Muốn giàu có và hạnh phúc thì hãy đọc SÁCH

Hai Số Phận - Chương 10
Tương lai là điều Anne lấy làm lo ngại. Mấy tháng đầu lấy nhau là hạnh phúc. Chị chỉ hơi phiền về chuyện William mỗi lúc một tỏ ra không ưa Henry, còn anh chồng mới của chị xem ra cũng chưa thể làm việc ngay được. Henry có phần nào không yên, giải thích cho Anne biết là đến bây giờ anh vẫn còn bị chiến tranh làm cho chệch choạc, và anh không muốn vội vã lao vào một cái gì đó để rồi bị kẹt suốt cả đời. Chị nghe nói thế không thông, và cuối cùng thì hai người bắt đầu cãi lộn.

- Em không hiểu tại sao anh không tiếp tục cái nghề kinh doanh nhà đất mà anh đã thông thạo rồi ấy Henry.

- Anh không thề. Mà cũng chưa đến lúc. Thị trường nhà đất lúc này không có vẻ hứa hẹn gì lắm.

- Gần một năm nay anh vẫn cứ nói đi nói lại câu đó Không biết đến bao giờ anh mới cho là hứa hẹn được Nhất định sẽ hứa hẹn chứ. Sự thực là anh cần có thêm chút vốn liếng nữa mới khởi sự được. Nếu em cho anh có được ít tiền của em, thì ngay ngày mai anh khởi? sự được ngay.

- Điều đó là không được Henry. Anh biết những điều khoản trong di chúc của Richard rồi:

Chúng ta lấy nhau là lập tức trợ cấp của em bị chấm dứt, và bây giờ thì chỉ còn lại có vốn riêng thôi.

Chỉ cần một chút đó thôi là gìúp cho anh làm ăn được rồi, mà em cũng đừng quên là cái thằng bé yêu quý ấy của em còn có trên hai mươi triệu tiền ủy thác của gia đình.

- Hình như anh biết kỹ về tiền của William lắm nhỉ, Anne nói với một giọng nghi hoặc.

Thôi đi, em. Em cũng phải cho anh được làm chồng của em chứ. Đừng làm anh cảm thấy như mình là khách trong nhà của chính mình.

Vậy tiền của anh đâu? Anh vẫn nói để em tin rắng anh có đủ tiền làm ăn rồi kia mà.

Em vẫn biết là về mặt tài chinh thì anh không thể đứng vào hạng của Richard được. Mà trước đây đã có lúc em nói rằng điều đó không quan trọng. Em vẫn sẽ lấy anh, Henry, dù anh không có một xu nào - Anh nhại lại cái giọng của Anne.

Aune bật khóc. Henry tìm cách an ủi. Cả buổi tối đó chị nằm trong vòng tay của anh bàn đi bàn lại chuyện ấy. Aune nghĩ .bụng mình làm như vậy thì không phải là người vợ, và cũng không rộng rãi gì lắm. Chị có nhiều tiền hơn là chị cần. Chẳng lẽ chị không trao được một ít cho người đàn ông mà chị nguyện đã trao cả cuộc đời mình cho anh ta hay sao?

Nghĩ thế, chị đồng ý cho Henry 100 nghìn đô- la để anh ta thiết lập một văn phòng nhà đất ở BoBton. Trong vòng một tháng, Henry đã tìm được địa điểm làm văn phòng rất đẹp trong khu hiện đại của thành phố, kiếm một số nhân viên và khởi sự làm việc.

Chẳng bao lâu anh đã quan hệ được với những chính khách quan trọng của thành phố và những vị kinh doanh nhà đất khác ở Boston. Họ bàn tán với nhau về chuyện ruộng đất đang phát triển mạnh và tỏ ra ca tụng Henry. Anne không quan tâm lắm về những mối quan hệ xă hội ấy, nhưng Henry thì sung sướng và có vẻ như anh rất thành công trong nhữug hoạt động của mình.

Khi Wilham mười lăm tuổi thì anh đã học năm thứ ba ở trường St.Paul, đứng thứ sáu trong lớp và đứng đầu về toán Anh cũng trở thành một nhân vật đang nổi trong Hội Tranh Luận Mỗi tuần, anh viết thư về cho mẹ một lần để báo cáo về việc học hành của mình. Thư nào anh cũng chỉ đề ngoài bì là bà Richard Kane, không thừa nhận là có Henry osborne. Anne phân vân không biết có nên nhắc nhở điều đó với con không. Mỗi buổi sáng thứ hai, chị cẩn thận ra hòm thư để lấy thư của William gửi về, cốt để cho Henry khỏi trông thấy chữ đề trên phong bì. Chị vẫn hy vọng là đến một lúc William sẽ thấy thích Helry. Nhưng rõ ràng hy vọng đó là không thực tế, nhất là khi viết thư về nhà William có một lần xin phép mẹ cho anh cùng đi nghỉ hè với người bạn là Matthequ Lester, lúc đầu là đi trại hè ở Vermont và sau đó là về với gia đình của Lester ở New York. Yêu cầu đó của anh làm cho Anne thấy đau buồn, nhưng rồi chị cũng đành chấp thuận và Henry hình như cũng tán thành như vậy.

William rất ghét Henry osborne và cứ nuôi trong lòng sự căm giận ấy mà không biết mình phải làm thế nào. Anh mừng thầm là Henry không bao giờ đến trường thăm anh. Anh không thể nào chịu được để cho các bạn khác trông thấy, mẹ anh đi với con người ấy Anh lấy làm khổ tâm phải sống với Henry ở Boston.

Lần đầu tiên kề từ sau khi mẹ anh tái giá, William nóng ruột muốn cho những ngày hè đến sớm. Chiếc xe Packard của nhà Lester có người lái và chạy rất êm đưa William và Matthequ đến trại hè ở vermont. Trên đường đi, Matthequ bỗng hỏi Wlliam là ở trường St. Paul ra anh sẽ làm gì..

- Lúc ra trường, mình sẽ đứng đầu lớp, là trưởng lớp và mình sẽ giành được danh hiệu nhận giải thứởng học bổng Hamilton về toán để lên Harvard, Wilham trả lời không hề lúng túng.

- Tại sao lại quan trọng thế - Metthequ ngớ ngẩn hỏi.

Bố mình ngày xưa đạt được cả ba điều ấy.

- Vậy khi nào cậu làm được như thế, mình sẽ giới thiệu cậu với bố mình.

William mỉm cười.

Hai anh chàng thanh niên này sống sáu tuần vui vẻ và hoạt động sôi nổi ở Vermont, từ đánh cờ đến đá bóng. Hết kỳ nghỉ ở đây, họ lại quay về New York sống nốt một tháng hè nữa với gia đình Lester.

Người quản gia đứng sẵn ở cửa ra đón họ. Ông ta gọi Matthequ là "ông". Một cô gái mười hai tuổi mặt đầy tàn nhang thì gọi anh là "Béo". Wilham buồn cười, vì bạn anh thì gầy, mà chính cô ta mới là béo. Cô gái cười nhe bộ răng gần như bịt hết. ' Chắc cậu không tin rằng Susan là em gái mình đâu nhỉ - Matthequ nói với một vẻ khinh thường cô em.

- Không, mình không blết, William nói và nhìn Susan cười. - Cô em trông còn xinh hơn cậu nhiều.

Từ đó trở đi, cô ta rất quý Wllliam.

Wilham mới gặp bố Matthequ đã thích ông ta ngay. Anh thấy ông có nhiều cái rất giống với bố mình trước kia. Anh đề nghị ngay với ông Charles Lester cho anh được xem nhà ngân hàng lớn mà ông làm chủ tịch.

Charles Lester suy nghĩ mãi về yêu cầu đó của anh. Xưa nay chưa có đứa nhỏ nào được phép vào đến khu vực 17 phố Broad bao giờ, kể cả chính con ông. Ông bèn làm như mọi nhà ngân hàng khác là chiều chủ nhật đưa anh đi quanh các tòa nhà ở phố Wall vậy.

William phải hoa mắt về những cơ quan làm việc, những cửa cuốn, phòng ngoại hối, phòng họp của các vị lãnh đạo và văn phòng của chú tịch. Những hoạt động ngân hàng của nhà Lester còn rộng rãi sôi nổi hơn nhiều so với nhà Kane và Cabot. Wa tài khoản (đầu tư riêng rất nhỏ của mình, William vẫn nhận dược bản sao báo cáo hàng năm và anh biết rằng nhà lester còn có vốn hơn rất nhiều so với nhà Kane và Cabot. Ngồi trên xe trở về nhà, William yên lặng và có vẻ rất tư lự. ' - Thế nào, William, cháu xem ngân hàng có thích không? - Ông Charles Lester vui vẻ hỏi.

