Mỹ, gọi là Hàng không liên Mỹ. Cơ quan hàng không liên bang cho công ty này được quyền bay giữa hai bờ biển từ Đông sang Tây. Công ty đó đề nghị với ngân hàng Lester cấp vốn cho 30 triệu đô la, tức là khoản tiền cần thiết do chính phủ quy định.

Wilham nghiên cứu kỹ thấy công ty hàng không này và toàn bộ kế hoạch của họ là rất đáng ủng hộ.

ông tập trung thì giờ vào việc kêu gọi dư luận đóng góp để có được số tiền 30 triệu đô la. Ngân hàng, với tư cách người đỡ đầu cho chương trình này, bỏ cả vốn liếng của mình vào đó. Đối với William, đây là chuyện lớn nhất kể từ khi ông về Lester, và khi đưa ra thị trường để kêu gọi 30 triệu đô la, ông biết rằng đây là chuyện uy tín cá nhân của mình sẽ còn hay mất.

Tháng bảy, khi những chi tiết của việc đóng góp được công bố, chỉ trong vài ngày người ta đã mua chứng khoán rất nhiều. Wilham được các giới ca ngợi về cách ông đã giải quyết thành công chương trình ấy. Ông cũng rất sung sướng về kết quả ấy, cho đến một hôm đọc báo cáo của Thađeus Chen thì được biết rằng mười phần trăm chứng khoán của công ty hàng không này đã do một trong những công ty giả danh của Abel Rosnovski mua rồi.

William biết là đã đến lúc phải cho Ted Leach và Tony Simmons được biết về điều mà ông vẫn lo sợ từ trước đến nay. Ông mời Tony về New York và kể lại cho hai phó chủ tịch về câu chuyện ly kỳ của Abel Rosnovski và Henry osborne.

- Tại sao trước đây ông không cho chúng tôi biết? - Phản ứng đầu tiên của Tony Simmons là như vậy.

- Hồi ở Kane và Cabot, tôi đã giao dịch với hàng trăm công ty cỡ như công ty Richmond, và lúc đó tôi đâu có ngờ là họ cố tình trả thù như vậy. Chỉ đến khi Rosnovski mua mười phần trăm vốn của công ty hàng không liên Mỹ, thì tôi mới tin chắc là ông ta vẫn theo đuổi ý đồ ấy mà thôi.

- Tôi thì lại cho rằng rất có thể ông cường điệu quá chăng, - Tel Leach nói. - Có một điều tôi chắc chắn là không nên thông báo chuyện này cho toàn bộ ban giám đốc được biết. Vì nếu không chỉ được vài ngày sau khi công ty ra đời sẽ có ngay chuyện hoảng loạn và người ta đem bán hết chứng khoán.

- Điều đó là chắc chắn, - Tony Simmons nói.- Vậy sao ông không đi gặp cái lão Rosnovski ấy mà nói thẳng ra với ông ta đi?

- Đó chính là điều ông ta muốn tôi làm, - William đáp - Và ông ta sẽ tin chắc là ngân hàng chúng ta đang bị bao vây.

Nếu như ông tìm cách giải thích cho ông ta biết là trước đây ông đã tìm mọi cách thuyết phục ngân hàng ủng hộ công ty Richmond nhưng họ không nghe, thì như thế có thể thái độ Ông ta sẽ thay đổi được chăng - Tôi tin rằng sẽ chẳng ăn thua gì.

- Vậy ông bảo ngân hàng phải làm thế nào? - Ted Leach hỏi. - Chắc chắn là chúng ta không thể ngăn nổi Rosnovski mua chứng khoán Lester nếu ông ta tìm được người muốn bán. Nếu chúng ta tự mua chứng khoán của mình thì cũng vẫn không ngăn ông ta được, trái lại càng rơi vào bẫy của ông ta vì sẽ đẩy giá lên và càng làm tăng giá cổ phiếu của ông ta, như thế thì vị trí tài chính của chúng ta sẽ bị nguy ngay.

Tôi nghĩ có lẽ ông ta sẽ khoái mà nhìn thấy chúng ta chết dở với chuyện đó. Chúng ta đang ở cái thế được Harry Truman trông cậy, mà bây giờ sắp đến ngày bầu cử rồi, nếu có chuyện bê bối gì về ngân hàng thì hẳn là đảng Dân chủ sẽ tha hồ mà thích:

- Tôi nghĩ chả làm thế nào được. - William nói. - Tuy nhiên tôi cũng cần nói để các vị biết là Rosnovski sẽ có thể như thế nào trong trường hợp ông ta lại chơi chúng ta một cú bất ngờ nữa.

