Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Chữ Nôm là hệ thống chữ viết cổ của người Việt, được sáng tạo để ghi lại tiếng Việt dựa trên cơ sở chữ Hán (chữ Trung Quốc), nhưng được biến đổi và bổ sung để phù hợp với ngôn ngữ và âm thanh của tiếng Việt. Không có một cá nhân cụ thể nào được ghi nhận là người sáng tạo ra chữ Nôm, mà đây là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và sáng tạo tập thể của người Việt qua nhiều thế kỷ.
Nguồn gốc và thời kỳ hình thành
Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ 10, sau khi Việt Nam giành được độc lập từ sự đô hộ của Trung Quốc (năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng Giang). Ban đầu, người Việt sử dụng chữ Hán để ghi chép, nhưng do tiếng Việt khác biệt lớn về ngữ âm và ngữ pháp so với tiếng Hán, chữ Nôm dần được hình thành để diễn đạt ngôn ngữ bản địa. Đây là sự kết hợp giữa việc mượn chữ Hán có sẵn và sáng tạo thêm các ký tự mới (thường bằng cách ghép chữ Hán với ký hiệu hoặc thêm nét để biểu thị âm tiếng Việt).
Thời kỳ thịnh hành
Chữ Nôm thực sự phát triển mạnh mẽ và trở nên phổ biến từ thời nhà Trần (thế kỷ 13-14) và đạt đỉnh cao vào thời nhà Lê sơ (thế kỷ 15) đến thời Nguyễn (thế kỷ 19). Đặc biệt:
- Thời nhà Trần: Các tác phẩm văn học bằng chữ Nôm bắt đầu xuất hiện, như thơ của Trần Nhân Tông hay Nguyễn Trãi sau này.
- Thời nhà Lê và nhà Nguyễn: Chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn học, hành chính, và đời sống. Các tác phẩm nổi tiếng như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm.
Đỉnh cao của chữ Nôm là vào thế kỷ 18-19, khi nó trở thành công cụ chính để sáng tác văn học dân tộc, phản ánh bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh) được Alexandre de Rhodes và các nhà truyền giáo phát triển, cùng với sự thúc đẩy của thực dân Pháp, chữ Nôm dần bị thay thế và mai một.
Đặc điểm của chữ Nôm:
- Chữ Nôm không có hệ thống chuẩn hóa hoàn toàn, nên cách viết đôi khi thay đổi tùy theo vùng miền và người sử dụng.
- Nó phức tạp hơn chữ Quốc ngữ, đòi hỏi người học phải nắm cả chữ Hán lẫn cách biến đổi để hiểu tiếng Việt.
Vai trò của Nguyễn Huệ đối với chữ Nôm
Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung, 1753-1792)
Một trong ba anh em Tây Sơn và là vị vua tài năng của triều đại Tây Sơn, đã có những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sử dụng chữ Nôm, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Dù triều đại của ông ngắn ngủi (1788-1792), ông đã để lại dấu ấn rõ nét trong việc nâng cao vị thế của chữ Nôm so với chữ Hán:
Chính sách dùng chữ Nôm trong hành chính
Nguyễn Huệ chủ trương thay thế dần chữ Hán bằng chữ Nôm trong các văn bản chính thức của triều đình. Ông ban hành sắc lệnh yêu cầu các quan lại và sĩ tử sử dụng chữ Nôm thay vì chữ Hán trong giáo dục, thi cử và giao dịch hành chính. Đây là một bước đi táo bạo nhằm giảm sự lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc, vốn đã chi phối Việt Nam qua hàng thế kỷ.