ồ thưa ông có, William đáp. - Cháu thích lắm. - Ngừng một lát, anh nói tiếp:

- Ông Lester ạ, một ngày kia cháu cũng muốn làm chủ tịch ngân hàng của ông.

Charles Lester cười. Tối hôm đó ngồi ăn với các vị khách mời đến nhà, ông cũng kể lại câu nói của William Kane đối với Công ty Lester và mọi người cười ran.

Chỉ có William thì không nghĩ rằng đó là một câu đùa.

Anne rất lạ thấy Henry lại về đòi chị bỏ thêm tiền ra nữa. - Tiền này cũng vững như ngôi nhà vậy, - Anh ta đảm bảo với chị. - Em cứ hỏi Alan Doyd xem. Là chủ tịch ngân hàng thì bao giờ ông ấy chả nghĩ đến lợi tức của em là chuyện hàng đầu.

- Nhưng còn hai trăm năm mười nghìn? - Anne hỏi.

- Một cơ hội tuyệt vời, em ơi. Em phải coi đó như một khoản đầu tư mà trong hai năm nó sẽ tăng lên gấp đôi.

Sau một hồi cãi lộn với nhau nữa, Anne lại phải đồng ý, và cuộc sống lại vui vẻ như cũ. Lúc kiềm tra lại tài khoản của mình trong ngân hàng. Anne thấy vốn đã tụt xuống còn có một trăm năm mươi nghìn. Nhưng chị cũng thấy hình như Henry vẫn làm ăn với nhưng người tử tế và thu chi đâu ra đấy. Chị định đem vấn đề ra bàn với Alan Lloyd bên nhà Kane và Cabot, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, vì như vậy sẽ có nghĩa là chị không tin ở người chồng mà chị muốn để cho mọi người tôn trọng. Vả lại, Henry cũng đã chẳng đưa ra đề nghị ấy nếu như anh ta không chắc chắn là vụ vay mượn này không được sự tán thành của Alan.

Anne cũng lại bắt đầu thăm bác sĩ MacKenzie và hỏi xem chị có hy vọng gì đẻ được nữa không, nhưng bác sĩ vẫn khuyên chị là không nên. Với tình trạng huyết áp cao đă làm cho chị sẩy thai lần trước, Andrequ MacKenzie cho rằng ở cái tuổi ba mươi lăm thì Anne không nẽn nghĩ đến chuyện làm mẹ một lần nữa. Aune đem vấn đề bàn với các cụ bà nột ngoại thì các cụ hoàn toàn nhất trí với ý kiến của bác sĩ. Cả hai cụ chẳng ai muốn quan tâm gì đến Henry, và các cụ lại càng không muốn nghĩ đến chuyện mai kia một đứa con đẻ ra mang dòng họ Henry lại đòi được hưởng tài sản của họ nhà Kane, mà lúc đó các cụ. đã đi cả rồi thì làm sao. Anne đành chịu làm mẹ của một đứa con vậy. Henry thì lấy thế làm tức giận, bảo chị là phản bội. Anh ta nói giá như Richard còn sống thì chị đã đẻ nữa rồi. Chị nghĩ bụng không biết mình yêu ai hơn. Chị cố làm cho Henry yên lòng, thầm mong cho công việc của anh ta khấm khá lên và lúc nào cũng bận rộn để quên đi. Anh ta thường ở lại cơ quan làm việc rất khuya. vào một ngày thứ hai trong tháng Mười, tức là sau ngày nghỉ cuối tuần kỷ niệm hai năm hữ cưới nhau, Aime nhận được mấy lá thư của một "người bạn" không ký tên, báo cho chị biết là Henry đi với những phụ nữ khác ở quanh Boston, đặc biệt đi với một bà mà trong thư không tiện nói tên. Lúc đầu, Anne đốt ngay những bức thư ấy. Mặc dầu nó làm chị băn khoăn lo lắng, chị vẫn không nói gì với Henry cả. Lần nào nhận thư chì cũng mong đó là lá thư cuối cùng. Chị cũng vẫn không có đủ can đảm nói lên chuyện đó với Henry, nếu như không có việc Henry lại đòi chị bỏ ra nết số tiền 15 không.000 đô- la còn lại của chị.

Anh sẽ mất hết toàn bộ số vốn liếng nếu như không có được số tiền ấy bây giờ, Anne.

- Nhưng tất cả em chỉ còn có thế thôi, Henry. Nếu bây giờ đưa cho anh nữa thì em không còn gì hết.

Riêng ngôi nhà này thôi đã đáng giá trên hai trăm nghìn. Ngày mai em có thể đem cầm nó được.

- Ngôi nhà này là của Wilham.

William, Wilham, William. Bao giờ cũng chỉ có William cản trở hết cả công việc của tôi, - Henry quát lên và vùng vằng đi ra.

Mãi đến sau mười hai giờ đêm anh ta mới về nhà, tỏ vẻ hối hận, nói là đáng lẽ không nên đụng gì đến tiền của chị nữa, vì dù sao hai người cũng còn rất yêu nhau. Anne nghe anh ta nói thế rất yên tâm, rồi đến khuya hai người lại làm tình với nhau. Sáng hôm sau, chị ky luôn vào tờ séc 15 không.000 nghin đô- la, cố quên đi rằng mình chẳng còn một đồng nào nữa để cho Henry có thể tiếp tục theo đuổi vụ làm ăn của anh ta. Chị cũng hơi lạ thấy yêu cầu của Henry lần này đúng với số tiền còn lại trong gia tài chị được hưởng.

Tháng sau đó, Anne tắt kinh. Bác sĩ MacKenzie rất lo ngại nhưng không biểu lộ ra mặt. Các cụ bà thì hoảng hốt và lo ra mặt, nhưng Henry thì sung sướng và bảo Anne rằng đó là điều tuyệt diệu nhất trong cả đời anh ta. Anh ta còn đồng ý xây một khoa nhi cho bệnh viện, điều mà trước đây Richard đã định làm khi chưa qua đời.

Khi William nhận được thư mẹ báo tin đó, anh ngồi suy nghĩ suốt cả buổi tối, ngay cả với Mathequ anh cũng không dám nói gì về điều lo ngại. Sáng thứ bảy sau đó, được phép của chủ nhà trọ, ông Raglan Nóng Tính, anh đi xe lửa lên Boston. Đến nơi, anh rút một trăm đô- la trong quỹ tiết kiệm rồi đến văn phòng luật sư Cohen và Yablons ở phố Jephpherson. Ông Thomas Cohen, một người cao lớn, xương xương và có chiếc cằm bạnh, rất ngạc nhiên thấy William bước vào văn phòng ông ta.

- Tôi chưa bao giờ tiếp một người mười sáu tuổi như thế này, - Ông Cohen nói. - Với tôi thì chuyện này là rất mới đây. - Ông ta ngập ngừng nóị... - Ông Kane.

ông ta thấy nói "ông Kane" nó ngường ngượng thế nào ấy. - Nhất là ông nhà trước kia hình nhự... không biết tôi nên nói thế nào nhỉ... hình như không có cảm tình gì lắm đối với những người trong giáo phái của tôi.

- Cha tôi, - William nói, - Là một người rất khâm phục những thành tựu của dân tộc Hibru và đặc biệt quý trọng hãng của ông thì ông đứng ra bênh vực cho đối thủ của cha tôi. Tôi có nghe cha tôi và ông Doyd nhắc đến tên ông rất nhiều lần. Vì vậy mà hôm nay tôi tìm đến ông, chứ không phải ông tìm tôi. Như vậy ông đủ tin được chưa.

ông Cohen lập tức gạt bỏ chuyện tuổi William sang một bên.

- Đúng thế, đúng thế. Tôi nghĩ là phải coi con trai của Richard Kena như một ngoại lệ. Nào, bây giờ tôi có thể giúp anh được gì đây?

- Tôi muốn được ông trả lời cho tôi ba câu hỏi, thưa ông Cohen. Một là, tôi muốn biết nếu mẹ tôi, tức bà Henry osborne, đẻ ra một đứa con, dù là trai hay gái, thì đứa con đó có quyền hợp pháp gì đối với gia tài ủy thác của gia đình Kane hay không. Hai là, tôi có nghĩa vụ gì về mặt pháp lý đối với ông Henry osbome chỉ vì ông ấy lấy mẹ tôi hay không? Và ba là, đến tuổi nào thì tôi có quyền đòi ông Henry osborne phải rời khỏi ngôi nhà của tôi trên quảng trường Luisburg ở Boston?

