Chữ Nôm, hình thành phát triển và suy tàn ở An Nam

Chữ Nôm là hệ thống chữ viết cổ của người Việt, được sáng tạo để ghi lại tiếng Việt dựa trên cơ sở chữ Hán (chữ Trung Quốc), nhưng được biến đổi và bổ sung để phù hợp với ngôn ngữ và âm thanh của tiếng Việt. Không có một cá nhân cụ thể nào được ghi nhận là người sáng tạo ra chữ Nôm, mà đây là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và sáng tạo tập thể của người Việt qua nhiều thế kỷ.
bc5d9168-a29f-4815-b98b-f009c80c2688.jpeg

Nguồn gốc và thời kỳ hình thành
Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ 10, sau khi Việt Nam giành được độc lập từ sự đô hộ của Trung Quốc (năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng Giang). Ban đầu, người Việt sử dụng chữ Hán để ghi chép, nhưng do tiếng Việt khác biệt lớn về ngữ âm và ngữ pháp so với tiếng Hán, chữ Nôm dần được hình thành để diễn đạt ngôn ngữ bản địa. Đây là sự kết hợp giữa việc mượn chữ Hán có sẵn và sáng tạo thêm các ký tự mới (thường bằng cách ghép chữ Hán với ký hiệu hoặc thêm nét để biểu thị âm tiếng Việt).

Thời kỳ thịnh hành
Chữ Nôm thực sự phát triển mạnh mẽ và trở nên phổ biến từ thời nhà Trần (thế kỷ 13-14) và đạt đỉnh cao vào thời nhà Lê sơ (thế kỷ 15) đến thời Nguyễn (thế kỷ 19). Đặc biệt:
- Thời nhà Trần: Các tác phẩm văn học bằng chữ Nôm bắt đầu xuất hiện, như thơ của Trần Nhân Tông hay Nguyễn Trãi sau này.
- Thời nhà Lê và nhà Nguyễn: Chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn học, hành chính, và đời sống. Các tác phẩm nổi tiếng như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm.

Đỉnh cao của chữ Nôm là vào thế kỷ 18-19, khi nó trở thành công cụ chính để sáng tác văn học dân tộc, phản ánh bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh) được Alexandre de Rhodes và các nhà truyền giáo phát triển, cùng với sự thúc đẩy của thực dân Pháp, chữ Nôm dần bị thay thế và mai một.

Đặc điểm của chữ Nôm:

- Chữ Nôm không có hệ thống chuẩn hóa hoàn toàn, nên cách viết đôi khi thay đổi tùy theo vùng miền và người sử dụng.
- Nó phức tạp hơn chữ Quốc ngữ, đòi hỏi người học phải nắm cả chữ Hán lẫn cách biến đổi để hiểu tiếng Việt.


chu-nom-va-chu-han.png



Vai trò của Nguyễn Huệ đối với chữ Nôm
Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung, 1753-1792)


10-cau-hoi-ve-vua-Quang-Trung-vua_quangtrung-1515036784-width600height473.jpg


Một trong ba anh em Tây Sơn và là vị vua tài năng của triều đại Tây Sơn, đã có những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sử dụng chữ Nôm, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Dù triều đại của ông ngắn ngủi (1788-1792), ông đã để lại dấu ấn rõ nét trong việc nâng cao vị thế của chữ Nôm so với chữ Hán:

