• Hạt Bụi Nhỏ •
Khổ vì lồn
- Được rồi, được rồi. - Một giọng Ba lan hơi gay gắt vọng ra, rồi cánh cửa từ từ mở. Một người đàn bà già, gầy guộc và người đã gập xuống, mặc toàn đồ đen, ngẩng lên nhìn hai người. Chiếc khăn quấn trên đầu để lộ mớ tóc trắng phau bù xù. Đôi mắt xám lờ đờ ngơ ngác.
- Không thể như thế này được, - Abel khẽ nói bằng tiếng Anh.
Các người muốn gì? - Người đàn bà hỏi với giọng ngờ vực. Bà cụ không còn răng nữa, mũi miệng với cằm lõm vào thành một vòng cung.
- Chúng tôi vào trong nhà nói chuyện với cụ được không? - Abel trả lời bằng tiếng Ba lan.
Bà cụ nhìn từ người nọ sang người kia với vẻ sợ hãi. - Bà cụ làu bàu.- Bà già Helena này có làm gì đâu?
Vâng, tôi biết, - Abel ôn tồn nói. - Tôi đem tin mừng đến cho cụ đây.
Bà cụ có vẻ miễn cưỡng để hai người bước vào trong căn phòng trống trải lạnh lẽo, nhưng không mời ai ngồi. Căn phòng vẫn như xưa, hai chiếc ghế, một chiếc bàn với một cái thảm mà ngày xưa lúc ra đi ông không nhớ nó bằng gì. Florentyna rùng mình.
Tôi không đốt lửa được - Bà cụ đưa chiếc gậy chọc vào lò Gộc củi đã tàn không còn cháy được nữa. Bà cụ gại tay vào túi. - Phải có giấy mới được. - Chợt bà nhìn lên Abel, tỏ vẻ chú ý hơn, và hỏi. - Ông có giấy không?
Abel vẫn cứ chăm chú nhìn bà cụ. Ông nói.
- Bà không nhớ tôi à?
- Không tôi không biết ông là ai.
- Có bà có biết đấy, Helena. Tên tôi là.... Wladek.
- Ông biết thằng Wladek nhà tôi à?
Tôi tên là Wladek đây.
- Ồ không đâu, - Bà nói với một giọng xa xôi, buồn thảm. - Nó tốt với tôi lắm.... người nó có vết của Chúa để lại, Ngài Nam tước mang nó đi cho nó làm thiên thần. Phải, ông ấy đã mang nó đi, thằng bé nhỏ nhất của tôị..
Giọng bà cụ đứt quãng và nhỏ dần. Bà ngồi xuống, thủ hai bàn tay gầy guộc vào lòng.
- Tôi đã về đây, - Abel nói dằn giọng hơn nữa, nhưng bà cụ không để ý gì đến ông, rồi lại run run vang lên trong phòng như chỉ có mình bà cụ Ở đây thôi.
- Chúng nó giết chồng tôi, giết Jasio của tôi, rồi tất cả những đứa con yêu quý của tôi bị bắt vào trại giam. Trừ có con nhỏ Sophia thôi. Tôi giấu nó vào một chỗ kín, rồi chúng nó bỏ đi. - Giọng bà đều đều, mệt nhọc.
- Còn Sophia rồi ra sao? - Abel hỏi.
- Cuộc chiến tranh sau, bọn Nga lại bắt nó đi nữa,- Bà buồn bã nói.
Abel rùng mình.
Bà cụ như dần dần nhớ ra.
- Ông muốn gì? Tại sao ông lại hỏi tôi thế? - Bà nói.
- Đây là con gái tôi, - Florentyna.
- Tôi cũng có đứa con gái tên là Florentyna đấy, nhưng bây giờ chỉ còn một mình tôi.
- Nhưng tôị... - Abel nói và định cởi khuya áo sơ- mi:
Florentyna ngăn ông lại.
- Chúng tôi biết, - Cô nói và cười với bà cụ.
- Cô làm sao biết được? Đó là chuyện từ lâu trước khi cô ra đời kia mà.