Ngòi bút của ông Cohen chạy rất nhanh trên mảnh giấy để trước mặt, làm bắn cả mấy giọt mực xanh lên mặt bàn vốn đã có nhiều vết mực rồi.

William đặt một trăm đô- la lên mặt bàn. Ông luật sư sửng sốt nhưng vẫn cầm đồng tiền lên đếm. - Xin ông dùng tiền cho thận trọng, thưa ông Cohen. Lúc ra trường Harvard, tôi sẽ cần đến một luật sư giỏi - Anh đã được nhận vào trường Harvard rồi ư? Tôi xin chúc mừng. Tôi hy vọng con trai tôi cũng sẽ được vào đó Không, tôi chưa vào, nhưng trong hai năm nữa tôi sẽ vào Một tuần nữa tôi sẽ trở lại Boston, thưa ông Cohen. Nếu trong đời tôi còn nghe thấy ai nói đến chuyện này ngoài ông ra, thì coi như quan hệ giữa ông với tôi chấm dứt đấy. Xin chào ông.

Lẽ ra Thomas Cohen cũng phải chào lại, nhưng ông chưa kịp thốt ra lời nào thì William đã ra ngoài và cánh cửa đã khép sau lưng anh rồi.

Bảy ngày sau, William trở lại văn phòng luật sư Cohen và Yablons.

- A, chào ông Kane, - Thomas Cohen nói - Rất mừng gặp lại ông. Ông uống cà phê chứ?

Không ạ, xin cảm ơn ông. ,Tôi cho người đi mua Coca- cola về nhé?

Mặt William phớt tỉnh.

- Thôi ta làm việc vậy, - Ông Cohen nói với vẻ hơi lúng túng. - Ông Kane, chúng tôi đã cho đi điều tra với sự giúp đỡ của một số người. Những câu hỏi ông nêu ra không hoàn toàn thuộc về lĩnh vực kinh viện.

Tôi nghĩ là có thể có được những câu trả lời chắc chắn cho tất cả những câu hỏi ông nêu ra. Ông hỏi nếu như đứa con mà mẹ Ông đẻ ra cho ông osborne thì đứa con đó có được quyền hưởng gì tài sản của họ Kane hay không, hay nói đúng hơn là tài sản được ủy thác do cha ông để lại. Câu trả lời đơn giản là không, nhưng cố nhiên bà osborne vẫn có thể để một phần trong số năm trăm nghìn đô- la do cha ông để lại cho bà và bà muốn đem nó cho ai thì tuỳ.

ông Cohen nhìn lên.

- Tuy nhiên, ông Kane ạ, có lẽ ông cũng muốn biết rằng mẹ Ông đã rút hết toàn bộ số tiền năm nghìn trong tài khoản ấy của bà ở ngân hàng Kane và Cabot trong mười tám tháng qua rồi, nhưng chúng tôi thì không sao tìm ra được là số tiền ấy đã được dùng như thế nào. Rất có thể là bà ấy đã quyết định gửi số tiền ấy sang một ngân hàng khác.
 
William tỏ vẻ khó chịu. Đó là dấu hiệu đầu tiên của sự mất bình tĩnh mà Thomas Cohen thấv được ở anh.

- Không có lý gì bà ấy làm thế, - William nói. - Tiền chỉ có thể vào tay một người.

ông luật sư ngồi im chờ anh nói nữa. Nhưng Wiìliam chững lại không nói gì thêm. Ông Cohen lại tiếp tục - Trả lời cho câu hỏi thứ'hai của ông là:

ông không có bất cứ nghĩa vụ gì, dù là cá nhân hay pháp nhân, đối với ông Henry osbome hết. Theo những điều khoản trong di chúc của cha ông, thì mẹ Ông là người được ủy thác quản lý nhà đất cùng với ông Alan Uoyd và bà John Preston là những cha mẹ đỡ đầu hãy còn sống, cho đến khi ông hai mươi mốt tuổi.

Thomas Cohen lại nhìn lên. William không biểu lộ gì trên mặt. Ông Cohen biết như vậy là cứ tiếp tục nói nốt.

- Và thứ ba là:

ông không thể nào đuổi được ông osborne ra khỏi ngôi nhà trên đồi Beacon chừng nào ông ta vẫn còn lấy mẹ Ông và tiếp tục sống với bà ấy.

Khi nào bà ấy chết thì ngôi nhà này tự nhiên thuộc về ông. Đến lúc đó, nếu ông ta còn sống, thì ông có thể yêu cầu ông ta đi được. Tôi nghĩ như vậy là đã trả lời được hết những câu hỏi của ông rồi đó, ông Kane.

Xin cám ơn ông, ông Cohen, William nói. - Tôi cảm tạ Ông về hỉệu quả và sự kín dáo của ông trong vấn đề này. Bây giờ, xin ông cho biết tôi phải trả ông bao nhiêu tiền?

- Một trăm đô- la thì không hoàn toàn bao được hết công việc này, ông Kane ạ. Nhưng chúng tôi tin ở tương lai của ông, và...

- Tôi không muốn mang ơn đối với bất cứ ai, thưa ông Cohen. Xin ông cứ coi tôi như một người mà không bao giờ ông còn phải bận tâm đến nữa. Như vậy tôi còn thiếu bao nhiêu, xin ông cứ cho biết.

ông Cohen suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Nếu vậy thì chúng tôi tính ông hai trăm hai mươi đôla.

William rút trong ttú ra sáu tờ bạc 20 đôla đưa cho ông Cohen. Lần này, ông luật sư không đếm nữa.

Tôi rất cảm ơn ông giúp đỡ, thưa ông Cohen. Tôi tin chắc chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa. Xin chào ông.

- Xin chào ông Kane. Tôi có thể nói mặc dầu chưa có vinh dự được gặp người cha kính yêu của ông trước đây nhưng làm việc với ông thì tôi tưởng như đã có vinh dự đó rồi.

Wilham mỉm cười và dịu giọng xuống.

Xin cảm ơn ông.

Để chuẩn bị cho đứa bé ra đời, Anne lúc nào cũng bận rộn. Chị thấy dễ mệt và cứ làm gì một chút là lại nghỉ. Mỗi khi chị hỏi Henry xem làm ăn thế nào, anh ta đều có sẵn những câu trả lời có lý để làm chị yên tâm mọi thứ đâu vào đấy, nhưng không cho chị biết bất cứ một chi tiết cụ thể nào.

Rồi đến một buổi sáng lại có những bức thư nặc danh gửi đến. Lần này, thư viết rõ ràng tên tuổi những người đàn bà và cả những chỗ mà họ đi với Henry. Anne đốt ngay những thư đó mà không cần nhớ những chỗ nào. Chị không muốn tin là chồng chị lại có thể không trung thành trong lúc chị mang thai như vậy. Hẳn là có ai ghen ghét gì đó đối với Henry nên họ phải bịa ra thế thôi.

Những thư nặc danh ấy vẫn tiếp tục gửi đến, đôi khi có những tên mới được nêu lên. Aune vẫn cứ hủy đi nhưng bây giờ nó bắt đầu khiến chị phải bận tâm. Chị muốn đem chuyện đó tâm sự nhưng không nghĩ ra được có thể nói với ai. Các cụ bà mà nghe thấy chuyện này hẳn sẽ hoảng loạn cả lên, mà vốn các cụ đă có sẵn thành kiến với Henry rồi. Alan Lloyd ở ngân hàng thì không thể hiểu được chuyện này vì ông ta chả lấy vợ bao giờ, còn William thì lại quá trẻ.

Không có ai thích hợp để nói chuyện. Anne nghĩ đến việc đi hỏi một bác sĩ khoa tâm thần sau khi nghe một bài giảng của Siglnund Phreud, nhưng rồi chị lại nghĩ một người của dòng họ Cabot không bao giờ có thể đem chuyện riêng gia đình ra nói với người hoàn toàn xa lạ được.