Tôi đoán là vẫn còn có cơ hội may mắn cho chúng ta, - Tony Simmons nói. - Cả chuyện này thực ra có tội gì đâu và ông ta chỉ tỏ rõ khâm phục cái tài đầu tư của ông thôi.

- Sao ông có thể nói thế được, Tony, khi ông biết là trong chuyện này có ông bố dượng của tôi dính líu vào đó? Dễ ông tưởng Rosnovski dùng Henry osbome để ủng hộ sự nghiệp của tôi sao? Như thế thì ông rõ ràng là không hiểu được Rosnovski. Tôi đã quan sát ông ta làm ăn cho đến nay đã hơn hai chục năm rồi. Ông ta không quen chịu thua đâu. Ông ta sẽ cứ ném con súc sắc cho đến khi nào được thì thôi. Giá như ông ta là một thành viên của gia đình thì....

ông đừng có bi tâm thần thế, William. Tôi cho rằng...

ông bảo tôi đừng bị tâm thần ư, Tony? ông hãy nhớ những điều khoản của công ty chúng ta giao quyền cho bất cứ ai nắm được tám phần trăm chứng khoán của ngân hàng đấy, một điều khoản mà chính tôi trước kia đã đưa vào để đề phòng bị gạt ra. Hiện nay ông ta chiếm sáu phần trăm rồi, và nếu như điều đó không phải là triển vọng khá nguy hiểm cho tương lai, thì ông cũng cần nhớ rằng chỉ trong một đêm là Rosnovski có thể giết chết công ty hàng không Liên Mỹ nếu ông ta quẳng toàn bộ chứng khoán ra thị trường.

- Nhưng như thế ông ta chẳng được gì, - Ted Leach nói. - Trái lại, chỉ mất rất nhiều tiền mà thôi.

- Ông chưa hiểu được đầu óc Abel Rosnovski như thế nào đâu, - William nói. - Ông ta có cái liều lĩnh của một con sư tử, thua thiệt đối với ông ta chả có nghĩa gì. Tôi đã nhanh chóng hiểu ngay rằng ông ta chỉ muốn ăn thua với tôi. Nếu rút chứng khoán trong công ty Liên Mỹ thì cố nhiên ông ta mất tiền, nhưng ông ta vẫn còn cả một loạt những khách sạn gỡ lại.

ông biết không, hiện nay ông ta có đến hai chục khách sạn, và ông ta biết rằng nếu công ty Liên Mỹ sập tiệm thì chúng ta cũng sẽ bị đánh ngã ngửa liền.

Là những nhà ngân hàng, cái mạng của chúng ta tùy thuộc nhiều vào lòng tin của công chúng, mà lòng tin ấy thì luôn thay đổi. Bây giờ, cái lòng tin ấy có thể bị Abel Rosnovski làm cho tan tác bất cứ lúc nào ông ta thấy cần.

- Hãy bình tĩnh lại đi, Wilham, - Tony Simmons nói. - Chưa đến nỗi như vậy đâu. Bây giờ chúng ta đã biết Rosnovski định làm gì, chúng ta có thể theo dõi sát được. Chúng ta có thể đối phó lại được với những thủ đoạn của ông ta nếu cần. Điều đầu tiên chúng ta nắm chắc là không ai được bán chứng khoán của mình ở Lester trước khi thăm dò ông đã. Ngân hàng sẽ hoàn toàn ủng hộ các chủ trương của ông. Riêng tôi vẫn nghĩ rằng ông nên nói chuyện trực tiếp với Rosnovski và hai người cứ nói thẳng vẫn nhau. Như vậy ít ra chúng ta cũng thể hiểu được ý đồ thật sự của ông ta là thế nào, và chúng ta có thể tự chuẩn bị cho mình một cách thích hợp.

- Ý kiến của ông cũng là như vậy chứ, Ted?

Vâng, đúng thế. Tôi đồng ý với Tony. Tôi nghĩ ông nên liên hệ trực tiếp với ông ta. Cũng chỉ là vì lợi ích cao nhất của ngân hàng nếu chúng ta hiểu được những ý đồ thực sự của ông ta là tốt hay không tốt.