- Trong làng họ bảo thế mà. - Florentyna nói.
Các người có giấy không? - Bà cụ hỏi. - Tôi cần có giấy để đốt lửa lên.
Abel nhìn sang Florentyna không biết làm thế nào.
Không ạ. Rất tiếc là chúng tôi chẳng có giấy gì mang theo.
Vậy các người muốn gì? - Bà cụ hỏi lại với giọng gắt gỏng như trước.
- Không ạ. - Abel nói, biết là bà cụ không thể nào nhận ra mình được nữa. - Chúng tôi chỉ muốn đến chào bà thôi. - Ông rút ví ra, lấy hết cả tiền zloty mới đã đổi ở biên giới và đưa cho bà cụ.
- Cảm ơn ông, cảm ơn ông, - Bà cụ cầm lấy từng tờ bạc, mắt long lanh vui sướng.
Abel cúi xuống hôn người mẹ nuôi của mình, nhưng bà cụ lui lại.
Florentyna cầm tay bố dắt ông ra ngoài và đi theo con đường trở về chỗ xe đỗ.
Bà cụ đứng trong cửa sổ nhìn ra cho đến lúc hai người đi khuất. Rồi bà lấy những tờ bạc mới ấy vo rúm cả lại từ từ bỏ vào trong lò. Lửa bén ngay. Bà cụ lại nhặt những thanh củi nhỏ đặt lên trên đống tiền zloty đang cháy rồi ngồi xuống tiên đống lửa. Đã mấy tuần nay bây giờ bà mới được ngồi xoa tay hướng cái ấm áp này đây.
Trên đường trở ra xe, Abel không nói gì. Đến tận chiếc cổng sắt ông mới cố quên đi căn lều nhỏ vừa rồi và bảo Florentyna:
- Con sắp được thấy tòa lâu đài đẹp nhất thế giới.
Bố đừng nói quá đáng nhé.
- Nhất thế giới đấy, - Abel khẽ nhắc lại.
Florentyna cười.
- Rồi con sẽ bảo nó như thế nào nếu so với Versailles.
Hai bố con lại ngồi lên xe. Abel lái qua cổng. Ông nhớ lại chiếc xe ông đã được ngồi ngày xưa trên đường đi đến lâu đài. Bao nhiêu ký ức diễn ra trong đầu.
Những ngày còn nhỏ được ở với Nam tước và Lion thật sung sướng, những ngày đen tối trong nhà hầm do bọn Đức canh gác, những ngày đau khổ bị buộc phải rời tòa lâu đài yêu quý và bị quân Nga bắt đi, biết là sẽ chẳng bao giờ được thấy lại ngôi nhà này nữa. Thế mà nay, chính ông, Wladek Koskiewicz, đã trở lại đây, trở lại trong chiến thắng để đòi lại những gì là của mình.
Chiếc xe đi lên con đường gồ ghề ngoằn ngoèo. Cả hai bố con đều im lặng, nghĩ bụng đến chỗ rẽ kia thế nào cũng trông thấy ngôi nhà của Nam tước Rosnovski. Abel đỗ xe lại nhìn tòa lâu đài. Không ai nói một lời - Vì có gì đâu để nói? - Mà chỉ biết nhìn cảnh tàn phá trước mắt và không tin được ở mắt mình, như những gì còn lại của một giấc mơ.
Abel và Florentyna chậm chạp bước ra ngoài xe. Vẫn không ai nói gì. Florentyna nắm chặt lấy tay bố.
Những giọt nước mắt của ông chảy ròng xuống má. Tất cả tòa lâu đài chỉ còn lại một bức tường đứng sững như muốn khoe lại cái vinh quang xưa, còn đều là gạch vụn và đá đỏ. Ông rất muốn kể lại cho cô nghe đâu là những đại sảnh, đâu là nhà ngủ, nhà ăn.