Vấn đề cuối cùng đã đi đến một tình hình mà Anne không tính trước được. Trong một buổi sáng thứ hai, chị nhận được ba lá thư. Một lá như mọi khi Wilìiam gửi về đề cho bà Richard Kane và hỏi xem anh có thể đi nghỉ hè với anh bạn Matthequ Lester được nữa không. Một thư nặc danh nữa nói Henry đang có chuyện dan díu vớị... Milly Preston. Còn lá thư thứ ba là của Alan Lloyd, chủ tịch ngân hàng, viết nhắn chị gọi điện thoại và hẹn ngày cho ông ta gặp có chút việc Anne mệt mỏi ngồi xuống đọc lại một lần nữa cả ba bức thư. Thư của William tỏ ra xa cách khỉến chị nhói đau. Chị lấy làm buồn thấy con muốn đi nghỉ hè với Matthequ Lester hơn. Từ khi chị tái giá lấy Henry, hai mẹ con mỗi ngày một cách biệt. Bức thư nặc danh nói Henry đang dan díu với người? bạn thân nhất của chị là điều chị khó có thể không biết đến. Anne không thể không nhớ rằng chính Milly là người đã giới thiệu chị với Henry, và cũng là mẹ đỡ đầu của William. Bức thư thứ ba của Alan Lloyd hiện nay đã là chủ tịch của ngân hàng Kane và Cabot sau khi Richard qua đời, khiến chị rất phân vân. Bức thư duy nhất chị nhận được của Alan trước đây là thư chia buồn vể cái chết của Richard. Chị ngờ rằng thư này chỉ có thể là tin buồn hơn nữa mà thôi.

Chị gọi điện thoại cho ngân hàng. Tổng đài chuyển ngay cho chị.

Alan, ông muốn gặp tôi phải không?

- Vâng, chị ạ. Tôi muốn trao đồi một tí. Chị thấy lúc nào tiện Có phải tin dữ không đấy? - Anne hỏi.

Không hẳn đâu, nhưng tôi không muốn nói trên điện thoại. Không có điều gì khiến chị phải lo đâu.

Chị có thể ăn trưa với tôi được không - Được chứ, Alan.

- Vậy ta sẽ gặp ở nhà hàng Ritz vào một giờ. Chốc nữa gặp lại chị nhé.

Một giờ. Từ đây đến lúc đó chỉ còn ba tiếng. Óc chị nghĩ luẩn quẩn từ Alan đến William đến Henry nhưng rồi dừng lại ở Milly Preston. Có thể là thật chăng? Anne quyết định tắm nước nóng ấm một lúc lâu rồi mặc bộ áo mới vào người. Nhưng không thay đổi gì được Chị cảm thấy mình đã bắt đầu bệu lên.

Da dẻ, tay chân, trước đây thon thả lịch sự là thế, bây gỉờ đã trở nên phục phịch và có nhữag nốt tím đỏ. Chị lo sợ không biết trước khi đẻ thì người chị sẽ ra thế nào nữa. Chị nhìn mình trong gương thở dài và cố sửa sang lại bề ngoài cho dễ trông hơn một chút.

- Trông chị xôm lắm đấy, Anne. Giá như tôi không phải một anh già độc thân thì tôi sẽ tán tỉnh chị ngay mà không hề xấu hổ chút nào, nhà ngân hàng có bộ tóc trắng nói và hôn vào hai bên má chị, làm như một ông tướng người Pháp. Ông ta đưa chị vào ngồi ở bàn mình.

Chiếc bàn trong góc phòng ấy là chỗ chuyên dành cho ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot khi nào ông không ăn trưa ở ngay cơ quan. Trước kia Richard đã làm như vậy và bây giờ đến lượt Alan Lloyd. Đây là lần đầu Anna ngồi ăn ở bàn đó với một người khác.

Những người phục vụ nháo nhác chạy ra chạy vào nhưng không làm gì ảnh hưởng đến hai người nói chuyện.

Còn bao lâu nữa chị đẻ, Anne?

- Ồ phải còn ba tháng nữa.

- Tôi hy vọng là không rắc rối gì. Tôi nhớ là.... Bác sĩ vẫn gặp tôi mỗi tuần một lần và cứ nhăn nhó về chuyện áp huyết, nhưng tôi thì không lo quá đáng như thế.

- À thế thì tôi mừng cho chị - Ông ta nói và sờ vào tay chị như một bậc cha chú. - Nhưng tôi thấy chị có vẻ mệt mỏi đấy, chị đừng có làm cái gì quá nhiều.

Alan Lloyd khẽ giơ tay ra hiệu. Một người hầu bàn đến ngay bên cạnh và hai người gọi món ăn.

- Anne này, tôi muốn chị cho một vài lời khuyên Anne rất biết Alan Lloyd là người có tài ngoại giao. Chẳng phải ông ta ngồi ăn trưa với chị để mà nghe chị khuyên đâu. Hẳn là ông ta đến để khuyên chị điều gì đó thì đúng hơn.

- Chị có rõ những chương trình nhà đất của Henry tiến hành như thế nào không" - Không, tôi không biết, - Anne đáp. - Tôi chả bao giờ muốn dính đến những công việc làm ăn của Henry cả ông cũng nhớ đấy, tôi không dính gì đến những hoạt động của Richard. Nhưng sao? Có chuyện gì đáng phải lo ngại không?

- Không, không, chúng tôi ở ngân hàng thì không biết là có chuyện gì đáng lo cả. Trái lại chúng tôi biết là Henry đang có yêu cầu ký kết một hơp đồng lớn với thành phố để xây dựng một tổ hơp bệnh viện mới. Tôi hỏi chị thế là vì anh ấy có đến ngân hàng vay một khoản năm trăm nghìn đô- la.

Anne choáng người.

- Tôi biết là chuyện đó làm chị ngạc nhiên, - Ông ta nói. - Chúng tôi biết là trong tài khoản dự trữ của chị còn khoảng dưới hai chục nghìn, thế mà số tiền rút ra theo tên chị thì đã quá mười bảy nghìn rồi.

Anne bỏ thìa súp đang ăn xuống, hoảng hốt. Chị không ngờ là tình hình đến mức như vậy. Alan có thể thấy rõ là chị đang hoang mang, thất vọng.

- Nhưng bữa ăn này không phải là để nói chuyện đó Anne, - Ông ta vội tiếp ngay. - Ngân hàng sẵn sàng chịu hụt tiền với chị cho đến hết đời. Tiền ủy thác của William mỗi năm đã có lãi suất đến hơn một triệu đôla, vì vậy tiền rút quá mức của chị sẽ chẳng có nghĩa gì, ngay cả đến năm trăm nghìn đôla mà Henry yêu cầu cũng không quan trọng nếu như được chị đồng ý, vì chị là người quản lý hợp pháp tài sản của Wilham.

- Tôi không biết là mình còn có quyền gì đối với tài sản ủy thác của William cả, - Anne nói.

Với tổng số tài sản gốc thì không, nhưng về mặt pháp lý mà nói thì lãi suất của nó có thể đầu tư vào bất cứ công trình nào để làm lợi cho William, và cái đó thì thuộc quyền quản lý của chị, của tôi và của Milly Preston với tư cách là cha mẹ đỡ đầu cho đến khi nào William hai mươi mốt tuổi. Bây giờ, với danh nghĩa chủ tịch tài sản ủy thác của William, tôi đề nghị chị chuẩn y cho khoản tiền năm trăm nghìn ấy.

Milli đã báo cho tôi biết là chị ấy rất tán thành, như vậy là hai người có hai phiếu thì ý kiến của tôi sẽ không có giá trị nữa.

- Milly Preston đã tán thành rồi ư - Rồi. Thế chị ấy chưa nói cho chị biết à?

Anne không trả lời ngay.

vậy ý kiến của- Riêng ông thế nào? - Anne nghĩ một lúc rồi hỏi.

Tôi thì tôi chưa biết những tài khoản của Henry thế nào, vì anh ta chỉ mới bắt đầu làm việc được mười tám tháng thôi, và anh ta cũng không giao dịch gì với ngân hàng chúng tôi cả. Vì vậy tôi không thể biết được thu chi của anh ta trong năm nay thế nào, và cũng không biết anh ta dự kiến trong năm 1923 sẽ thu về được bao nhiêu. Tôi chỉ biết anh ta xin làm hợp [1ồng xây dựng bệnh viện mới, và dư luận đồn là anh ta làm thật.

- Ông quỹ trưởng của tôi bao giờ cũnn cho tôi biết ngay mỗi khi có chuyện rút những món tiền lớn ở bất cứ tài khoản nào. Tôi không biết chị lấy tiền đó ra làm gì, vả lại đó không phải việc của tói. Đó là tiền Richard để lại cho chị nên muốn tiêu như thế nào là tuỳ chị.