Ví dụ: Ông ra lệnh dịch các sách chữ Hán sang chữ Nôm để phổ biến kiến thức cho dân chúng. Việc thúc đẩy chữ Nôm dưới thời Nguyễn Huệ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ mà còn mang ý nghĩa chính trị và văn hóa. Ông muốn xây dựng một nhà nước độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, và chữ Nôm là biểu tượng của sự tự chủ đó. Tuy nhiên, do triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn (đến năm 1802 thì nhà Nguyễn lên ngôi), chính sách của Nguyễn Huệ về chữ Nôm chưa kịp phát triển sâu rộng hay tạo ra ảnh hưởng lâu dài. Sau khi ông qua đời, nhiều cải cách của ông không được tiếp tục. Nhà Nguyễn (1802-1945) không trực tiếp "dẹp bỏ" chữ Nôm một cách có chủ đích hay ra sắc lệnh cấm sử dụng, nhưng chính sách của triều đại này đã góp phần làm giảm dần tầm quan trọng và sự phổ biến của chữ Nôm.
Hạn chế của chữ Nôm là quá thô và khó đạt ý cũng như bần bần hèn hèn, nhà Nguyễn không bỏ đi vẫn dùng nhưng trở lại sử dụng chữ Hán nhiều hơn mà thôi
Nhà Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, có xu hướng quay lại sử dụng chữ Hán như một công cụ chính trong hành chính, giáo dục và thi cử. Điều này xuất phát từ việc triều đình muốn củng cố tính chính thống theo mô hình Nho giáo Trung Quốc, vốn coi chữ Hán là chuẩn mực. Chữ Nôm, dù vẫn được dùng, bị xem là "ít trang trọng" hơn và không được khuyến khích trong các văn bản chính thức. Nhưng nhà Nguyễn không cấm, cụ thể
Trong các văn bản Chiếu, Dụ, Chỉ: đây là loại văn bản chuyên dành cho nhà vua. Theo Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập I, loại này có 164 đơn vị văn bản. Trong đó một tờ Chiếu đề ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802), nhà vua đã lệnh cho Nguyễn Phúc Thí, một chi phái con cháu nhà chúa trước đây kê khai phổ hệ, tờ chiếu này có đoạn: 德 先 聖 王 生 下 公 子 羅 買 𡾵, 埃 羅 𣳔 嫡, 埃 羅 𡉕 庶, 継 生 子 孫 世 次 鄧 包 饒, 忍 典 列 朝 拱 丕. 係 公 姓 各 支 派 現 存 羅 包 饒, 埃 㐌 預 固 官 職, 埃 渚 預 受 官 職 調 沛 備 開, 從 前 世 系 詳 究 的 實 具 修 譜 牒 進 覽. (Đức Tiên thánh vương sinh hạ công tử là mấy ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, kế sinh tử tôn thế thứ đặng bao nhiêu, nhận đến liệt triều cũng vậy. Hễ Công tính các chi phái hiện tồn là bao nhiêu, ai đã dự có quan chức, ai chưa dự thụ quan chức đều phải bị khai (kê khai đầy đủ). Trong đoạn văn này có 3 chữ Nôm tự tạo là 𡾵 (ngôi), 𡉕 (dòng), 饒 (nhiêu). Các chữ còn lại là các chữ Hán được nhà vua mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.
Trong tờ Dụ ghi ngày 3 tháng 1 năm Gia Long thứ 2 (1803) có các chữ 𠉞 固 差 欽 差 屬 內 該 奇 玖 𠓨 嘉 定 [nay có sai Khâm sai thuộc nội Cai cơ Cửu vào Gia Định…]. Các chữ Nôm tự tạo là: 𠉞 (nay), 𠓨 (vào). Các chữ Nôm còn lại là các chữ Nôm mượn chữ Hán.
Trong các văn bản của Công đồng như: Công đồng truyền, Công đồng sai, Công đồng phó. Riêng loại Công đồng truyền hiện có 309 đơn vị văn bản. Loại này có chữ Nôm tự tạo 𠉞 (nay) và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong dạng công thức như: 𠉞 𠳐固 攽 下… [nay vâng có ban hạ], trong Châu bản ngày 6 tháng Giêng năm Gia Long thứ 4 (1805). Hoặc cụm từ 𣈜𨎟固傳 [ngày trước có truyền], trong văn bản đề ngày 20 tháng Giêng năm Gia Long thứ 2 (1803). 𠉞𠳐旨 [nay vâng chỉ], trong văn bản đề ngày 6 tháng giêng năm Gia Long thứ 4 (1805)…
Trong loại Quốc thư. Đây là những văn bản bang giao của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Miến Điện… với Việt Nam được dịch ra tiếng Việt. Phần Việt văn ghi bằng chữ Nôm. Một bức thư của một thủy thủ Pháp gửi cho nhà đương cục Việt Nam đề ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817), mở đầu bức thư ghi 眾碎於在渃葩朗沙城浦 都盧 𠸜 羅 … [Chúng tôi ở tại nước Ba Lãng Sa thành phố Đô Lô tên là…] Trong đoạn văn này có chữ Nôm tự tạo 渃 (nước); 𠸜 (tên)... Các chữ còn lại là các chữ Hán được mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.