William ngồi im lặng một lát.

- Nếu hai ông đều thấy như vậy thì để tôi thử xem,- Ông nói. - Tôi cũng phải nói thêm là tôi không đồng ý với các ông, nhưng có thể do cá nhân mình dính líu đến chuyện này nên xét đoán không được vô tư chăng. Các ông hãy cho tôi vài ngày để nghĩ xem gặp ông ta như thế nào là tốt nhất, và kết quả ra sao sẽ nói lại để các ông biết.

Sau khi hai ông phó chủ tịch bước ra rồi, William ngồi lại một mình, suy nghĩ về hành động mà ông đã đồng ý tiến hành, và trong bụng tin chắc là sẽ ít có hy vọng thành công với Abel Rosnovski chừng nào Henry osborne còn dính vào đó.

Bốn ngày sau, William ngồi một mình trong phòng làm việc và dặn lại những người dưới quyền là trong bất cứ trường hợp nào cũng không ai được vào làm ngắt quãng. Ông biết rằng Abel Rosnovski cũng đang ngồi trong phòng làm việc của ông ta ở khách sạn Nam tước New York. Ông đã đặt sẵn một người đứng suốt buổi sáng ở khách sạn và chỉ có mỗi nhiệm vụ là khi nào thấy Rosnovski xuất hiện thì báo về. Người đứng chờ ấy đã điện thoại về. Anh ta báo Abel Rosnovski đã đến lúc tám giờ hai mươi bảy phút, đã lên thẳng chỗ làm việc của ông ta ở tầng bốn mươi hai và từ đó không thấy đi đâu nữa. Wilham nhấc điện thoại lên, bảo tổng đài gọi cho khách sạn Nam tước.

- Nam tước New York đâỵ.

- Xin cho gặp ông Rosnovski, - William hơi cảm động nói với một cô thư ký.

Xin cho gặp ông Rosnovski, - Ông nhắc lại. Lần này giọng hơi cứng cỏi hơn một chút.

- Xin cho biết ai gọi? - Cô thư ký hỏi lại.

- Tên tôi là William Kane.

Yên lặng một lúc - Hay là Wilham cảm thấy lâu?

- Tôi không chắc ông ấy có nhà không, thưa ông Kane. Để tôi hỏi xem.

Lại yên lặng một lúc lâu.

- Ông Kane phải không ạ?

- Ông Rosnovski phải không ạ?

- Tôi làm gì cho ông được đây, ông Kane? - Một giọng nói rất bình tĩnh và hơi cường điệu hỏi.

Mặc dầu William đã chuẩn bị rất kỹ những lời nói đầu tiên của mình, ông vẫn cảm thấy giọng nói của mình hơi có vẻ lo lắng.

- Tôi hơi lấy làm lo ngại về những cồ phần của ông trong ngân hàng Lester, ông Rosnovski, - Ông nói. - Và do cái thế mạnh của ông đã có được ở một trong những công ty chúng tôi đại diện, nên tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc chúng ta nên gặp nhau để thảo luận xem ông định như thế nào. Ngoài ra cũng có một chuyện riêng tôi muốn để ông biết.

Yên lặng một lúc lâu. Người ta đã cắt rồi chăng?

- Chẳng có gì đòi hỏi chúng ta phải gặp nhau cả, ông Kane. Tôi đã quá biết về ông rồi nên không cần phải nghe ông thanh minh những gì cho quá khứ. Ông hãy cứ luôn luôn mở mắt ra xem, rồi ông sẽ thấy rõ những ý đồ của tôi là thế nào. Nó rất khác với những gì đã nói trong Kinh Thánh đấy, ông Kane ạ. Một ngày kia ông sẽ nhảy ra ngoài cửa sổ tầng mười bảy của một trong những khách sạn của tôi, vì ông sẽ rất khó khăn với những cổ phần của ông trong ngân hàng Lester. Tôi chỉ cần hai phần trăm nữa là có thể dùng đến Điều khoản số Bảy, và cả hai chúng ta đều biết điều khoản đó là gì, phải không? Rồi có lẽ lần đầu tiên ông sẽ thấy được là trước kia Davis Leroy nghĩ thế nào sau khi mất hàng tháng lo nghĩ về chuyện ngân hàng đối xử với mình. Bây giờ ông hãy cứ ngồi đó mà tự hỏi xem một khi tôi đã có tám phần trăm cổ phần rồi, tôi sẽ đối đãi với ông thế nào nhé.

