Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng



Quang Toản tên là Trát, mẹ là họ Phạm, người phủ Quy Nhơn. Cùng Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật, thái sư Bùi Đắc Tuyên là anh chị em cùng mẹ khác cha. Năm 30 tuổi, nguỵ sách lập hoàng hậu, sinh được ba con trai hai con gái, Toản là con đích.

Nguyễn Quang Toản
( Niên hiệu nguỵ là Cảnh Thịnh, lại đổi là Bảo Hưng ).
Trước kia, giả vương của nguỵ vào chầu, vua nước Thanh sắc phong cho Quang Thuỳ làm thế tử của An Nam quốc vương, sau biết Thuỳ là con vợ thứ, mới đổi phong cho Toản làm thế tử, cho thêm cái như ý bằng ngọc, hà bao bằng gấm. Năm Nhâm Tí, Huệ chết, Toản mới 10 tuổi, đổi năm sau là năm Quý Sửu làm niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ I (1793) của nguỵ. Sai bọn Ngô Nhậm sang nước Thanh báo tang và xin sắc mệnh. Bọn Nhậm chưa ra khỏi cửa quan, vua Thanh nhận được tin của tổng đốc Lưỡng Quảng tâu báo trước, lập tức xuống chỉ phong làm An Nam quốc vương; phái án sát Quảng Tây là Thành Lâm đến Bắc thành tuyên phong. Toản cũng mượn người khác nhận, sứ nước Thanh trong bụng cũng biết là giả dối.
Toản đã được tập phong, lấy em là Quang Thuỳ làm khang công, tiết chế các doanh quân thuỷ quân bộ ở Bắc biên, kiêm coi tất cả các việc quân dân; Quang Hãn làm Tuyên công, lĩnh đốc trấn Thanh Hoá tổng trông coi các công việc quân dân; cậu là Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư quản đốc trông coi việc trong ngoài. Thái uý là Phạm Công Hưng cùng giữ việc quan trọng về quân quốc. Trung thư phụng chính là Trần Văn Kỷ làm các việc ở trung thư cơ mật, văn thư lệnh thị đều uỷ thác hết cho Thiếu phó là Nguyễn Quang Diệu ( chữ Nguyễn có chỗ chép là chữ Trần ) Hộ giá là Nguyễn Văn Huấn, Nội hầu là Nguyễn Văn Tứ, Tư lệ là Lê Trung thì trấn giữ Nghệ An. Đại tư khấu là Vũ Văn Dũng, Đại tư hộ là Nguyễn Văn Dụng, Thiếu bảo là Nguyễn Văn Danh ( họ với nguỵ ) đại tư mã là Ngô Văn Sở, Hình bộ thượng thư là Lê Xuân Tài, Tuần kiểm là Chu Ngọc Uyển, Tiết độ là Nguyễn Công Tuyết thì trấn giữ Bắc thành. Bãi việc cấp tín bài, đình việc phái đi bắt dân lậu sổ.
Toản tuổi còn nhỏ, chỉ thích chơi đùa, phàm việc đều ở Đắc Tuyên chuyên quyết, Đắc Tuyên lam uy làm phúc, bừa bãi trong ngoài đều oán cả.