- Còn chuyện lãi suất của tài sản ủy thác thì lại là (:huyện khác. Nếu chị quyết định rút ra năm trăm nghìn để đầu tư vào cho công ty của Henry thì ngân Hàng lúc đó sẽ có bổn phận phải kiểm soát sổ sách của Henry, vì đồng tiền lúc đó được coi như tiền đầu tư trong khuôn khổ tài sản William. Richard không cho những người được ủy thác cái quyền cho vay, mà chỉ được đầu tư nhân danh William thôi. Tôi đã giải thích tình hình đó cho Henry biết. Nếu anh ta chịu đầu tư theo kiểu như vậy, thì những người được ủy thác sẽ quyết định về tỷ lệ lãi suất thích hợp cho công ty của Henry đối với khoản năm trăm nghìn. Cố nhiên William cũng phải được biết về chuyện chúng ta làm gì với những tiền đó, và cứ mỗi quý cũng phải được báo cáo của ngân hàng như mọi người được ủy thác.
 
Riêng tôi thì tôi chắc chắn rằng sau khi nhận được báo cáo hàng quý sắp tới, William cũng sẽ có ý kiến riêng của cậu ta về vấn đề này.

- Có lẽ chị cũng thấy lý thú nếu biết rằng kể từ khi cậu ta mười sáu tuổi, William thường vẫn gửi về ngân hàng cho chúng tôi những ý kiến về mỗi khoản đầu tư mà chúng tôi làm. Lúc đầu, tôi chỉ xem thoáng qua những ý kiến ấy thôi, nhưng gần đây tôi nghiên cứu kỹ thì thấy đó là những ý kiến cần được tôn trọng. Tôi nghĩ là sau này khi William có chân trong ban lãnh đạo thì cái ngân hàng Kane và Cabot này đối với cậu ta có thể quá nhỏ.

Trước nay tôi chưa từng được ai hỏi ý kiến về tài sản ủy thác của William là sao nhỉ, - Anne buồn bã nói.

- Ôi chị vẫn đọc những báo cáo của ngân hàng gửi đến vào ngày đầu của mỗi quý đấy chứ, và bao giờ chị cũng có quyền của người được ủy thác để chất vấn về tất cả những khoản đầu tư nào nhân danh William kia mà.

Alan Lloyd rút trong túi ra một mảnh giấy nhưng không nói gì, chờ cho người hầu bàn rót rượu vang "Những đêm St. Georges" vào cốc xong đã. Anh ta bước ra khỏi một quãng rồi Alan nói tiếp.

William có khoảng trên hai mươi mốt triệu được ngân hàng đem đầu tư với lãi suất 4,5 phần trăm cho đến khi cậu ta đầy hai mươi mốt tuổi. Cứ mỗi quý chúng tôi lại đem lãi suất tái đầu tư vào chứng khoán và cổ phiếu. Trước nay chúng tôi chưa hề đầu tư vào các công ty tư nhân. Anne, chị sẽ ngạc nhiên nghe nói là bây giờ chúng tôi thực hiện tái đầu tư trên cơ sở mỗi bên quyết định một nửa, tức là năm mươi phần trăm theo ý kiến của ngân hàng và năm mươi phần trăm theo ý kiến do William đưa ra. Hiện nay, chúng tôi phát triển hơn William một chút. Tony Simmons, giám đốc phụ trách đầu tư của ngân hàng, đang rất lấy làm khoái vì William hứa là cứ năm nào nếu anh ta vượt lên trên được cậu ta mười phần trăm là cậu ta sẽ mất cho một chiếc xe Rolls- Royce.

- Nhưng nếu như William thua cuộc thì thử hỏi cậu ta lấy đâu ra mười nghìn đôla trả cho chiếc xe Rolls- Royce ấy, vì cậu ta không được phép đụng đến tiền ủy thác nếu chưa đến hai mươi mốt tuổi?

- Tôi chịu không biết trả lời cho câu hỏi đó như thế nào, Anne. Tôi chỉ biết cậu ta rất hănh diện đến thẳng chỗ chúng tôi rồi, và nếu như không thực hiện được thì cậu ta đã chẳng dám đánh cuộc như vậy. Chị đã có dịp nào được xem cuốn sổ cái của cậu ta bao giờ chưa?

- Cuốn sổ do các cụ tặng nó ấy Alan Uoyd gật đầu.

- Không, từ khi nó đi học xa tôi không xem đến nữa. Mà tôi cũng không biết có còn không.

Còn đấy, - Ông Lloyd nói, - Tôi sẵn sàng mất một tháng lương nếu biết được hiện nay cậu ta gửi ngân hàng được bao nhiêu. Tôi chắc chị cũng biết hiện nay cậu ta gửi tiền vào ngân hàng Lester ở New York chứ không gửi chúng tôi nữa. Tôi cũng tin chắc rằng ở đó họ không có ngoại lệ gì cho cậu ta, dù biết đó là con của Richard Kane.

- Con của Richard Kane, - Anne nói. Xin lỗi. Tôi không có ý muốn tỏ ra vô lễ đâu, Anne.

Không, không, rõ ràng nó là con của Richard Kane rồi. Ông biết không, ngay từ khi nó mười hai tuổi nó đã không thèm hỏi tôi lấy một xu. - Chị ngừng lại. - Tôi nghĩ có lẽ tôi phải báo trước để ông biết rằng nếu nó nghe nói phải đầu tư năm trăm nghìn đôla ủy thác của nó vào công ty của Henry thì nó sẽ không sẵn sàng chấp nhận đâu.

Sao, hai người không hợp nhau à? Alan nhíu lông mày hỏi.- Có lẽ không, - Anne đáp.

- Thế thì đáng tiếc. Nếu William thực sự phản đối thì việc chuyển khoản sẽ rất phức tạp. Mặc dầu cậu ta không có quyền đối với những người được ủy thác trước khi đầy hai mươi mốt tuổi, nhưng chúng tôi cũng đã có những nguồn tin cho biết William tìm đến một luật sư để hỏi xem tư thế hơp pháp của cậu ta thế nào.

Trời đất ơi, - Anne thốt lên, - Ông nói thật đấy chứ- Vâng, tôi nói nghiêm túc đấy. Nhưng chị không có gì phải lo ngại hết. Nói thật ra, chúng tôi ở ngân hàng nghe nói thế cũng rất lạ, nhưng sau khi hiểu ra nguồn gốc việc điều tra này, thì chúng tôi cũng đã đánh tin cho họ biết là chúng tôi sẽ giữ kín. Rõ ràng ìà vì một lý do riêng nào đó, cậu ta không mụốn trực tiếp hỏi chúng tôi.

- Trời đất, - Anne lại nói, - Không biết nó ba mươi tuổi thì rồi sẽ thế nào nữa.

- Điều đó còn tuỳ, - Alan nói, - Còn tuỳ ở chỗ cậu ta có may mắn để yêu được một người nào đáng yêu như chị hay không. Trước kia, sức mạnh của Richard cũng ở đó mà ra.

- Alan, ông già mà khéo nịnh lắm nhé. Chúng ta có thể gác lại vấn đề năm trăm nghìn cho đến khi nào tôi nói chuyện với Henry được chăng?

- Cố nhiên được chứ. Tôi đã bảo gặp chị là để xin mấy lời khuyên mà.

Alan gọi càphê và thân mật cầm lấy tay Anne.

- Chị nhớ là phải cẩn thận với sức khỏe của mình đấy nhé. Chị còn quan trọng hơn nhiều so với số phận của mấy nghìn đôla đấy.

Về đến nhà, Anne lập tức thấy lo ngại về hai bức thư chị nhận được lúc sáng. Sau khi đã nghe Alan Lloyd nói tất cả về đứa con mình, bây giờ chị thấy tốt hơn hết là đồng ý để cho Wiliiam cùng đi nghỉ hè sắp tới với Matthequ Lester.

Cái khả năng Henry và Milly dan díu với nhau thành một vấn đề mà chị thấy không dễ dàng tìm ra được giải pháp gì. Chị ngồi trong chiếc ghế da màu nâu, chiếc ghế mà xưa kia Richard rất thích, nhìn ra bên ngoài cửa sổ có một dải đất trồng những bông hồng trắng và đỏ, chỉ nghĩ ngợi mà như không nhìn thấy gì. Anne thường mất rất nhiều thời gian mới đi đến một quyết định gì, nhưng đã quyết định rồi thì chị không mấy khi đảo ngược lại nữa.

Henry về nhà sớm hơn mọi tối và chị không thể không tự hỏi tại sao? Nhưng rồi chị hiểu ra ngay.

Anh nghe nói hôm nay em ăn trưa với Alan Doyd phải không? - Anh ta vừa bước vào phòng đã hỏi ngay:

- Ai bảo anh thế, Henry?