Những lời của Abel Rosnovski khiến William rợn người, nhưng ông cố giữ bình tĩnh trong khi đấm tay lên mặt bàn.

Tôi có thể hiểu được ông nghĩ thế nào, ông Rosnovski, nhưng tôi nghĩ có lẽ hai chúng ta nên gặp nhau nói rõ chuyện này thì hơn. Trong chuyện này có một vài chỗ mà tôi cho rằng ông chưa hiểu hết.

Tỷ dụ như ông đánh lừa Henry osborne về chuyện năm trăm ngàn đô la chứ gì, phải không ông Kane?

William bỗng chốc như cứng lưỡi ra không nói được anh muốn nổi khùng lên nhưng lại một lần nữa lại cố giữ bình tĩnh.

- Không, ông Rosnovski ạ. Điều tôi muốn nói với ông không liên quan gì đến ông osbome. Đây là chuyện riêng và chỉ liên quan đến ông thôi. Tuy nhiên tôi cũng phải đảm bảo với ông rằng tôi chưa hề lừa dối Henry osborne về một đồng xu nào hết.

- Đó không phải là ý kiến của Henry. Ông ta bảo ông chịu trách nhiệm về cái chết của chính mẹ Ông để khỏi phải trả nợ gì ông ta cả. Sau khi ông đã đối xử với David Leroy như thế, tôi cho rằng có thể tin được điều Henry nói.

Chưa bao giờ William phải cố kiềm chế mình như bây giờ. Con người kia cho ông là người như thế nào mới được chứ. Ông lặng đi đến mấy giây mới nói lại được - Tôi đề nghị chúng ta có thể thanh toán chuyện hiểu lầm này bằng một cuộc gặp gỡ ở chỗ nào đó tùy ông chọn, một chỗ mà không ai nhận ra được chúng ta. Được không ạ?

- Chỉ có một chỗ mà không ai nhận ra được ông thôi, ông Kane.

- Ở đâu thế? - William hỏi.

ở trên thiên đường ấy, - Abel đáp, rồi bỏ máy xuống.
 
Hai Số Phận - Chương 24
Gọi cho tôi Henry osborne ngay, - Ông ta bảo cô thư ký.

ông ta gõ ngón tay lên mặt bàn đến gần mười lăm phút chờ cô thư ký tìm ra Nghị sĩ osborne lúc này đang dẫn một số những cử tri của mình đi thăm nhà Quốc hội.

- Abel, ông đấy à?

- Phải, Henry. Tôi nghĩ có lẽ ông là người đầu tiên nghe nói rằng Kane đã biết hết mọi thứ. Như vậy là bây giờ cuộc chiến ra ngoài công khai rồi.

- Ông nói thế nào? Hắn ta biết hết mọi thứ ư? ông có nghĩ là hắn biết tôi cũng có dính vào đấy không - Henry lo lắng hỏi.

- Biết quá đi chứ, và hình như hắn còn biết rõ cả những tài khoản đặc biệt của công ty, cổ phần của tôi trong ngân hàng Lester và trong công ty hàng không Liên Mỹ nữa.

- Làm sao hắn có thể biết hết được nhỉ? Chỉ có ông với tôi là biết về những điều khoản đặc biệt thôi mà.

- Còn Curtis Fenton nữa, - Abel ngắt lời.

- Phải. Nhưng ông ta chả bao giờ báo cho Kane biết được - Chắc là ông ta rồi. Không còn ai khác vào đó. Ông đừng quên rằng Kane giao thiệp trực tiếp vơi Curtis Fenton khi tôi mua công ty Richmond của hắn ta. Tôi đoán họ vẫn duy trì một kiều liên lạc nào đó.

- Lạy Chúa?

- Ông có vẻ lo lắm hả, Henry? - - Nếu William Kane biết mọi thứ thì chuyện hoàn toàn khác hẳn rồi. Tôi báo cho ông biết nhé, Abel, hắn không có chịu thua đâu.