Năm Quý Sửu, quân ta vây thành Quy Nhơn, Nhạc sai người cáo cấp. Toản sai bọn Phạm Công Hưng đến cứu viện. Quân ta đã lui về, bọn Hưng bèn bức hiếp Nhạc mà chiếm lấy cứ thành. Nhạc vừa xấu hổ, vừa giận, bực tức mà chết. Toản phong cho con Nhạc là Bảo làm Hiếu công, phái người trông coi ( chép rõ ở truyện Nhạc ). Năm Giáp Dần, sai hộ giá là Nguyễn Văn Huấn, điểm kiểm là Trần Viết Kết đánh úp Diên Khánh, quân bị thua dẫn về. Lại sai tổng quản là Nguyễn Quang Diệu, nội hầu là Nguyễn Văn Tứ lại đem quân đến vây, giữ nhau vài tháng. Mùa đông năm ấy, Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở thay Vũ Văn Dũng điều bát quân sự ở Bắc thành, mà triệu Dũng về. Đi đến trạm Mĩ Xuyên, khi ấy phụng chính là Trần Văn Kỷ có tội, phát phối đến trạm sở, mật báo Dũng rằng: Thái sư ngôi to nhất cả các quan, chuyên làm uy làm phúc, sẽ không lợi cho xã tắc, nếu không mưu tính sớm đi thì sau này hối hận sao kịp. Dũng bèn cùng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn ( có chỗ chép là Hoá ) mưu tính nói phao lên rằng đến Nam dã tế cờ, nhân ban đêm đem bọn lũ vây Đắc Tuyên ở chùa Thuyền Lâm ( Tuyên lấy chùa làm nhà ở ). Đêm hôm ấy, ngẫu nhiên vì có việc, Tuyên ngủ ở trong phủ của Toản. Dũng vây quanh phủ để bắt. Toản bất đắc dĩ bắt Tuyên đưa cho, Dũng sai giam vào ngục. Ngô Văn Sở là bè lũ của Tuyên, Dũng làm tờ chiếu giả dối sai Tiết chế là Quang Thuỳ đóng gong đưa về Kinh. Lại sai Nguyễn Văn Huấn đem vây Quy Nhơn, bắt con Tuyên là Đắc Trụ giải về, thêu dệt nên tội trạng làm phản, đều dìm xuống nước để giết đi. Toản không thể ngăn cản được, chỉ chảy nước mắt khóc thôi. Quang Diệu đang vây Diên Khánh, nghe tin báo, cả sợ, bảo với thuộc hạ rằng: chúa không có đức kiên quyết, đại thần giết lẫn nhau là biến lớn đấy, biến ở bên trong không yên lấy gì mà chống được người. Ngay ngày hôm ấy giải vây trở về. Dũng cho là Diệu cùng với Đắc Tuyên có tình nghĩa thân gia ( vợ Diệu là Bùi Thị Xuân tức là cháu gái họ của Tuyên ) sợ có biến khác, bèn uỷ cho Công Hưng đem quân đón Quang Diệu để điều đình việc ấy.
Khi ấy, Nguyễn Văn Huấn giữ Quy Nhơn, nghe tin Diệu về, lại tạ tội trước. Diệu không hỏi gì. Quân đến An Cựu, đóng đồn ở bờ bên Nam sông. Dũng cùng bọn nội hầu là Tứ đóng quân ở bên Bắc sông, đem mệnh lệnh vua để chống cự. Quang Toản lo sợ, không biết thế nào, sai người đi lại yên uỷ dỗ dành để hoà giải. Diệu mới đem người bên tả bên hữu vào yết kiến, cùng bọn Dũng giảng hoà. Diệu xin đem Lê Trung thay Huấn giữ Quy Nhơn mà triệu Huấn về.
Bấy giờ Toản đã thân làm triều chính, năm ngày có một lần coi chầu. Năm ấy, Thái uý là Công Hưng vì có bệnh chết, bèn lấy Diệu làm Thiếu phó, Huấn làm Thiếu bảo, Dũng làm tư đồ. Nguyễn Văn Danh ( có chỗ chép là Nguyễn Văn Tứ ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần. Hoặc có người giềm rằng: Diệu uy quyền quá to sẽ có nhiều mưu toàn khác. Toản bị mê hoặc, thu lấy binh quyền của Diệu chỉ lấy bản chức vào chầu hầu thôi. Diệu trong lòng nghi sợ, thường cáo ốm không vào chầu, sai bọn thủ hạ vài trăm người, ngày đêm cầm binh khí để tự vệ. Quang Toản thường sai trung sứ đến uỷ lạo phủ dụ.
Mùa hạ năm Đinh Tị, quân ta đánh Quy Nhơn chưa lấy được, lại tiến sát đến Đà Nẵng, Câu Đê, Hải Vân ở Quảng Nam. Toản sai Nguyễn Văn Huấn đem hết quân chống cự. Cho Diệu được lại giữ binh quyền đóng giữ cửa biển Noãn Hải. Mùa thu quân ta trở về.
