#candai #VN #Thailand #ongchiangsu #latsu #nguyentrai
## Sử ký Thái Lan chép gì về nước Việt Nam
Một đoạn trích từ Biên niên sử Hoàng gia Rattanakosin (hay Xiêm La thực lục theo cách gọi của Nguyễn Duy Chính), đời vua thứ nhất (tức vua Phật **Yotfa Chulaloke** trị vì từ 1782 - 1809), quyển 11
*Chú ý: đoạn sử này người Việt mà không phải là fan của cụ Nguyễn Trãi đọc vào sẽ thấy đầy sạn và tẩm cả đá, cần cân nhắc trước khi đọc.*
Quốc đô của nước ấy gọi là Đông Kinh (Tạng keī̌y). Đến đời thứ 6 tên là Hung Mueang vốn là tướng của nước Chin (Trung Quốc). Vua nước Chin sai ông ta đem quân đến đánh, chiếm được Đông Kinh, bắt được hoàng tộc mà giết đi, rồi xưng vương ở Đông Kinh. Từ đó xứ ấy làm một phiên thuộc của nước Chin.
Sau đó, có một vị tù trưởng nổi danh tên là Lê Lợi (Le Loei) sinh sống ở Bản Lam Sơn (Ban Lam Son). Lợi là người có chí muốn làm chúa thiên hạ. Các vị thần linh hiện ra và phán rằng ấn báu cùng gương báu đều ở nằm dưới lạch nước. Sáng hôm sau Lê Lợi cùng tùy tùng đi tìm thì thấy con dấu và gươm như thần linh mách bảo. Sau đó ông ta lấy hai thứ ấy đem về cất trong nhà.
Một đoàn người (trong đó có Wiankrai) ngủ ở một ngôi miếu. Các vị thần linh hiện ra và phán rằng Lê Lợi tương lai sẽ làm vua, và Nguyễn Trãi (Wiankrai) sẽ làm phó vương. Thần linh cũng chỉ điểm rằng nếu muốn gặp Lê Lợi thì hãy đến Lam Sơn. Mà nếu không biết nhà Lê Lợi ở đâu, thì nó là cái nhà trông có ánh sáng chiếu vào trong đêm tối ấy. Thế là buổi sáng đoàn người rời khỏi ngôi miếu và đến tối mới tới bản Lam Sơn. Khi màn đêm buông xuống, ông ta nhìn quanh và thấy một ngôi nhà sáng sủa như lời thần linh đã nói. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã gặp nhau. Họ hỏi về chuyện giấc mơ của nhau. Trãi yêu cầu được xem ấn và thanh kiếm của Lợi, và Lợi đồng ý. Sau đó, cả hai lập lời thề cùng nhau chiếm lại Đông Kinh rồi cùng chung hưởng thiên hạ. Lê Lợi triệu tập quân đội, lôi kéo người dân ở Bản Lam Sơn đi theo. Nguyễn Trãi thì ra Đông Kinh chiêu dụ người dân. Khi thời cơ chín muồi, Nguyễn Trãi và Lê Lợi nổi dậy, chiếm thành Đông Kinh, bắt viên Tổng binh đem giết đi.
Lợi sau đó tự xưng là Quốc vương, bổ nhiệm Trãi làm Nhị vương. Vua Chin nghe được tin ấy, cho quân tấn công chiếm lại Đông Kinh. Biết rằng quân Tàu đông như kiến không thể nào chống cự nổi, họ bèn làm tượng vàng và dâng các sản vật để hối lộ, xin cầu phong và làm chư hầu. Tướng Chin gửi thư về kinh đô. Vua Chin chuẩn tấu, phong cho họ Lê làm vương xứ Đông Kinh đời đời giữ lễ phiên thần, rồi triệt quân về triều.