Thì tôi cũng vậy, - Abel nói. - William Kane không dọa tôi được, nhất là trong khi tôi nắm các chủ bài trong tay. Cổ phần mới đây nhất của ta trong chứng khoán ở chỗ Kane là thế nào?

- Tôi không nhớ rõ lắm, ông có sáu phần trăm ở Lester và mười phần trăm ở công ty hàng không Liên Mỹ, cộng với những khoản phụ Ở các công ty khác liên quan ông chỉ cần hai phần trăm nữa của Lester là vận dụng Điều khoản Bẩy được rồi, còn Peter Parfitt thì chưa dứt khoát.

- Thế thì tốt, - Abel nói. - Tôi thấy tình hình không thể tốt hơn được. Ông cứ tiếp tục nói chuyện với Parfitt, bảo ông ta là tôi không vội, trong khi đó thì Kane lại không thể quan hệ với ông ta. Nhưng ông đừng làm gì vội, chờ tôi đi Châu âu về đã nhé. Sau cuộc nói chuyện bằng điện thoại của tôi với ông Kane sáng nay, tôi có thể đảm bảo với ông là hắn ta đang toát mồ hôi, nói theo cách của những người lịch sự.

Nhưng, Henry này, tôi cho ông biết một điều bí mật nhé:

tôi chẳng lo gì hết. Cứ để hắn tiếp tục như thế đã vì tôi chưa có ý gì muốn hành động vội. Để bao giờ thuận tiện và sẵn sàng đã.

Tốt thôi, - Henry nói. - Nếu có chuyện gì xẩy ra đáng phải lo, tôi sẽ báo cho ông biết.

- Ông phải nhớ kỹ trong đầu nhé, Henry, rằng chúng ta hoàn toàn không có gì đáng phải lo hết.

Chúng ta đã nắm được dái ông bạn Kane của ông rồi, và bây giờ thì tôi cứ từ từ bóp lại thôi.

- Thế thì hay đấy, - Henry nói, giọng khoái trá.

- Đôi khi tôi nghĩ có lẽ ông căm ghét Kane hơn cả tôi đấy - Chúc ông đi Châu âu vui vẻ nhé. - Henry cười một cách khó chịu.

Abel bỏ máy xuống rồi ngồi nhìn vào khoảng không một lúc xem sẽ làm gì tiếp. Ông văn gõ ngón tay lên bàn. Cô thư ký bước vào.

Cho tôi nói chuyện với ông Curtis Fenton ở Ngân hàng Tín dụng Continental, - Ông nói nhưng không nhìn lên cô ta. Lại vẫn gõ ngón tay lên bàn. Vẫn chăm chăm nhìn vào khoảng không. Lát sau, chuông điện thoại reo.

Fenton hả?

- Chào ông Rosnovski, ông khỏe không?

Tôi muốn đóng tất cả tài khoản của tôi ở ngân hàng ông.

Đầu dây đằng kia không có trả lời.

- Ông nghe rõ tôi không, Fenton?

Có- Nhà ngân hàng hết sức ngạc nhiên. - Tôi xin hỏi tại sao thế, ông Rosnovski?

Vì Judas chưa bao giờ là tông đồ được tôi ưa thích cả, có vậy thôi. Từ lúc này trở đi, ông không còn trong ban giám đốc Công ty Nam tước nữa. Ông sẽ nhận được văn bản tử tế về cuộc nói chuyện này trong đó yêu cầu ông chuyển tài khoản sang ngân hàng nào.

Nhưng tôi không hiểu tại sao, ông Rosnovski. Tôi có làm gì để ông....

Abel bỏ máy xuống nhìn con gái đang bước vào.

- Nghe có vẻ không vui lắm, hả bố.

Đó không phải là chuyện vui, nhưng chẳng có liên quan gì đến con đâu, con gái yêu. Abel nói và đổi giọng ngay. - Con có kiếm được đủ những thứ trang phục con cần không?

- Có cảm ơn bố. Nhưng con không chắc chắn là ở London và Paris họ mặc những gì. Chỉ mong là con mua được những thứ hợp với họ thôi. Con không muốn bị lạc lõng.