Abel bước đến ba nấm đất bây giờ cỏ xanh đã mọc dầy phủ kín và bảo cô đó là những ngôi mộ của Nam tước, của con ông là Leon, và của chị Florentyna. Đến mỗi nấm đất, ông dừng lại và chỉ nghĩ ước gì đến bây giờ Leon và Florentyna vẫn còn sống. Ông qùy xuống chân mộ. Những cảnh trong giây phút khủng khiếp cuối cùng điền lại trong óc ông rất rõ nét. Con gái ông đứng bên, để tay lên vai ông mà không nói gì. Một lúc sau Abel mới đứng dậy. Hai bố con đi vào giữa đống gạch vụn và những viên đá vỡ phủ lên nơi trước kia đã từng là những căn phòng lộng lẫy vang vọng tiếng cười. Abel vẫn không nói gì. Bố con cầm tay nhau đi xuống những căn hầm. Xuống đến đây, Abel ngồi phệt xuống nền đất ẩm gần chiếc khung cổng sắt, chỉ còn lại vài thanh. Ông xoay xoay chiếc vòng bạc trên tay mình.
- Đây là chỗ bố của con đã phải sống bốn năm của đời mình đây.
- Chả có thể thế được, - Florentyna nói. Cô không chịu ngồi xuống với bố.
- Bây giờ còn hơn lúc đó nhiều, - Abel nói. - Ít ra bây giờ còn có không khí tươi mát, có chim chóc, có ánh nắng mặt trời và có cảm giác tự do. Còn trước kia thì không có gì hết, chỉ là tăm tối, chết chóc, mùi hôi thối của tử thần và nhất là người ta chỉ mong được chết.
Thôi, bố, chúng ta ra khỏi chỗ này đi. Cứ ở đây bố chỉ càng thấy khó chịu thêm thôi.
Florentyna đưa bố ra xe và cô từ từ lái xe xuống con đường dài phía chân đồi. Abel không ngoái lại nhìn tòa lâu đài đổ nát khi chiếc xe lăn bánh ra khỏi cổng sắt một lần cuối.
Trên đường trở về Warsaw, Abel hầu như không nói gì, còn Florentyna cũng không muốn tỏ ra sôi nổi nữa. Đến lúc bố cô nói:
Chỉ còn lại một điều bố phải thực hiện được trên đời này thôi, thì Florentyna không hiểu ông định nói gì. Tuy nhiên, cô không ép ông giải thích. Cô đã cố thuyết phục ông ở lại thêm một tuần nữa ở Lon don trước khi về hẳn. Cô tin rằng như vậy bố cô sẽ vui lên và có lẽ sẽ giúp ông quên đi bà mẹ nuôi già dở điên cũng như đống gạch vụn của tòa lâu đài bị đạn bom tàn phá.
Ngày hôm sau họ bay về London. Abel lấy làm mừng trở về một đất nước có thề liên lạc nhanh chóng với Mỹ. Về đến khách sạn Claridge, Florentyna đã lập tức đi thăm những bạn cũ và có thêm bạn mới. Abel bỏ thì giờ ra đọc những số báo cũ đã tích luỹ lại được trong khách sạn. Ông không thích biết đến những gì có thể xẩy ra trong khi ông đi vắng, vì như vậy chỉ càng khiến ông nghĩ rằng không có ông thì trái đất vẫn quay. Một bài bên trang trọng của tờ Thời báo hôm đó bỗng làm ông để ý. Đúng là trong khi ông đi vắng thì có chuyện xây ra thật. Một chiếc máy bay chở khách của hãng hàng không Liên Mỹ đã rơi ngay từ sau lúc cất cánh ở sân bay Mexico City sáng hôm trước. Cả mười bẩy hành khách và phi đoàn đều chết.
Các nhà cầm quyền Mexico đã đổ tội ngay cho hãng hàng không này là không chuẩn bị chu đáo cho các máy bay của mình. Abel nhấc điện thoại lên và yêu cầu tổng đài cho nói chuyện đường dài.
Thứ bẩy này có lẽ ông đã về đến Chicago rồi, Abel nghĩ bụng. Ông giở sổ địa chỉ tìm số điện thoại trong nước.