Chính sách dùng chữ Nôm trong hành chính

Nguyễn Huệ chủ trương thay thế dần chữ Hán bằng chữ Nôm trong các văn bản chính thức của triều đình. Ông ban hành sắc lệnh yêu cầu các quan lại và sĩ tử sử dụng chữ Nôm thay vì chữ Hán trong giáo dục, thi cử và giao dịch hành chính. Đây là một bước đi táo bạo nhằm giảm sự lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc, vốn đã chi phối Việt Nam qua hàng thế kỷ.
Ví dụ: Ông ra lệnh dịch các sách chữ Hán sang chữ Nôm để phổ biến kiến thức cho dân chúng. Việc thúc đẩy chữ Nôm dưới thời Nguyễn Huệ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ mà còn mang ý nghĩa chính trị và văn hóa. Ông muốn xây dựng một nhà nước độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, và chữ Nôm là biểu tượng của sự tự chủ đó. Tuy nhiên, do triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn (đến năm 1802 thì nhà Nguyễn lên ngôi), chính sách của Nguyễn Huệ về chữ Nôm chưa kịp phát triển sâu rộng hay tạo ra ảnh hưởng lâu dài. Sau khi ông qua đời, nhiều cải cách của ông không được tiếp tục. Nhà Nguyễn (1802-1945) không trực tiếp "dẹp bỏ" chữ Nôm một cách có chủ đích hay ra sắc lệnh cấm sử dụng, nhưng chính sách của triều đại này đã góp phần làm giảm dần tầm quan trọng và sự phổ biến của chữ Nôm.

Hạn chế của chữ Nôm là quá thô và khó đạt ý cũng như bần bần hèn hèn, nhà Nguyễn không bỏ đi vẫn dùng nhưng trở lại sử dụng chữ Hán nhiều hơn mà thôi

Nhà Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, có xu hướng quay lại sử dụng chữ Hán như một công cụ chính trong hành chính, giáo dục và thi cử. Điều này xuất phát từ việc triều đình muốn củng cố tính chính thống theo mô hình Nho giáo Trung Quốc, vốn coi chữ Hán là chuẩn mực. Chữ Nôm, dù vẫn được dùng, bị xem là "ít trang trọng" hơn và không được khuyến khích trong các văn bản chính thức. Nhưng nhà Nguyễn không cấm, cụ thể

Trong các văn bản Chiếu, Dụ, Chỉ: đây là loại văn bản chuyên dành cho nhà vua. Theo Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập I, loại này có 164 đơn vị văn bản. Trong đó một tờ Chiếu đề ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802), nhà vua đã lệnh cho Nguyễn Phúc Thí, một chi phái con cháu nhà chúa trước đây kê khai phổ hệ, tờ chiếu này có đoạn: 德 先 聖 王 生 下 公 子 羅 買 𡾵, 埃 羅 𣳔 嫡, 埃 羅 𡉕 庶, 継 生 子 孫 世 次 鄧 包 饒, 忍 典 列 朝 拱 丕. 係 公 姓 各 支 派 現 存 羅 包 饒, 埃 㐌 預 固 官 職, 埃 渚 預 受 官 職 調 沛 備 開, 從 前 世 系 詳 究 的 實 具 修 譜 牒 進 覽. (Đức Tiên thánh vương sinh hạ công tử là mấy ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, kế sinh tử tôn thế thứ đặng bao nhiêu, nhận đến liệt triều cũng vậy. Hễ Công tính các chi phái hiện tồn là bao nhiêu, ai đã dự có quan chức, ai chưa dự thụ quan chức đều phải bị khai (kê khai đầy đủ). Trong đoạn văn này có 3 chữ Nôm tự tạo là 𡾵 (ngôi), 𡉕 (dòng), 饒 (nhiêu). Các chữ còn lại là các chữ Hán được nhà vua mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.

Trong tờ Dụ ghi ngày 3 tháng 1 năm Gia Long thứ 2 (1803) có các chữ 𠉞 固 差 欽 差 屬 內 該 奇 玖 𠓨 嘉 定 [nay có sai Khâm sai thuộc nội Cai cơ Cửu vào Gia Định…]. Các chữ Nôm tự tạo là: 𠉞 (nay), 𠓨 (vào). Các chữ Nôm còn lại là các chữ Nôm mượn chữ Hán.