Con sẽ nổi bật cho mà coi, con yêu quý. Bất cứ ai có được khẩu vị như con cũng sẽ nồi bật. Con sẽ là người đẹp nhất mà từ nhiều năm nay bây giờ Châu âu mới có được. Họ sẽ biết quần áo của con không phải là thứ được phân phát. Bọn trẻ Châu âu sẽ tranh nhau mà giành lấy con, nhưng đã có bố ở đó ngăn chúng lại. Bây giờ bố con mình hãy đi ăn đã, rồi bàn xem ở London chúng ta làm gì.

Mười ngày sau khi Florentyna đã ở cả một thời gian cuối tuần với mẹ - Abel không bao giờ hỏi đến mẹ cô nữa - Hai bố con lên máy bay đi từ Idlewild ở New York đến sân bay Heathrow ở London. Chuyến bay trên chiếc Boeỉng 377 mất gần mười bốn giờ. Mặc dầu họ đã có khoang riêng trên máy bay, vậy mà khi đến Claridge ở phố Brook, hai bố con vẫn thấy cần được ngủ thêm một giấc nữa.

Abel đi chuyến này có ba lý do:

một là, xác định lại những hợp đồng xây dựng khách sạn Nam tước mới ở London, Paris, và có thể cả ở Rome; hai là, cho Florentyna có dịp được thấy Châu âu lần đầu tiên trước khi cô đi Radcliffe để học ngôn ngữ hiện đại; và ba là, và điều này là quan trọng nhất, để ông thăm lại tòa lâu đài ở Ba lan xem còn có cơ hội nào chứng minh được rằng ông là chủ của tòa lâu đài đó không.

London đối với cả hai bố con đều đạt yêu cầu. Những cố vấn của Abel đã tìm được một chỗ ở góc Công viên Hyde, ông đề nghị những người của ông bắt đầu thương thảo ngay đề có đất cùng những giấy phép cần thiết cho một Nam tước ra mắt ở thủ đô nước Anh. Florentyna thấy cảnh London sau chiến tranh thật kham khổ, rất khác với cảnh xa hoa của cô ở nhà, nhưng những người dân London hình như không lấy thế làm buồn mà vẫn tự coi mình như một cường quốc trên thế giới. Cô được mời đến các bữa tiệc và vũ hội. Bố cô đã đoán đúng khi ông nói là quần áo cô mặc rất hợp thời và rất được những thanh niên Châu âu để ý Mỗi đêm đi về cô lại phấn khởi kể lại cho bố nghe mình đã chinh phục được những ai nhưng rồi đến sáng hôm sau lại quên đi. Nhưng cô không thể không nhắc đến những anh chàng đã tỏ ra rất lịch sự với cô nhất là những người có vai vế trong Hoàng cung và trong Quốc hội.

ở Paris, hai bố con vẫn tiếp tục hoạt động sôi nổi, vì hai bố con đều thông thạo tiếng Pháp nên quan hệ với người Paris cũng thoải mái như với người Anh vậy. Thường cứ đến cuối tuần thứ hai là Abel bắt đầu thấy chán và chỉ muốn trở về nhà làm việc ngay.

Nhưng lần này có Florentyna đi theo nên ông không sốt ruột Từ khi chia tay với Zaphia, con gái là trung tâm của cuộc đời ông và cũng là người duy nhất thừa hưởng những gì ông để lại.

Đến lúc phải rời Paris thì cả hai bố con không ai muốn đi. Họ Ở lại thêm vài ngày, lấy cớ là Abel còn phải thương lượng để mua lại một khách sạn đã ọp ẹp ở đường Raspail. Người chủ ngôi nhà này là một ông có tên là Neuffe, trông còn ọp ẹp hơn cả ngôi nhà nữa.

Abel không báo cho ông ta biết là sau khi mua, ông sẽ cho phá đi hoàn toàn và làm lại mới nguyên. Mấy ngày sau khi ông Neuffe ký giấy bán rồi, Abel ra lệnh cho san phẳng chỗ đó. Rồi hai bố con đi Rome, trong bụng vẫn còn tiếc rẻ Paris.