- Sẽ bị muộn khoảng ba mươi phút, - Một giọng Anh rất gọn báo cho ông biết.
- Cảm ơn cô, - Abel nói rồi nằm ra giường nghĩ ngợi, với chiếc máy điện thoại để bên cạnh. Hai mươi phút sau có tiếng chuông reo.
Đường dây hải ngoại đã thông, thưa ông, - Vẫn giọng gọn gàng khi nãy nói.
- Abel, có phải ông đấy không' ông đang ở đâu đấy?
- Tôi đây, tôi đang ở London.
- Ông xong chưa? - Tiếng cô gái hỏi.
- Tôi đã bắt đầu nói đâu? - Abel nói.
- Tôi xin lỗi, thưa ông, tôi muốn hỏi ông có nói được với bên Mỹ không.
- Ồ có chứ. Cảm ơn cô. Lạy Chúa, Henry ạ, ở đây họ nói một thứ ngôn ngữ khác.
Henry osborne cười.
- Này, ông có nghe về chiếc máy bay chở khách của hãng Liên Mỹ rơi ở Mexico City không thế?
- Có tôi có nghe, - Henry đáp - Nhưng ông không có gì phải lo cả đâu. Chiếc máy bay này được bảo hiểm cẩn thận, công ty hoàn toàn bồi thường, vì vậy họ không thiệt thòi gì, và chứng khoán vẫn vững vàng như trước.
- Tôi không quan tâm đến chuyện bảo hiểm, - Abel nói. - Đây có thể là cơ hội tốt nhất cho chúng ta thí nghiệm xem cái quy chế của ông Kane kia mạnh đến chừng nào.
Tôi không hiểu, Abel. Ông nói vậy là thế nào?
- Ông hãy nghe kỹ đây nhé. Rồi tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho ông biết là tôi sẽ làm thế nào khi Thị trường chứng khoán mở vào sáng thứ hai. Tôi sẽ về New York vào thứ ba để phối hợp đoạn kết thúc của dàn nhạc này.
Henry nghe những lời căn dặn của Abel Rosnovski rất kỹ. Hai mươi phút sau, Abel bỏ máy.
Thế là xong.
- Không thể như thế này được, - Abel khẽ nói bằng tiếng Anh.
Các người muốn gì? - Người đàn bà hỏi với giọng ngờ vực. Bà cụ không còn răng nữa, mũi miệng với cằm lõm vào thành một vòng cung.
- Chúng tôi vào trong nhà nói chuyện với cụ được không? - Abel trả lời bằng tiếng Ba lan.
Bà cụ nhìn từ người nọ sang người kia với vẻ sợ hãi. - Bà cụ làu bàu.- Bà già Helena này có làm gì đâu?
Vâng, tôi biết, - Abel ôn tồn nói. - Tôi đem tin mừng đến cho cụ đây.
Bà cụ có vẻ miễn cưỡng để hai người bước vào trong căn phòng trống trải lạnh lẽo, nhưng không mời ai ngồi. Căn phòng vẫn như xưa, hai chiếc ghế, một chiếc bàn với một cái thảm mà ngày xưa lúc ra đi ông không nhớ nó bằng gì. Florentyna rùng mình.
Tôi không đốt lửa được - Bà cụ đưa chiếc gậy chọc vào lò Gộc củi đã tàn không còn cháy được nữa. Bà cụ gại tay vào túi. - Phải có giấy mới được. - Chợt bà nhìn lên Abel, tỏ vẻ chú ý hơn, và hỏi. - Ông có giấy không?
Abel vẫn cứ chăm chú nhìn bà cụ. Ông nói.
- Bà không nhớ tôi à?
- Không tôi không biết ông là ai.
- Có bà có biết đấy, Helena. Tên tôi là.... Wladek.
- Ông biết thằng Wladek nhà tôi à?
Tôi tên là Wladek đây.