Anh có gián điệp khắp nơi, - Anh ta vừa nói vừa cười - Đúng đấy, Alan mời em ăn trưa. Ông ấy muốn biết em nghĩ thế nào về việc cho phép ngân hàng đầu tư số tiền ủy thác năm trăm nghìn đôla của William vào cho công ty của anh.

- Vậy em nói thế nào? - Henry hỏi lại, cố làm như không lo lắng gì.

- Em bảo ông ấy là để bàn với anh xem đã. Nhưng tại sao anh không hề nói cho em biết là anh hỏi ngân hàng? Bây giờ mới nghe Alan nói mà ngớ cả người ra.

- Anh tưởng là em không quan tâm gì đến chuyện kinh doanh, và anh ngẫu nhiên mà biết được rằng em, Alan Lloyd và Milly Preston đều là những người được ủy thác và mỗi người được một phiếu về quyết định đối với tiền đầu tư của William.

- Làm sao anh biết được, - Anne hỏi, - Trong khi chính em không biết gì về chuyện đó?

Em yêu quý, em không đọc mấy bản tin nhỏ kia. Anh thì cũng mãi đến gần đây mới đọc. Và cũng ngẫu nhiên mà Milly Preston cho anh biết những chi tiết về chuyện ủy thác này. Không những cô ta là mẹ đỡ đầu của Wilham mà còn là một người được ủy thác nữa.

Cô ta cũng ngạc nhiên có người nói mới biết được. Bây giờ ta thử xem có thể chuyển tình thế sang chỗ có lợi cho mình được không. Milly nói nếu em đồng ý thì cô ta cũng ủng hộ anh.

Chỉ nhắc đến tên Milly thôi cũng đã làm Anne khó chịu. ' - Em không nghĩ là chúng ta phải đụng đến tiền của William, - Chị nói. - Em chưa bao giờ trông vào cái tài sản ủy thác ấy cả. Cứ để mặc nó đấy cho ngân hàng tiếp tục tái đầu tư tiền lãi như trước nay họ vẫn làm là yên chuyện.

Tại sao lại có thể thỏa mãn với chương tnnh đầu tư của ngân hàng trong khi anh đang có cơ hội làm ăn với thành phố về hợp đồng xây bệnh viện, William sẽ thu được khối tiền ở công ty của anh. Chắc là Alan cũng tán thành thế chứ - Em không biết chắc ông ta nghĩ thế nào. Ông ta vẫn kín đáo như mọi khi, mặc dầu ông ta cũng bảo hợp đồng này rất có lợi và anh có thể có cơ hội làm ăn được.

Đúng thế đấy.

- Nhưng ông ấy nói là cần phải xem sổ sách của anh trước khi đi đến kết luận dứt khoát. Ông ấy còn hỏi cái khoản năm trăm nghìn của em bây giờ đi đâu rồi.

- Khoản năm trăm nghìn của chúng ta, em yêu quý ạ tiến triển rất tất, và rồi em sẽ thấy. Sáng mai anh sẽ gửi sổ sách sang cho Alan để ông ta đích thân kiểm tra. Có thề đảm bảo với em rằng ông ta sẽ có ấn tượng rất tốt.

Em cũng hy vọng thế, Henry, vì lợi ích của cả hai chúng ta, Anne nói. - Hãy để xem ý kiến của ông ta thế nào đã. Anh biết là trước nay em vẫn rất tin ở Alan.

Nhưng không tin anh, - Henry nói.

- Ồ, không, Henry, em không có ý....

- Anh đùa thế thôi. Anh chắc là em phải tin chồng mình chứ.

Anne bỗng thấy trong người trào lên muốn khóc. Trước đây với Richrd thì chị nén được. Nhưng với Henry chị không cầm nữa.

- Em hy vọng là có thể tin được. Trước nay em không bao giờ phải lo đến tiền bạc, thế mà bây giờ thì lại phải bận tâm quá sức. Bụng mang dạ chửa thế này, em càng thấy mệt và chán nản quá.

Thái độ của Henry nhanh chóng chuyển sang âu yếm.

- Anh biết, em yêu quý. Và anh cũng không muốn em phải bận tâm gì về những chuyện kinh doanh làm ăn ấy. Anh thì bao giờ cũng có thể giải quyết được chuyện đó. Thôi, em nên đi nằm sớm đi, anh sẽ mang bữa tối lên cho em bằng một cái khay. Như vậy, anh có thể tranh thủ đến cơ quan chuẩn bị hồ sơ để sáng mai gửi sang cho Alan xem.

Anne nghe theo. Nhưng sau khi Henry đi rồi, chị dù mệt cũng chưa có ý muốn ngủ ngay. Chị còn ngồi trên giường đọc truyện của Sinclair Lequis. Chị biết là Henry sẽ mất mười lăm phút để đi đến cơ quan.

Chị chờ cho đủ hai mươi phút mới quay điện thoại gọi đến đó. Chuông điện thoại reo mãi đến gần một phút vẫn không có ai trả lời.

Hai mươi hút sau, Anne lại gợi lần nữa. Vẫn không có ai trả lời. Rồi hai mươi phút sau đó, chị lại gọi.

Hoàn toàn không có ai. Câu nói của Henry lúc trước về chuyện tin cứ văng vẳng trong đầu chị một cách cay đắng.

Mãi đến sau mười hai giờ đêm Henry mới về nhà. Anh ta giật mình thấy Anne vẫn còn ngồi trên giường và đang đọc Sinclair Lequis.

- Em chả cần thức chờ anh làm gì. Anh ta hôn chị nồng nhiệt. Anne thấy như ngửi thấy mùi nước hoạ... hay chị quá nghi ngờ mà tưởng thế.

Anh phải ngồi lại lâu hơn dự kiến. Anh không thể tìm ra được hết những thứ giấy tờ Alan cần đến. Cái cô thư ký chết tiệt lại nhét giấy tờ vào hồ sơ mà bên ngoài viết chữ khác.

- Ngồi một mình ở cơ quan vào giữa đêm như thế thì thật là buồn, Anne nói.

- Ồ nếu có việc đáng làm thì cũng không đến nỗi nào, - Henry nói và trèo ngay lên giường nằm sát vào lưng Anne. - ít ra cũng có cái hay là làm được rất nhiều việc mà không bị điện thoại gọi đến liên tục khiến mình phải bỏ dở giữa chừng.

Mấy phút sau anh ta ngủ luôn. Còn Anne vẫn thức. Bây giờ chị quyết tâm thực hiện quyết định hồi chiều của chị.
 
Hai Số Phận - Chương 11
Sáng hôm sau, ăn sáng xong rồi và Henry đã đi làm việc - Anne không còn biết chắc là Henry đi làm hay đi đâu nữa - Chị ngồi đọc tờ báo Toàn cầu của Boston và đề ý tìm trong những chỗ quảng cáo nhỏ. Rồi chị nhấc điện thoại lên hẹn đến một nơi ở phía Nam Boston trước mười hai giờ trưa. Đến đây, Anne kinh ngạc thấy những nhà cửa ở nơi này rất bẩn. Chị chưa đặt chân đến khu miền Nam của thành phố này bao giờ. Nếu như bình thường không có chuyện gì thì có lẽ cả đời chị không biết là trong thành phố có những chỗ như thế này.

Wa chiếc cầu thang bằng gỗ vứt đầy những que diêm, đầu mẩu thuốc lá và những thứ rác rưởi khác, chị đến trước một cái cửa phía trên có biền đề một hàng chữ to:

GLEN RiCARDo, và dưới tên đó là THÁM TỬ TƯ (Có ĐĂNG KÝ TẠi ToÀ ÁN BANG MASSACHUSETTS). Anne khẽ gõ cửa. - Mời vào, cửa mở đấy - Một giọng nói ồm ồm ở bên trong vang ra.

Anne bước vào. Người đàn ông ngồi đằng sau bàn giấy hai chân gác lên mặt bàn, tay đang cầm xem một thứ gì đó như tạp chí dành cho con gái. Anh ta ngậm điếu xì gà ở đầu môi như sắp rơi ra ngoài. Anh ta ngước lên nhìn thấy Anne. Lần đầu tiên anh ta thấy một người mặc áo lông sang trọng bước vào bàn giấy này.

Anh ta vội đứag dậy chào.

- "Tên tôi là Glen Ricardo". Anh ta nghiêng người ra phía trước bàn và giơ ra một bàn tay lông lá vàng khè vì thuốc lá. Anne bắt tay, bụng lấy làm may mình đeo găng. - Bà có hẹn đấy chứ ạ? - Ricardo hỏi theo thói quen và không cần biết là khách có hẹn hay không. Trông thấy chiếc áo lông sang trọng thế là anh ta thấy mình đã phải sẵn sàng tiếp rồi.