Trong văn bản Tấu, các chữ Nôm tự tạo và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong các cụm từ công thức 奏 湃 德 皇上 閍 閍 𢆥 高 明 御 覽 (tấu vái đức hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm). Trong công thức này có 4 chữ Nôm tự tạo là 湃 (vái) 閍 閍 𢆥 (muôn muôn năm) hoặc cụm từ 𠉞具 表 奏 浪 [nay cụ biểu tấu rằng], văn bản đề ngày 20 tháng 1 năm Gia Long thứ 4 (1805). 𠉞 (nay) là chữ Nôm tự tạo, các mã chữ còn lại trong cụm từ này là chữ Nôm mượn chữ Hán.

Chữ Nôm vẫn tồn tại trong văn học thời Nguyễn. Dù không được ưu tiên trong hành chính, chữ Nôm vẫn tiếp tục thịnh hành trong văn học dưới thời nhà Nguyễn, đặc biệt là giai đoạn đầu (thế kỷ 19). Các tác phẩm lớn như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du (được hoàn thiện và phổ biến rộng rãi dưới thời Nguyễn), thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều là minh chứng cho sức sống của chữ Nôm trong sáng tác dân tộc.
Sự suy giảm thực sự của chữ Nôm xảy ra vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp xâm lược và thúc đẩy chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh). Nhà Nguyễn, đặc biệt trong giai đoạn suy yếu, không có chính sách bảo tồn chữ Nôm, và chữ Quốc ngữ dần thay thế hoàn toàn do sự đơn giản, dễ học và sự hỗ trợ từ chính quyền thực dân.

Nguồn gốc và thời kỳ hình thành
Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ 10, sau khi Việt Nam giành được độc lập từ sự đô hộ của Trung Quốc (năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng Giang). Ban đầu, người Việt sử dụng chữ Hán để ghi chép, nhưng do tiếng Việt khác biệt lớn về ngữ âm và ngữ pháp so với tiếng Hán, chữ Nôm dần được hình thành để diễn đạt ngôn ngữ bản địa. Đây là sự kết hợp giữa việc mượn chữ Hán có sẵn và sáng tạo thêm các ký tự mới (thường bằng cách ghép chữ Hán với ký hiệu hoặc thêm nét để biểu thị âm tiếng Việt).
Thời kỳ thịnh hành
Chữ Nôm thực sự phát triển mạnh mẽ và trở nên phổ biến từ thời nhà Trần (thế kỷ 13-14) và đạt đỉnh cao vào thời nhà Lê sơ (thế kỷ 15) đến thời Nguyễn (thế kỷ 19). Đặc biệt:
- Thời nhà Trần: Các tác phẩm văn học bằng chữ Nôm bắt đầu xuất hiện, như thơ của Trần Nhân Tông hay Nguyễn Trãi sau này.
- Thời nhà Lê và nhà Nguyễn: Chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn học, hành chính, và đời sống. Các tác phẩm nổi tiếng như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm.
Đỉnh cao của chữ Nôm là vào thế kỷ 18-19, khi nó trở thành công cụ chính để sáng tác văn học dân tộc, phản ánh bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh) được Alexandre de Rhodes và các nhà truyền giáo phát triển, cùng với sự thúc đẩy của thực dân Pháp, chữ Nôm dần bị thay thế và mai một.