Trong các văn bản của Công đồng như: Công đồng truyền, Công đồng sai, Công đồng phó. Riêng loại Công đồng truyền hiện có 309 đơn vị văn bản. Loại này có chữ Nôm tự tạo 𠉞 (nay) và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong dạng công thức như: 𠉞 𠳐固 攽 下… [nay vâng có ban hạ], trong Châu bản ngày 6 tháng Giêng năm Gia Long thứ 4 (1805). Hoặc cụm từ 𣈜𨎟固傳 [ngày trước có truyền], trong văn bản đề ngày 20 tháng Giêng năm Gia Long thứ 2 (1803). 𠉞𠳐旨 [nay vâng chỉ], trong văn bản đề ngày 6 tháng giêng năm Gia Long thứ 4 (1805)…

Trong loại Quốc thư. Đây là những văn bản bang giao của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Miến Điện… với Việt Nam được dịch ra tiếng Việt. Phần Việt văn ghi bằng chữ Nôm. Một bức thư của một thủy thủ Pháp gửi cho nhà đương cục Việt Nam đề ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817), mở đầu bức thư ghi 眾碎於在渃葩朗沙城浦 都盧 𠸜 羅 … [Chúng tôi ở tại nước Ba Lãng Sa thành phố Đô Lô tên là…] Trong đoạn văn này có chữ Nôm tự tạo 渃 (nước); 𠸜 (tên)... Các chữ còn lại là các chữ Hán được mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt.

Trong văn bản Tấu, các chữ Nôm tự tạo và các chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong các cụm từ công thức 奏 湃 德 皇上 閍 閍 𢆥 高 明 御 覽 (tấu vái đức hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm). Trong công thức này có 4 chữ Nôm tự tạo là 湃 (vái) 閍 閍 𢆥 (muôn muôn năm) hoặc cụm từ 𠉞具 表 奏 浪 [nay cụ biểu tấu rằng], văn bản đề ngày 20 tháng 1 năm Gia Long thứ 4 (1805). 𠉞 (nay) là chữ Nôm tự tạo, các mã chữ còn lại trong cụm từ này là chữ Nôm mượn chữ Hán.



Chữ Nôm vẫn tồn tại trong văn học thời Nguyễn. Dù không được ưu tiên trong hành chính, chữ Nôm vẫn tiếp tục thịnh hành trong văn học dưới thời nhà Nguyễn, đặc biệt là giai đoạn đầu (thế kỷ 19). Các tác phẩm lớn như *Truyện Kiều* của Nguyễn Du (được hoàn thiện và phổ biến rộng rãi dưới thời Nguyễn), thơ Hồ Xuân Hương, hay *Lục Vân Tiên* của Nguyễn Đình Chiểu đều là minh chứng cho sức sống của chữ Nôm trong sáng tác dân tộc.
cha-alexandre-de-rhodes-mot-guong-mat-truyen-giao.jpg



Sự suy giảm thực sự của chữ Nôm xảy ra vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp xâm lược và thúc đẩy chữ Quốc ngữ (dựa trên bảng chữ cái Latinh). Nhà Nguyễn, đặc biệt trong giai đoạn suy yếu, không có chính sách bảo tồn chữ Nôm, và chữ Quốc ngữ dần thay thế hoàn toàn do sự đơn giản, dễ học và sự hỗ trợ từ chính quyền thực dân.
 
Pro tiếng Trung mới xài dc chữ Nôm nên nó ko phổ cập cho dân dc.
Qua tiếng latin thì phiên âm lại, cộng với Pháp thuộc xây dựng hệ thống trường thì rõ ràng chữ Việt hiện tại dễ học dễ tiếp cận hơn.
 
Đọc chữ này nghe nó sang vãi Lồn. Thật ra mà nói ko muốn làm nô lệ, nhưng lề lối văn phong của chữ mới bây giờ, ko bằng chữ tàu.
Dịch mấy cái chiếu dụ chữ nôm ra, nghe như đọc truyện, hay vãi Lồn.
 
Đến cái Ví Dụ là thấy tụi bò đỏ sục c xạo lol rồi: khuyến khích dịch sách Hán qua chữ Nôm để bổ sung kiến thức cho dân.
Thời xưa ngoài tầng lớn quan lại thì chỉ có tụi nhà Giàu nhà dạng có tiền mới cho con cái đc Cái Chữ . Đm dân lúc đó thất học k bít chữ. Mà để đọc chữ Nôm phải nắm đc chữ Hán ? Lấy cc j học khi chữ Hán còn chưa bít nhìu ?
 