- Tôi có hẹn.

- A, vậy ra bà là bà osborne. Để tôi? cởi đỡ chiếc áo cho bà nhé?

- Tôi vẫn khoác áo được chứ, - Anne nói, vì nghĩ có cởi ra thì không biết Ricardo treo nó vào đâu hay chỉ vứt trên sàn.

- Dạ được, tất nhiên, tất nhiên.

Anne kín đáo nhìn Ricardo trong khi anh ta ngồi xuống châm một điếu xì gà khác. Chị không quan tâm đến bộ quần áo màu xanh sáng hoặc chiếc ca- vát sặc sỡ hoặc mớ tóc dầy bóng nhẫy của anh ta. Chị chỉ hơi ngại không biết mình có nên ngồi ở chỗ khác hơn là ở đây không.

- Nào, bà có vấn đề gì? - Ricardo vừa nói vừa gọt chiếc bút chì đã ngắn ngủn bằng một lưỡi dao cùn.

Những mảnh gọt bắn vung vãi khắp nơi mà không vào sọt rác. - Bà mất chó, vàng hay bạc, hay chồng?

- Trước hết, ông Ricardo, tôi muốn được ông đảm bảo là hoàn toàn giữ kín, - Anne nói.

Vâng, tất nhiên, tất nhiên, điều đó nhất định là như thế rồi, - Ricardo nói và vẫn gọt bút chì, không nhìn lên.

- Dù sao tôi cũng phải nói trước như vậy.

Vâng, tất nhiên, tất nhiên.

Anne nghĩ bụng nếu anh ta còn nói "tất nhiên" nữa, chị sẽ phải kêu to lên cho anh ta thấy. Chị hít một hơi thở dàị.

- Tôi nhận được một số thư nặc danh nói chồng tôi đang có chuyện dan díu với một người bạn thân của tôi Tôi muốn biết ai là người đã gửi những thư đó, và những lời buộc tội ấy có thật hay không.

Lần đầu tiên nói ra được những cảm giác lo sợ ấy, Anne thấy nhẹ người. Ricardo nhìn chị một cách thản nhiên, coi như anh ta được nghe những chuyện này không phải một lần. Anh ta giơ tay lên vuốt mớ tóc đen và dài. Anne để ý thấy móng tay anh ta cũng dài không kém.

- Rồi, - Anh ta nói. - Ông chồng thì dễ thôi. Nhưng ai gửi những bức thư đó mới là chuyện khó. Tất nhiên bà vẫn giữ nhữag bức thư đó chứ - Tôi chỉ giữ bức mới đây nhất, - Anne nói. Glen Ricardo buông một tiếng thở dài và chìa tay ra phía trước bàn. Anne ngần ngại lấy bức thư trong ví ra chưa đưa vội.

Tôi biết là bà đang nghĩ gì, thưa bà osbne. Nhưng tôi không thể làm việc này nếu có một tay bị trói ra phía sau.

Tất nhiên, ông Ricardo, xin lỗi ông.

Anne không ngờ là chính mình cũng nói "tất nhiên"..

Ricardo đọc đi đọc lại bức thư vài ba lần rồi nói:

- Tất cả những thư kia đều đánh trên một loại giấy này và gử trong cùng một loại phong bì như thế này chứ?

- Vâng, có lẽ thế, Anne nói. - Tôi nhớ là như thế.

- Vậy nếu nhận được bức thư sau, xin bà....

- Ông tin chắc là sẽ có thư nữa ư? - Anne ngắt lời.

- Tất nhiên. Vậy xin bà cứ giữ cho. Bây giờ, xin bà cho biết những chi tiết về chồng bà. Bà có tấm ảnh đó không ạ?

- Vâng, có, - Một lần nữa, chị lại ngập ngừng. Tôi chỉ muốn nhìn qua khuôn mặt. Để khỏi mất thì giờ chạy theo người khác, có phải thế không ạ? - Ricardo nói.

Anne lại mở ví lấy đưa anh ta xem một bức ảnh đã sờn cạnh chụp Henry trong bộ quân phục trung uý.

ông osborne trông đẹp trai đấy, - Nhà thám tử nói. - Tấm ảnh này chụp bao giờ ạ?

Có lẽ cách đây chừng năm năm, - Anne nói. - Hồi ông ta ở trong quân đội thì tôi chưa quen.

Ricardo hỏi Anne thêm vài phút nữa về những hoạt động đi lại hàng ngày của Henry. Chị ngạc nhiên, đến bây giờ mới nhận ra là mình hiểu biết rất ít về quá khứ và những gì là thói quen của Henry.

- Như thế thì không có gì nhiều lắm để giúp cho công việc của tôi được, thưa bà osbome, nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức. Tiền chi phí cho việc này, chúng tôi tính mỗi ngày mười đôla cộng với những khoản phục vụ cho công việc. Chúng tôi sẽ có báo cáo viết gửi đến cho bà mỗi tuần một lần. Bà trả trước cho hai tuần. - Anh ta chìa tay ra phía trước bàn một cách rất tự nhiên.

Anne mở ví lấy ra hai tờ 100 đô la đưa cho Ricardo. Anh ta nhìn kỹ những tờ bạc như không biết là có nhân vật nào nổi danh của nước Mỹ được in trên đó. Benjamin Phranklin trừng trừng nhìn vào Ricardo, rõ ràng là đã lâu nay anh không được gặp con người vĩ đại ấy Ricardo trả lại cho Anne 60 bằng nhữag tờ bạc năm đôla nhầu bẩn.

- Thế là ông làm việc cả những ngày chủ nhật, phải không ạ, - Anne tính nhẩm trong đầu và hỏi anh ta thế.

Tất nhiên, - Anh ta đáp. - Cũng ngày này tuần sau tính từ thứ năm có được không, thưa bà osborne?

Tất nhiên, - Anne đáp và vội bỏ đi ngay để khỏi phải bắt tay người đàn ông ngồi sau bàn giấy đó.

Khi Wiììiam đọc báo cáo hàng quý của ngân hàng Kane và Cabot thấy nói Henry oborne ("Hừ - Henry osborne".... Anh mở miệng nhắc to cái tên ấy để tự nhủ là mình có thề tin được chuyện đó) yêu cầu 50 không.000 đô- la để đầu tư riêng, anh bỗng thấy ngày hôm đó rất xúi quẩy. Lần đầu tiên sau bốn năm học ở St Pau, anh bị đứng thứ nhì về toán. Matthequ Lester là người thắng anh, đã hỏi xem có phải anh ốm không.

Tối hôm đó, William gọi điện thoại về nhà Alan Lloyd. Ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot không lấy làm ngạc nhiên khi anh gọi đến, vì ông đã được nghe Anne nói về quan hệ không vui vẻ giữa con trai chị với Henry.

Chào cậu William, cậu khỏe không, tình hình ở St Paul thế nào?

- Cảm ơn ông, mọi thứ ở đây đều tốt đẹp, nhưng tôi gọi điện là về chuyện khác.

Cậu ta khôn khéo thật, Alan nghĩ bụng.

- Ồ vậy à Tôi giúp cậu được việc gì đây? - Ông bình tĩnh nói.

- Tôi muốn gặp ông vào chiều mai.- Vâng, chỉ có ngày đó tôi mới ra khỏi trường được.

tôi xin gặp ông bất cứ lúc nào và ở đâu cũng được. - Wilham nói như kiểu về phía anh có sự nhân nhượng.Đù thế nào xin ông cũng đừng cho mẹ tôi biết là tôi có gặp ông.

- William, thế này nhé.... - Alan Lloyd bắt đầu.

Giọng William bỗng cứag rắn hơn.

- Có lẽ tôi cũng không cần phải nhắc để ông nhớ rằng cái khoản đầu tư tiền ủy thác cho ông bố dượng của tôi ấy, tuy không hẳn là bất hợp pháp, nhưng rõ ràng có thể coi là vô lương tâm.

Alan Lloyd lặng yên một lát. Ông tự hỏi không biết có nên xoa dịu anh chàng này hay không. Trước đây, ông đã có lúc nghĩ phải quở trách cho anh ta một trận, nhưng bây giờ thì điều đó không còn thích hợp nữa.

- Được thôi, William. Cậu có thể đến cùng ăn trưa với tôi ở Câu lạc bộ Hunt vào lúc một giờ được chứ - Vâng, tôi sẽ xin gặp ông ở đó. - Điện thoại đã bỏ xuống.