Năm Mậu Ngọ, tiểu triều là Bảo đánh úp lấy Quy Nhơn, sai người đem lòng thành quy thuận với ta. Quân ta chưa đến, Toản đem quân đến vây thành, bắt Bảo về, đánh thuốc độc giết đi ( chép rõ ở truyện Nhạc ). Sai đại tổng quản là Lê Văn Thanh ( có chỗ chép là đại tư Vũ Tuấn ) giữ Quy Nhơn; thái phủ là Lê Văn Ưng ( có chỗ chép là thái phủ Mân ) nói với Toản rằng: Tiểu triều sinh ra biến loạn là bởi Lê Trung gây nên. Toản triệu Trung đến, sai tráng sĩ trói lại đem chém đi. Lại tin lời thượng thư là Hồ Công Diệu vu thác dèm pha, giết thiếu bảo là Nguyễn Văn Huấn. Từ đấy tướng, tá có lòng lìa bỏ, người nào cũng có lòng nghi sợ. Đại đô đốc Lê Chất là con rể Lê Trung, nhiều lần lập được chiến công, sợ vạ kịp đến mình, bỏ chạy về với ta.
Năm Kỷ Mùi, quân ta lại tiến đánh Quy Nhơn, Lê Văn Thanh đóng cửa thành, cố chết giữ, Quang Diệu, Văn Dũng đem binh thuyền đến viện trợ. Khi đến Quảng Ngãi, nghe tin quân ta đã lên đường bộ giữ chỗ hiểm. Diệu ở ngoài núi Thạch Tân, Dũng đem quân đi theo đường tắt ở Chung Xá, mưu đánh úp đằng sau quân ta. Đêm có một con nai chạy ra, quân đi trước reo hò truyền lầm là quân Đồng Nai, quân của Dũng sợ chạy tan vỡ, quân ta nhân đấy đuổi đánh, quân của Dũng tự dày xéo vào nhau, chết rất nhiều. Văn Thanh không có quân viện trợ, mới cùng thượng thư là Nguyễn Đại Phác, thiếu uý là Trương Tiến Thuý đem thành xin hàng. Quân ta đã lấy được Quy Nhơn, mới đổi tên thành gọi là thành Bình Định; để lại chưởng Hậu quân là Vũ Tính, Lễ bộ là Ngô Tòng Chu ở đấy trấn thủ. Toản nghe tin Quy Nhơn không giữ được, đem đại binh đi, đến Trà Khúc, giục các tướng ra quân, Trần Viết Kết nói: Nay không thuận chiều gió, xin hãy đưa quân về. Toản để Diệu và Dũng giữ Quảng Nam, Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc, rồi trở về.
Trước đây, trận đánh ở Thạch Tân, quân của Dũng không đánh mà tự tan vỡ, Dũng sợ, cầu xin Diệu giấu việc ấy cho. Từ đấy hai người cố kết với nhau, ước làm bạn sống chết có nhau. Bọn Trần Viết Kết, Hồ Công Diệu, Trần Văn Kỷ, vốn ghét Diệu, cho là Quy Nhơn thất thủ, Diệu dừng quân lại là không có công gì, để làm cớ nói, làm tờ chiếu giả, sai Dũng bắt giết đi. Dũng nhận được thư đưa bảo Diệu, Diệu cả sợ, bèn dẫn binh về Phú Xuân, cắm trại sách ở bên vờ nam sông Hương, nói phao lên là giết giặc ở bên cạnh vua. Toản sai người triệu đến, bọn Diệu đều không chịu nhận mệnh lệnh. Kỷ đổ tội cho Kết và Hồ Công Diệu. Kết trốn, Toản bắt Công Diệu đưa cho Quang Diệu, Diệu mới giải binh vào ra mắt. Toản dụ rằng: bọn người là cột tráng của nước nên vì nước nhà cùng lòng hết sức, để trừ bỏ mối lo ở ngoài, không nên mang lòng ngờ vực, bọn Diệu khóc tạ, lại xin đem quân vào lấy Quy Nhơn. Toản y cho.