- Ồ không đâu, - Bà nói với một giọng xa xôi, buồn thảm. - Nó tốt với tôi lắm.... người nó có vết của Chúa để lại, Ngài Nam tước mang nó đi cho nó làm thiên thần. Phải, ông ấy đã mang nó đi, thằng bé nhỏ nhất của tôị..
Giọng bà cụ đứt quãng và nhỏ dần. Bà ngồi xuống, thủ hai bàn tay gầy guộc vào lòng.
- Tôi đã về đây, - Abel nói dằn giọng hơn nữa, nhưng bà cụ không để ý gì đến ông, rồi lại run run vang lên trong phòng như chỉ có mình bà cụ Ở đây thôi.
- Chúng nó giết chồng tôi, giết Jasio của tôi, rồi tất cả những đứa con yêu quý của tôi bị bắt vào trại giam. Trừ có con nhỏ Sophia thôi. Tôi giấu nó vào một chỗ kín, rồi chúng nó bỏ đi. - Giọng bà đều đều, mệt nhọc.
- Còn Sophia rồi ra sao? - Abel hỏi.
- Cuộc chiến tranh sau, bọn Nga lại bắt nó đi nữa,- Bà buồn bã nói.
Abel rùng mình.
Bà cụ như dần dần nhớ ra.
- Ông muốn gì? Tại sao ông lại hỏi tôi thế? - Bà nói.
- Đây là con gái tôi, - Florentyna.
- Tôi cũng có đứa con gái tên là Florentyna đấy, nhưng bây giờ chỉ còn một mình tôi.
- Nhưng tôị... - Abel nói và định cởi khuya áo sơ- mi:
Florentyna ngăn ông lại.
- Chúng tôi biết, - Cô nói và cười với bà cụ.
- Cô làm sao biết được? Đó là chuyện từ lâu trước khi cô ra đời kia mà.
- Trong làng họ bảo thế mà. - Florentyna nói.
Các người có giấy không? - Bà cụ hỏi. - Tôi cần có giấy để đốt lửa lên.
Abel nhìn sang Florentyna không biết làm thế nào.
Không ạ. Rất tiếc là chúng tôi chẳng có giấy gì mang theo.
Vậy các người muốn gì? - Bà cụ hỏi lại với giọng gắt gỏng như trước.
- Không ạ. - Abel nói, biết là bà cụ không thể nào nhận ra mình được nữa. - Chúng tôi chỉ muốn đến chào bà thôi. - Ông rút ví ra, lấy hết cả tiền zloty mới đã đổi ở biên giới và đưa cho bà cụ.
- Cảm ơn ông, cảm ơn ông, - Bà cụ cầm lấy từng tờ bạc, mắt long lanh vui sướng.
Abel cúi xuống hôn người mẹ nuôi của mình, nhưng bà cụ lui lại.
Florentyna cầm tay bố dắt ông ra ngoài và đi theo con đường trở về chỗ xe đỗ.
Bà cụ đứng trong cửa sổ nhìn ra cho đến lúc hai người đi khuất. Rồi bà lấy những tờ bạc mới ấy vo rúm cả lại từ từ bỏ vào trong lò. Lửa bén ngay. Bà cụ lại nhặt những thanh củi nhỏ đặt lên trên đống tiền zloty đang cháy rồi ngồi xuống tiên đống lửa. Đã mấy tuần nay bây giờ bà mới được ngồi xoa tay hướng cái ấm áp này đây.
Trên đường trở ra xe, Abel không nói gì. Đến tận chiếc cổng sắt ông mới cố quên đi căn lều nhỏ vừa rồi và bảo Florentyna:
- Con sắp được thấy tòa lâu đài đẹp nhất thế giới.
Bố đừng nói quá đáng nhé.
- Nhất thế giới đấy, - Abel khẽ nhắc lại.
Florentyna cười.
- Rồi con sẽ bảo nó như thế nào nếu so với Versailles.
Hai bố con lại ngồi lên xe. Abel lái qua cổng. Ông nhớ lại chiếc xe ông đã được ngồi ngày xưa trên đường đi đến lâu đài. Bao nhiêu ký ức diễn ra trong đầu.