Nội cách viết khác nhau theo từng vùng là thấy như cặc rồi, chữ viết phải thống nhất cả nước chứ vùng này vùng kia phát âm khác nhau rồi viết khác nhau thì đọc thế đéo nào được, chưa kể phải thông thạo Hán tự thì mới đọc/viết được chữ Nôm thì thôi xài Hán tự luôn cho dễ
 
Tao không biết cái nhận định "muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán trước" có từ khi nào, nhưng đó là sai nhé.
Nếu chữ Nôm còn tồn tại thì người Việt chúng ta học chữ Nôm cũng y chang như người Trung học chữ Hán thôi, độ khó là y chang nhau.
 
Nội cách viết khác nhau theo từng vùng là thấy như cặc rồi, chữ viết phải thống nhất cả nước chứ vùng này vùng kia phát âm khác nhau rồi viết khác nhau thì đọc thế đéo nào được, chưa kể phải thông thạo Hán tự thì mới đọc/viết được chữ Nôm thì thôi xài Hán tự luôn cho dễ
Việc cùng 1 ngôn ngữ nhưng cách đọc và nói khác nhau cũng đâu có gì là lạ. Giống như kiểu 1 vùng gọi là con lợn, 1 vùng gọi là con heo thôi
 
Tao không biết cái nhận định "muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán trước" có từ khi nào, nhưng đó là sai nhé.
Nếu chữ Nôm còn tồn tại thì người Việt chúng ta học chữ Nôm cũng y chang như người Trung học chữ Hán thôi, độ khó là y chang nhau.
Chữ nôm vay mượn chữ Hán
Nên nhận định đó đúng
 
Bữa tao xem cái video trên youtube mới biết mấy ngàn năm xứ Việt đéo có chữ viết.

Chữ nôm về mặt tự chủ còn thua cả chữ Quốc ngữ. Chữ quốc ngữ chỉ mượn 29 ký tự latin làm nền tảng, chữ Nôm phải bê cả từ trong tiếng Hán vào.

Tao thắc mắc ngày xưa không phiên âm mẹ chữ Hán sang âm tiếng Việt, chế ra cái chữ Nôm làm mẹ gì. Ví dụ chữ 子, dạy cho dân thì 子 = Con, dạy nâng cao thì 子 = Tử (tiếng Hán) = Con (tiếng Việt)
 
Việc cùng 1 ngôn ngữ nhưng cách đọc và nói khác nhau cũng đâu có gì là lạ. Giống như kiểu 1 vùng gọi là con lợn, 1 vùng gọi là con heo thôi
Mày hiểu sai, tao ví dụ chữ “xàm”, bọn bake nake đọc là “xàm”, truke đọc là “xạm”, nhưng cả bọn cùng viết “xàm”, ok đéo có vấn đề gì

Nhưng mày đọc bài thằng cia @Johnny Lê Nữu Vượng chưa, chữ Nôm viết dựa trên cách đọc trại đi của chữ Hán, tức là mày muốn viết chữ “xàm”, nhưng do mày ngọng nên mày viết là “xèm”, thằng khác đéo ngọng đọc vô đéo hiểu mày viết gì
 
Bữa tao xem cái video trên youtube mới biết mấy ngàn năm xứ Việt đéo có chữ viết.

Chữ nôm về mặt tự chủ còn thua cả chữ Quốc ngữ. Chữ quốc ngữ chỉ mượn 29 ký tự latin làm nền tảng, chữ Nôm phải bê cả từ trong tiếng Hán vào.

Tao thắc mắc ngày xưa không phiên âm mẹ chữ Hán sang âm tiếng Việt, chế ra cái chữ Nôm làm mẹ gì. Ví dụ chữ 子, dạy cho dân thì 子 = Con, dạy nâng cao thì 子 = Tử (tiếng Hán) = Con (tiếng Việt)
Thực ra không có gì xấu hồ về việc không có chữ Viết, vì nhiều dân tộc cũng thế. Người Đức, Anh, Bắc Âu làm gì có chữ viết, họ mượn chữ latin chế lại thành chữ của họ mà.
Hoặc như Lào, Cam, Thái, Myanma bọn nó cũng từ 1 bộ chữ mà chế biến lại cho từng ngôn ngữ.
Chữ Nhật cũng là chế lại từ chữ Hán. Kanji thì không nói rồi, nhưng ngay cả hiragana và katakana đều được tạo ra bằng cách đơn giản hóa 1 chữ Hán có cách đọc tương đương.