Đặc điểm của chữ Nôm:
- Chữ Nôm không có hệ thống chuẩn hóa hoàn toàn, nên cách viết đôi khi thay đổi tùy theo vùng miền và người sử dụng.
- Nó phức tạp hơn chữ Quốc ngữ, đòi hỏi người học phải nắm cả chữ Hán lẫn cách biến đổi để hiểu tiếng Việt.

Vai trò của Nguyễn Huệ đối với chữ Nôm
Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung, 1753-1792)

Một trong ba anh em Tây Sơn và là vị vua tài năng của triều đại Tây Sơn, đã có những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sử dụng chữ Nôm, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Dù triều đại của ông ngắn ngủi (1788-1792), ông đã để lại dấu ấn rõ nét trong việc nâng cao vị thế của chữ Nôm so với chữ Hán:
Chính sách dùng chữ Nôm trong hành chính
Nguyễn Huệ chủ trương thay thế dần chữ Hán bằng chữ Nôm trong các văn bản chính thức của triều đình. Ông ban hành sắc lệnh yêu cầu các quan lại và sĩ tử sử dụng chữ Nôm thay vì chữ Hán trong giáo dục, thi cử và giao dịch hành chính. Đây là một bước đi táo bạo nhằm giảm sự lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc, vốn đã chi phối Việt Nam qua hàng thế kỷ.
Ví dụ: Ông ra lệnh dịch các sách chữ Hán sang chữ Nôm để phổ biến kiến thức cho dân chúng. Việc thúc đẩy chữ Nôm dưới thời Nguyễn Huệ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ mà còn mang ý nghĩa chính trị và văn hóa. Ông muốn xây dựng một nhà nước độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, và chữ Nôm là biểu tượng của sự tự chủ đó. Tuy nhiên, do triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn (đến năm 1802 thì nhà Nguyễn lên ngôi), chính sách của Nguyễn Huệ về chữ Nôm chưa kịp phát triển sâu rộng hay tạo ra ảnh hưởng lâu dài. Sau khi ông qua đời, nhiều cải cách của ông không được tiếp tục. Nhà Nguyễn (1802-1945) không trực tiếp "dẹp bỏ" chữ Nôm một cách có chủ đích hay ra sắc lệnh cấm sử dụng, nhưng chính sách của triều đại này đã góp phần làm giảm dần tầm quan trọng và sự phổ biến của chữ Nôm.
Hạn chế của chữ Nôm là quá thô và khó đạt ý cũng như bần bần hèn hèn, nhà Nguyễn không bỏ đi vẫn dùng nhưng trở lại sử dụng chữ Hán nhiều hơn mà thôi
Nhà Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, có xu hướng quay lại sử dụng chữ Hán như một công cụ chính trong hành chính, giáo dục và thi cử. Điều này xuất phát từ việc triều đình muốn củng cố tính chính thống theo mô hình Nho giáo Trung Quốc, vốn coi chữ Hán là chuẩn mực. Chữ Nôm, dù vẫn được dùng, bị xem là "ít trang trọng" hơn và không được khuyến khích trong các văn bản chính thức. Nhưng nhà Nguyễn không cấm, cụ thể
Trong các văn bản Chiếu, Dụ, Chỉ: đây là loại văn bản chuyên dành cho nhà vua. Theo Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập I, loại này có 164 đơn vị văn bản. Trong đó một tờ Chiếu đề ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802), nhà vua đã lệnh cho Nguyễn Phúc Thí, một chi phái con cháu nhà chúa trước đây kê khai phổ hệ, tờ chiếu này có đoạn: 德 先 聖 王 生 下 公 子 羅 買 𡾵, 埃 羅 𣳔 嫡, 埃 羅 𡉕 庶, 継 生 子 孫 世 次 鄧 包 饒, 忍 典 列 朝 拱 丕. 係 公 姓 各 支 派 現 存 羅 包 饒, 埃 㐌 預 固 官 職, 埃 渚 預 受 官 職 調 沛 備 開, 從 前 世 系 詳 究 的 實 具 修 譜 牒 進 覽. (Đức Tiên thánh vương sinh hạ công tử là mấy ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, kế sinh tử tôn thế thứ đặng bao nhiêu, nhận đến liệt triều cũng vậy. Hễ Công tính các chi phái hiện tồn là bao nhiêu, ai đã dự có quan chức, ai chưa dự thụ quan chức đều phải bị khai (kê khai đầy đủ). Trong đoạn văn này có 3 chữ Nôm tự tạo là 𡾵 (ngôi), 𡉕 (dòng), 饒 (nhiêu). Các chữ còn lại là các chữ Hán được nhà vua mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.