Những ngày còn nhỏ được ở với Nam tước và Lion thật sung sướng, những ngày đen tối trong nhà hầm do bọn Đức canh gác, những ngày đau khổ bị buộc phải rời tòa lâu đài yêu quý và bị quân Nga bắt đi, biết là sẽ chẳng bao giờ được thấy lại ngôi nhà này nữa. Thế mà nay, chính ông, Wladek Koskiewicz, đã trở lại đây, trở lại trong chiến thắng để đòi lại những gì là của mình.
Chiếc xe đi lên con đường gồ ghề ngoằn ngoèo. Cả hai bố con đều im lặng, nghĩ bụng đến chỗ rẽ kia thế nào cũng trông thấy ngôi nhà của Nam tước Rosnovski. Abel đỗ xe lại nhìn tòa lâu đài. Không ai nói một lời - Vì có gì đâu để nói? - Mà chỉ biết nhìn cảnh tàn phá trước mắt và không tin được ở mắt mình, như những gì còn lại của một giấc mơ.
Abel và Florentyna chậm chạp bước ra ngoài xe. Vẫn không ai nói gì. Florentyna nắm chặt lấy tay bố.
Những giọt nước mắt của ông chảy ròng xuống má. Tất cả tòa lâu đài chỉ còn lại một bức tường đứng sững như muốn khoe lại cái vinh quang xưa, còn đều là gạch vụn và đá đỏ. Ông rất muốn kể lại cho cô nghe đâu là những đại sảnh, đâu là nhà ngủ, nhà ăn.
Abel bước đến ba nấm đất bây giờ cỏ xanh đã mọc dầy phủ kín và bảo cô đó là những ngôi mộ của Nam tước, của con ông là Leon, và của chị Florentyna. Đến mỗi nấm đất, ông dừng lại và chỉ nghĩ ước gì đến bây giờ Leon và Florentyna vẫn còn sống. Ông qùy xuống chân mộ. Những cảnh trong giây phút khủng khiếp cuối cùng điền lại trong óc ông rất rõ nét. Con gái ông đứng bên, để tay lên vai ông mà không nói gì. Một lúc sau Abel mới đứng dậy. Hai bố con đi vào giữa đống gạch vụn và những viên đá vỡ phủ lên nơi trước kia đã từng là những căn phòng lộng lẫy vang vọng tiếng cười. Abel vẫn không nói gì. Bố con cầm tay nhau đi xuống những căn hầm. Xuống đến đây, Abel ngồi phệt xuống nền đất ẩm gần chiếc khung cổng sắt, chỉ còn lại vài thanh. Ông xoay xoay chiếc vòng bạc trên tay mình.
- Đây là chỗ bố của con đã phải sống bốn năm của đời mình đây.
- Chả có thể thế được, - Florentyna nói. Cô không chịu ngồi xuống với bố.
- Bây giờ còn hơn lúc đó nhiều, - Abel nói. - Ít ra bây giờ còn có không khí tươi mát, có chim chóc, có ánh nắng mặt trời và có cảm giác tự do. Còn trước kia thì không có gì hết, chỉ là tăm tối, chết chóc, mùi hôi thối của tử thần và nhất là người ta chỉ mong được chết.
Thôi, bố, chúng ta ra khỏi chỗ này đi. Cứ ở đây bố chỉ càng thấy khó chịu thêm thôi.
Florentyna đưa bố ra xe và cô từ từ lái xe xuống con đường dài phía chân đồi. Abel không ngoái lại nhìn tòa lâu đài đổ nát khi chiếc xe lăn bánh ra khỏi cổng sắt một lần cuối.