Còn việt dùng 1 chữ Hán cho cả âm Việt và Hán Việt thì mày nói đúng. Như kiểu bọn Nhật là tụi nó cũng làm như mày nói, tức là nó dùng thẳng chữ 子 luôn, nhưng tùy lúc mà đọc khác nhau. Lúc thì nó đọc là "ko" theo tiếng Nhật, lúc đọc là "shi" theo tiếng Hán.
Nhưng mà cá nhân tao thấy đọc kiểu đó rắc rối bỏ bà. Nhật ngôn ngữ nó ít âm tiết nên nó phải chấp nhận. Còn VN mình may mắn có ngôn ngữ nhiều âm tiết nên có thể la tinh hóa được, không cần dùng chữ Hán/nôm nữa
 
Tao không biết cái nhận định "muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán trước" có từ khi nào, nhưng đó là sai nhé.
Nếu chữ Nôm còn tồn tại thì người Việt chúng ta học chữ Nôm cũng y chang như người Trung học chữ Hán thôi, độ khó là y chang nhau.
M nói lại khác. Chữ Hán nó là nền tảng để m học chữ Nôm. M đéo biết chữ Hán rồi sao k học ra hiểu nghĩa được chữ Nôm. Lý giải như m là nếu là chữ Quốc Ngữ thì sẽ đúng hoàn toàn vì nó là 1 Hệ thống chữ mới k liên quan gì đến chữ Hán hay Nôm. Còn đây m dạy chữ Nôm nhưng từ chữ Hán thêm thắt biến hoá ra khó thêm thì học làm cc chi cho mệt. Trong khi chữ Hán nó đã khó vậy học mẹ chữ Hán nó k dễ hơn. Tụi Tàu nó thấy chữ Hán khó học nên pải giản lược bớt cho dân nó biết chữ. Còn tộc Vẹm nó đã bản tánh ngu dốt mà còn dạy khó thêm thì m thấy thành công k ?
 
Tao không biết cái nhận định "muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán trước" có từ khi nào, nhưng đó là sai nhé.
Nếu chữ Nôm còn tồn tại thì người Việt chúng ta học chữ Nôm cũng y chang như người Trung học chữ Hán thôi, độ khó là y chang nhau.
1 chữ Nôm = 2 chữ Hán ghép lại. Có 2 3 cách ghép và đọc hiểu nên rối rắm.
Như chữ xàm thì 1 chữ Hán thanh "xàm" + chữ Hán nghĩa "xàm" ghép lại.
Qua tiếng Latin thì "xàm" ghép theo hệ thống âm tiếng nghĩa luôn là X(xờ) A(a) M(mờ) thành XAM(xam) + dấu `(huyền) thành "xàm", đổi dấu là đổi nghĩa, giữ dấu đổi vần là đổi nghĩa... Nó có chuẩn kết hợp nên toàn dân theo chuẩn đó thì dễ học hơn nhiều.
 