Trong tờ Dụ ghi ngày 3 tháng 1 năm Gia Long thứ 2 (1803) có các chữ 𠉞 固 差 欽 差 屬 內 該 奇 玖 𠓨 嘉 定 [nay có sai Khâm sai thuộc nội Cai cơ Cửu vào Gia Định…]. Các chữ Nôm tự tạo là: 𠉞 (nay), 𠓨 (vào). Các chữ Nôm còn lại là các chữ Nôm mượn chữ Hán.
Trong các văn bản của Công đồng như: Công đồng truyền, Công đồng sai, Công đồng phó. Riêng loại Công đồng truyền hiện có 309 đơn vị văn bản. Loại này có chữ Nôm tự tạo 𠉞 (nay) và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong dạng công thức như: 𠉞 𠳐固 攽 下… [nay vâng có ban hạ], trong Châu bản ngày 6 tháng Giêng năm Gia Long thứ 4 (1805). Hoặc cụm từ 𣈜𨎟固傳 [ngày trước có truyền], trong văn bản đề ngày 20 tháng Giêng năm Gia Long thứ 2 (1803). 𠉞𠳐旨 [nay vâng chỉ], trong văn bản đề ngày 6 tháng giêng năm Gia Long thứ 4 (1805)…
Trong loại Quốc thư. Đây là những văn bản bang giao của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Miến Điện… với Việt Nam được dịch ra tiếng Việt. Phần Việt văn ghi bằng chữ Nôm. Một bức thư của một thủy thủ Pháp gửi cho nhà đương cục Việt Nam đề ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817), mở đầu bức thư ghi 眾碎於在渃葩朗沙城浦 都盧 𠸜 羅 … [Chúng tôi ở tại nước Ba Lãng Sa thành phố Đô Lô tên là…] Trong đoạn văn này có chữ Nôm tự tạo 渃 (nước); 𠸜 (tên)... Các chữ còn lại là các chữ Hán được mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.
Trong văn bản Tấu, các chữ Nôm tự tạo và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong các cụm từ công thức 奏 湃 德 皇上 閍 閍 𢆥 高 明 御 覽 (tấu vái đức hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm). Trong công thức này có 4 chữ Nôm tự tạo là 湃 (vái) 閍 閍 𢆥 (muôn muôn năm) hoặc cụm từ 𠉞具 表 奏 浪 [nay cụ biểu tấu rằng], văn bản đề ngày 20 tháng 1 năm Gia Long thứ 4 (1805). 𠉞 (nay) là chữ Nôm tự tạo, các mã chữ còn lại trong cụm từ này là chữ Nôm mượn chữ Hán.

Chữ Nôm vẫn tồn tại trong văn học thời Nguyễn. Dù không được ưu tiên trong hành chính, chữ Nôm vẫn tiếp tục thịnh hành trong văn học dưới thời nhà Nguyễn, đặc biệt là giai đoạn đầu (thế kỷ 19). Các tác phẩm lớn như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du (được hoàn thiện và phổ biến rộng rãi dưới thời Nguyễn), thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều là minh chứng cho sức sống của chữ Nôm trong sáng tác dân tộc.

Sự suy giảm thực sự của chữ Nôm xảy ra vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp xâm lược và thúc đẩy chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh). Nhà Nguyễn, đặc biệt trong giai đoạn suy yếu, không có chính sách bảo tồn chữ Nôm, và chữ Quốc ngữ dần thay thế hoàn toàn do sự đơn giản, dễ học và sự hỗ trợ từ chính quyền thực dân.