Trên đường trở về Warsaw, Abel hầu như không nói gì, còn Florentyna cũng không muốn tỏ ra sôi nổi nữa. Đến lúc bố cô nói:
Chỉ còn lại một điều bố phải thực hiện được trên đời này thôi, thì Florentyna không hiểu ông định nói gì. Tuy nhiên, cô không ép ông giải thích. Cô đã cố thuyết phục ông ở lại thêm một tuần nữa ở Lon don trước khi về hẳn. Cô tin rằng như vậy bố cô sẽ vui lên và có lẽ sẽ giúp ông quên đi bà mẹ nuôi già dở điên cũng như đống gạch vụn của tòa lâu đài bị đạn bom tàn phá.
Ngày hôm sau họ bay về London. Abel lấy làm mừng trở về một đất nước có thề liên lạc nhanh chóng với Mỹ. Về đến khách sạn Claridge, Florentyna đã lập tức đi thăm những bạn cũ và có thêm bạn mới. Abel bỏ thì giờ ra đọc những số báo cũ đã tích luỹ lại được trong khách sạn. Ông không thích biết đến những gì có thể xẩy ra trong khi ông đi vắng, vì như vậy chỉ càng khiến ông nghĩ rằng không có ông thì trái đất vẫn quay. Một bài bên trang trọng của tờ Thời báo hôm đó bỗng làm ông để ý. Đúng là trong khi ông đi vắng thì có chuyện xây ra thật. Một chiếc máy bay chở khách của hãng hàng không Liên Mỹ đã rơi ngay từ sau lúc cất cánh ở sân bay Mexico City sáng hôm trước. Cả mười bẩy hành khách và phi đoàn đều chết.
Các nhà cầm quyền Mexico đã đổ tội ngay cho hãng hàng không này là không chuẩn bị chu đáo cho các máy bay của mình. Abel nhấc điện thoại lên và yêu cầu tổng đài cho nói chuyện đường dài.
Thứ bẩy này có lẽ ông đã về đến Chicago rồi, Abel nghĩ bụng. Ông giở sổ địa chỉ tìm số điện thoại trong nước.
- Sẽ bị muộn khoảng ba mươi phút, - Một giọng Anh rất gọn báo cho ông biết.
- Cảm ơn cô, - Abel nói rồi nằm ra giường nghĩ ngợi, với chiếc máy điện thoại để bên cạnh. Hai mươi phút sau có tiếng chuông reo.
Đường dây hải ngoại đã thông, thưa ông, - Vẫn giọng gọn gàng khi nãy nói.
- Abel, có phải ông đấy không' ông đang ở đâu đấy?
- Tôi đây, tôi đang ở London.
- Ông xong chưa? - Tiếng cô gái hỏi.
- Tôi đã bắt đầu nói đâu? - Abel nói.
- Tôi xin lỗi, thưa ông, tôi muốn hỏi ông có nói được với bên Mỹ không.
- Ồ có chứ. Cảm ơn cô. Lạy Chúa, Henry ạ, ở đây họ nói một thứ ngôn ngữ khác.
Henry osborne cười.
- Này, ông có nghe về chiếc máy bay chở khách của hãng Liên Mỹ rơi ở Mexico City không thế?
- Có tôi có nghe, - Henry đáp - Nhưng ông không có gì phải lo cả đâu. Chiếc máy bay này được bảo hiểm cẩn thận, công ty hoàn toàn bồi thường, vì vậy họ không thiệt thòi gì, và chứng khoán vẫn vững vàng như trước.
- Tôi không quan tâm đến chuyện bảo hiểm, - Abel nói. - Đây có thể là cơ hội tốt nhất cho chúng ta thí nghiệm xem cái quy chế của ông Kane kia mạnh đến chừng nào.
Tôi không hiểu, Abel. Ông nói vậy là thế nào?
- Ông hãy nghe kỹ đây nhé. Rồi tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho ông biết là tôi sẽ làm thế nào khi Thị trường chứng khoán mở vào sáng thứ hai. Tôi sẽ về New York vào thứ ba để phối hợp đoạn kết thúc của dàn nhạc này.
Henry nghe những lời căn dặn của Abel Rosnovski rất kỹ. Hai mươi phút sau, Abel bỏ máy.
Thế là xong.