Sau cái không khí hữu nghị của đất Anh và cái vui của thủ đô Pháp, thì cái thành phố gọi là vĩnh cửu này lại quá tối tăm nhếch nhác khiến cho hai bố con chán ngay từ đầu. Người La mã chẳng có gì để mà vui cả Hai người khách du lịch này cảm thấy tiếc những giờ phút ở London và Paris. Ơ London họ đi la cà trong công viên Hoàng cung, ngắm nhìn những tòa nhà lịch sử, và Florentyna còn được nhảy đến tận khuya. Ơ Pari, họ được đi xem ca kịch, ăn trưa trên bờ sông Siene, đi thuyền dưới sông qua nhà thờ Đức Bà rồi ăn tối ở Khu phố La tinh. Còn ở Rome, Abel chỉ thấy có cảm giác tài chính không ổn định, do đó ông quyết định có lẽ sẽ thôi không xây dựng khách sạn Nam tước ở cái thủ đô Ý này nữa. Florentyna cảm thấy bố ngày càng sốt ruột muốn về thăm tòa lâu đài của ông ở Ba lan một lần nữa, vì vậy cô đề nghị rời nước Ý sớm một ngày.

Abel thấy rằng xin được thị thực của bộ máy quan liêu cho bố con ông vào qua được Bức màn sắt còn khó hơn là xin giấy phép xây khách sạn 500 phòng ở London. Nếu là người không kiên trì thì đã bỏ đi rồi, Abel và Florentyna thuê một chiếc xe đi Slonim. Họ phải đứng chờ hàng giờ ở đồn biên phòng Ba lan.

Cũng may mà Abel thông thạo tiếng Ba lan nên rất đỡ Giá như những người lính biên phòng kia biết trước rằng tiếng Ba lan của ông giỏi như vậy thì có lẽ họ đã có thái độ khác đối với ông rồi. Abel đổi 500 đô la ra tiền zloty - Người Ba lan thấy thế có vẻ hài lòng - Rồi cho xe đi tiếp. Càng đến gần Slonim, Florentyna càng hiểu được chuyến đi này đối với cha con cô có ý nghĩa biết chừng nào.

Bố này, con chưa thấy bố phấn khởi như thế bao giờ.

Đây là nơi bố ra đời, - Abel giải thích. - Sau một thời gian dài ở Mỹ như vậy, mà ở đó thì sự vật thay đồi hàng ngày, bây giờ về đây bố cảm thấy như từ khi bố đi đến nay chưa có gì thay đổi hết, thành ra bố tưởng như không có thật.

Xe càng gần đến Slonim, những cảm giác của Abel rộn hẳn lên vì sắp trông thấy nơi sinh ra mình. Ông tưởng như còn nghe lại được tiếng nói con trẻ của mình trước đây gần bốn mươi năm hỏi Nam tước xem có phải đã đến lúc các dân tộc Châu âu bị chìm đắm sẽ tỉnh dậy và mình sẽ có thể đóng vai trò của mình được chưa. Nghĩ đến giờ phút xa xưa ấy và nghĩ đến vai trò nhỏ bé của mình, ông rơi nước mắt.

Cuối cùng họ đi vòng con đường dẫn vào khu đất của Nam tước và trông thấy chiếc cổng sắt ở phía ngoài lâu đài. Abel phấn khởi cười to và dừng xe lại.

- Tất cả đúng như tôi đã nhớ lại. Không có gì thay đổi hết. Vào đây con, vào đây xem căn lều bố đa ở cho đến lúc lên năm tuổi. Chắc không còn ai sống ở đây đâu Rồi sau đó ta sẽ đi xem tòa lâu đài của bố.

Florentyna theo bố đi xuống một con đường nhỏ vào rừng đầy những cây sồi và cây phong mốc thếch những rêu và có lẽ đến một trăm năm nữa cũng vẫn thế. Đi chừng vài chục phút thì hai bố con đến trước một ngôi nhà lụp xụp của người thợ săn. Abel đứng nhìn. Ông quên mất rằng căn lều là ngôi nhà đầu tiên của ông rất bé, thế mà chín mạng người đã sống trong đó được Cái mái ra. đã hỏng chưa chữa, tường đá đã lở đi một ít, cửa sồ xiêu vẹo. Mảnh vườn ương rau trước kia bây giờ không nhận ra được vì cỏ đã mọc đầy Mọi người đã bỏ nơi này đi cả rồi chăng ?

Florentyna cầm lấy tay bố tử từ bước đến trước cửa. Abel đứng im không động đậy, Florentyna gõ cửa. Họ im lặng chờ đợi. Florentyna lại gõ, lần này gõ to hơn, và họ nghe thấy trong nhà như có ai đi ra.
 

Có thể bạn quan tâm

Top