M nói lại khác. Chữ Hán nó là nền tảng để m học chữ Nôm. M đéo biết chữ Hán rồi sao k học ra hiểu nghĩa được chữ Nôm. Lý giải như m là nếu là chữ Quốc Ngữ thì sẽ đúng hoàn toàn vì nó là 1 Hệ thống chữ mới k liên quan gì đến chữ Hán hay Nôm. Còn đây m dạy chữ Nôm nhưng từ chữ Hán thêm thắt biến hoá ra khó thêm thì học làm cc chi cho mệt. Trong khi chữ Hán nó đã khó vậy học mẹ chữ Hán nó k dễ hơn. Tụi Tàu nó thấy chữ Hán khó học nên pải giản lược bớt cho dân nó biết chữ. Còn tộc Vẹm nó đã bản tánh ngu dốt mà còn dạy khó thêm thì m thấy thành công k ?
Chắc mày chưa học chữ Hán nên không biết. Các dân tộc dùng chữ hán như Trung, Nhật thì người dân học theo kiểu nhớ mặt chữ và nhớ cách đọc, chứ không cần nhớ quy tắc tạo sao chữ đó được đọc như vậy. tầm 4,5 ngàn chữ họ sẽ phải ghi nhớ theo kiểu đó trong suốt cuộc đời.
Nguyên nhân là vì chữ Hán phần lớn là 50% tượng thanh 50% tượng hình, và việc sử dụng bộ nào để tượng thanh là tùy theo ý của thằng tạo ra chữ chứ không có logic gì cả.
Tao nói ví dụ các chữ 詩 侍 時 持 đều sử dụng gốc tượng thanh 寺 , nhưng có nhiều gốc khác cũng đọc giống như vậy ví dụ 市 氏 士 史 子, tại sao thằng tạo ra mấy chữ Hán kia lại không dùng những gốc đó mà lại dùng 寺, không ai ngoài thằng tạo ra chữ biết cả. Nên không có cách nào khác ngoài việc học thuộc lòng.
 
Mày hiểu sai, tao ví dụ chữ “xàm”, bọn bake nake đọc là “xàm”, truke đọc là “xạm”, nhưng cả bọn cùng viết “xàm”, ok đéo có vấn đề gì

Nhưng mày đọc bài thằng cia @Johnny Lê Nữu Vượng chưa, chữ Nôm viết dựa trên cách đọc trại đi của chữ Hán, tức là mày muốn viết chữ “xàm”, nhưng do mày ngọng nên mày viết là “xèm”, thằng khác đéo ngọng đọc vô đéo hiểu mày viết gì
Đấy là do môi trường sống của mày nó ảnh hưởng chứ chương trình giáo dục nó luôn dạy mày 1 mặt chữ và 1 kiểu phát âm thống nhất.
 
Chắc mày chưa học chữ Hán nên không biết. Các dân tộc dùng chữ hán như Trung, Nhật thì người dân học theo kiểu nhớ mặt chữ và nhớ cách đọc, chứ không cần nhớ quy tắc tạo sao chữ đó được đọc như vậy. tầm 4,5 ngàn chữ họ sẽ phải ghi nhớ theo kiểu đó trong suốt cuộc đời.
Nguyên nhân là vì chữ Hán là tượng thanh hoặc 50% tượng thanh, và việc sử dụng bộ nào để tượng thanh là tùy theo ý của thằng tạo ra chữ chứ không có logic gì cả.
Tao nói ví dụ các chữ 詩 侍 時 持 đều sử dụng gốc tượng thanh 寺 , nhưng có nhiều gốc khác cũng đọc giống như vậy ví dụ 市 氏 士 史 子, tại sao thằng tạo ra mấy chữ Hán kia lại không dùng những gốc đó mà lại dùng 寺, không ai ngoài thằng tạo ra chữ biết cả. Nên không có cách nào khác ngoài việc học thuộc lòng.
T nhớ Hán nó là chữ Tượng Hình mà ?
 
Đơn giản hơn
Chữ Hán: Mr. Phuc
- Chữ Nôm miền Bắc: Mít sờ tờ Phất
- Chữ Nôm miền Trung: Mít sờ tờ Phớc
Nôm mượn từ phát âm Hán ra, mỗi miền phát âm một kiểu nên mỗi miền có 1 chữ Nôm
Chữ quốc ngữ: Ông Phúc
 
Đầu năm 1277, Trần Thánh Tông thân chinh thảo phạt các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Trần Quang Khải đi theo hộ giá. Ghế Tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Trần Quốc Tuấn tới, tỏ ý định lấy ông làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc. Trần Quốc Tuấn trả lời:

"Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".


Văn chương ngày xưa nghe sang đẳng cấp thiệt.
Văn phong chuẩn giọng bắc phải thế này.

"Địt mẹ thế thì việc tiếp sứ giả, tớ đéo dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì địt mẹ thần đéo vâng chiếu đấy. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa vãi lồn, Quang Khải theo hầu mà địt cụ bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, thì địt mẹ vâng mệnh cũng chưa muộn".
 

Có thể bạn quan tâm

Top