Về sau đại quyền trong nước lọt vào tay Nhị vương. Nguyễn Trãi có một con gái tên Công Chúa (Gong Zuo) và một con trai tên là Chúa Tiên (Zhuotian). Bèn đem Công Chúa gả cho Trịnh Kiểm một quý tộc Đông Kinh, rồi tâu với vua rằng mình đã già, muốn nhường cho con rể là Trịnh Kiểm (Tingiam) tạm giữ quyền chính, đợi đến khi Chúa Tiên trưởng thành thì sẽ trả ngôi lại cho Chúa Tiên. Ai ngờ Trịnh Kiểm là kẻ xảo trá, sau khi Nguyễn Trãi mất đi liền muốn hạ sát em vợ để độc bá triều cương. Công Chúa nghe được mưu ấy, bèn bảo Chúa Tiên giả làm người bị điên. Sau đó cô nghĩ kế lừa dối chồng rằng Chúa Tiên phát điên như thế này, nếu còn giết thì người đời sẽ chê cười, thôi thì đuổi nó đi. Kiểm bèn dâng tấu với nhà vua, xin đuổi Chúa Tiên ra khỏi thành phố. Vua chuẩn tấu. Trịnh Kiểm sau đó bố trí một chiếc thuyền nhỏ và người đến bắt Chúa Tiên đưa đến một khu rừng tên là Thuận Hoá (Ojua) là nơi chuyên lưu đày tù nhân. Nơi đó cách quốc đô 15 ngày đi đường, toàn là rừng núi, giao thông bất tiện vô cùng. Cho nên những người hộ tống đều ở lại với chúa Tiên chứ không thể quay về. Chúa Tiên cho làm nhà rồi chiêu tập thổ dân nơi ấy. Khi đã đủ người, họ bèn xây dựng thành phố, đặt tên là Huế, và người ta vẫn gọi như vậy cho đến ngày nay.
Về phần Trịnh Kiểm, khi biết tin bèn ra lệnh cho Ông Lat Bai tấn công Huế. Quân Bắc mâu thuẫn với nhau nên bị chưa đánh phải rút. Nhưng chậu Mường Huế là Chúa Tiên lo sợ tỉ phu sẽ đến đánh nữa, bèn dâng đồ cống nạp cho bọn quý tộc và đến lạy anh rể của mình xin sự tha thứ. Chúa Đông Kinh bèn phong cho Chúa Tiên làm chậu Mường của Huế trong 6 đời. Đó là Chúa Tiên (con trai của Nguyễn Trãi), Chúa Sãi con trai chúa Tiên, chúa Thượng con chúa Sãi, rồi chúa Hiền con chúa Thượng, chúa Kang con chúa Hiền là đời thứ 5 và Ông Hiếu Vũ vương (Ong Hiohu Wiang) đời thứ 6. Hết sáu đời rồi mà Ông Hiếu Vũ vương không chịu về kinh. Chúa Đông Kinh nhiều lần muốn đánh Huế nhưng không được. Ông Hiếu Vũ vương bèn thiết lập trường lũy ở Bố Chính (Po Chan). Bố Chính nằm ở phía đông sông Gianh (Songyan). Đó là chỗ chia đôi nam bắc. Đất Bố Chính nay là tỉnh Quảng Bình (Quang Beng). Lại đem xích sắc giăng trên sông Đồng Hới (Dong Hei) ngăn chặn quân Bắc. Như thế hai xứ ấy chia cắt nhiều năm và trở nên hai xứ độc lập.
Ông Hiếu Vũ vương có 5 người con giai, tên là Ông Đức Mụ (Ong Deuk Mu), Ông Khang Vương, Ông Thượng Vương (Ong Theng Kwang), Ông Chưởng Xuân (Ong Chiang Sun) và Ông Thăng. Ông Đức Mụ là con cả, đẻ đặng 1 con giai rồi ông Đức Mụ qua đời. Ông Khang Vương là con giai thứ hai, sinh đặng 3 người con giai tên là Ông Già Ba (Ông Yaba), Ông Thượng Sư (Ong Chiang Su) và Ông Mân (Ong Man). Ông Khang Vương lại chết trước cha. Khi ông Hiếu Vũ vương qua đời thì Ông Quốc Phó (Ong Kwak Pho), một quý tộc, đã tôn phò Ông Thượng Vương lên làm người kế vị…
Đoạn sau đó nói là nói về Tây Sơn, Nguyễn Duy Chính có dịch.
Có thể có người thắc mắc tại sao lại có đoạn sử như này. Lý do là vì năm 1782, Hầu tước Chonburi của Xiêm đã bắt được một thanh niên 33 tuổi tên là Ong Chiang Su và đưa anh này đến Bangkok (tôi không hề khẳng định vị Ong Chiang Su này là Thế Tổ). Vua Xiêm sau đó đã yêu cầu Ong Chiang Su viết một bản tường trình về gia phả của mình, từ đời ông cụ ông kỵ cho đến khi mất nước vào tay Tây Sơn. Ong Chiang Su sai tùy tùng là Ong Bet Jad và Ong Bet Trung, viết hộ. Và bọn Thái cứ như thế bê hết vào quốc sử của mình.