ít ra thì cuộc gặp đó cũng tiến hành trên đất nhà mình, Alan Uoyd nghĩ bụng và đặt ống nói xuống.

ông cũng rủa thầm hãng cúa ông Bell là đã chế tạo ra cái máy điện thoại chết tiệt này.

Alan đã chọn Câu lạc bộ Hunt vì ông cho rằng gặp ở đây không có vẻ riêng tư gì lắm. Điều đầu tiên William có thể yêu cầu khi đến đây là sau khi ăn trưa sẽ được chơi một chầu gôn.

- Thế thì tốt lắm, - Alan nói, và đặt cọc ngay chỗ chơi gôn vào lúc ba giờ.

ông ngạc nhiên thấy trong suốt cả bữa ăn William không hề đá động gì đến đề nghị của Henry osbórne.

Trái lại, anh toàn nói một cách rất khó hiểu biết về những quan điểm của Tổng thống Hanrding về cải cách giá cả, về sự bất lực của Charles G. Daques với tư cách là Giám đốc Ngân khố. Alan tự hỏi không biết có phải Wilham đã nghĩ lại và đã thay đổi ý kỉến về việc Henry osborne vay tiền hay không Có phải cậu ta đã quyết định để cho xong cuộc gặp này đi mà không nhắc gì đến nữa chăng Alan nghĩ bụng, thôi được nếu cậu ta muốn thế thì ông cũng chả quan tâm. Ông muốn cho buổi chiều đánh gôn trôi đi vui vẻ, không có chuyện gì nữa. Sau bữa ăn thú vị và đã uống một chầu rượu vang - William chỉ xin uống một cốc thôi - Họ vào trong nhà câu lạc bộ thay quần áo rồi ra sân gôn.

- Ông vẫn còn kiêng con số chín chứ ạ? - William hỏi.

- Còn, nhưng sao?.

- Mỗi lỗ gôn mười đôla, ông xem như thế có được không?

Alan Lloyd ngập ngừng, chợt nhớ ra gôn là một trong những môn William chơi rất giỏi?.

- Được đồng ý.

Trong khi chơi lỗ đầu, không ai nói gì. Alan cố đánh được bốn, William được năm. Alan thắng cả trận thứ hai và thứ ba. Ông cảm thấy yên tâm hơn. Đến trận thứ tư thì hai người đã cách xa nhà câu lạc bộ đến nửa dặm. William chờ Alan nâng cây gậy lên rồi anh mới nói." - Trong bất cứ điều kiện nào ông cũng không được đem năm trăm nghìn đôla của quỹ ủy thác cho bất cứ công ty nào hay cá nhân nào liên quan đến Henry osborne vay mượn.

Alan đánh một nhát cho quả bóng gôn văng đi xa, cốt để ông tách khỏi William một quãng và suy nghĩ xem sẽ trả lời anh như thế nào. Sau ba lần đánh nữa, họ cùng trở về bãi cỏ xanh, và Alan đành chịu thua không đưa được bóng vào lỗ.

- William, anh biết rằng tôi chỉ có một phiếu trong ba người được ủy thác, và anh cũng cần biết rằng anh không có quyền gì đối với những quyết định liên quan đến ủy thác vì anh chưa đến hai mươi mốt tuổi thì cũng chưa tự mình có quyền gì được đối với số tiền ấy.

Ngoài ra, anh cũng nên biết là chúng ta không thể thảo luận vấn đề này ở đây.

- Tôi hoàn toàn hiểu rõ những ý nghĩa pháp lý của nó, thưa ông, nhưng vì cả hai người được ủy thác kia đều ngủ với Henry osborne thì....

Alan Lloyd tỏ ra sững sờ.

- Chả có lý ông là người duy nhất ở Boston không biết rằng Milly Preston đang có chuyện dan díu với ông bố dượng của tôi?

Alan Lloyd không nói gì. quillam tiếp:

- Tôi muốn được biết chắc rằng ông sẽ bỏ phiếu chống cũng như ông sẽ làm hết sức mình để khuyên mẹ tôi chống lại chuyện vay mượn này, dù cho ông có phải cắn răng mà nói cho mẹ tôi biết sự thật về chuyện Mill Preston.

Alan lại đánh một nhát gôn rất dở nữa. Wả bóng sau đó văng cả vào bụi cây. Ông tức mình chửi thề một câu thật to, có lẽ đó là câu đầu tiên ông nói từ bốn mươi ba năm nay.

- Đòi hỏi như thế thì hơi quá nhiều đấy. - Alan nói khi họ đánh đến quả thứ năm.

- Điều đó chẳng là gì đâu so với những gì tôi sẽ làm nếu như tôi không tin chắc được ở sự ủng hộ của ông, thưa ông.

- William, trước đây cha anh không bao giờ tán thành những sự đe dọa như thế. - Alan nói và nhìn quả bóng của William chui xuống lỗ cách đó hơn chục thước.

- Điều duy nhất mà cha tôi không tán thành có lẽ là osbome, William trả lời lại. Alan loạc choạc với quả bóng.

- Dù sao, thưa ông, ông cũng rất biết rằng cha tôi đã có một điều khoản trong di chúc nói rằng tiền đầu tư của quỹ ủy thác sẽ là chuyện nội bộ gia đình mà người được hưởng nó không được quyền biết rằng tiền ấy có dính dáng đến gia đình Kane. Đây cũng là một nguyên tắc mà trong đời làm ngân hàng cha tôi không bao giờ vi phạm. Như vậy, cha tôi có thể luôn luôn yên tâm là không có xung đột giữa một bên là tiền đầu tư của ngân hàng với một bên là tiền ủy thác của gia đình.

Có lẽ mẹ anh cho là người trong gia đình thì có thể phá được nguyên tắc ấy chăng.

- Henry osbome không phải là người trong gia đình tôi. Đến khi tôi làm chủ cái quỹ này, tôi cũng vẫn giữ nguyên tắc như cha tôi trước kia, không bao giờ phá bỏ.

- William, rồi anh sẽ phải ân hận về chuyện cứng nhắc ấy - Không đâu, thưa ông.

- Anh nên suy nghĩ thêm xem, nếu biết về chuyện Milly thì mẹ anh sẽ có thể phản ứng như thế nào, Alan nói thêm.

- Mẹ tôi đã mất năm trăm ngàn đô- la tiền riêng của bà ấy rồi. Với một anh chồng, như thế chưa đủ sao? Chẳng lẽ còn để mất thêm năm trăm nghìn của tôi vào đó nữa ư?

- Chả có lý nào mất được. Wilham. Đầu tư còn có thể đem lại khá nhiều lợi tức. Mà tôi cũng chưa có dịp nào xem kỹ sổ sách của Henry đấy. quilliam hơi khó chịu khi thấy Alan Lloyd nói đến tên của Henry một cách thân mật. - Tôi có thể cam đoan với ông rằng hầu như ông ta đã vét sạch đến từng đồng xu của mẹ tôi. Nói đúng ra, ông ta chỉ còn có ba mươi ba ngàn bốn trăm mười hai đôla thôi. Tôi đề nghị Ông xem rất kỹ những sổ sách của ông osbome cũng như thẩm tra một chút về quá khứ cùng những bạn bè và chuyện làm ăn của ông ta trước đây. Đó là chưa kể ông ta cờ bạc ghê gớm nữa.

Từ quả gôn thứ tám, Alan đánh văng nó xuống hồ trước mặt. Đó là điều không thể có được, vì ngay đến phụ nữ mới tập chơi cũng không đánh như thế. Ông lại thua.

- Anh làm sao có được những thông tin như vậy về Henry? Alan hỏi, và đoán rằng đó hẳn là văn phòng của Thomas Cohen cung cấp.

- Tôi xin không nói ra, thưa ông.

Alan nghĩ bụng hãy cứ biết thế đã, ông tính điều này cũng có lợi cho ông ở chỗ ông sẽ biết cách sau này làm ăn với Wiìliam.

Nếu tất cả những điều anh nói là chính xác thì cố nhiên tôi sẽ phải khuyên mẹ anh chớ có đầu tư gì vào cho Henry, và riêng tôi cũng phải có bổn phận nói công khai những điều đó ra với Henry chứ.

- Vâng, xin ông cứ thế cho.

Alan đánh một nhát nữa khá hơn, nhưng ông cảm thấy mình không thể thắng được.

Wỉlliam tiếp tục.

- Chắc ông cũng muốn bỉết thêm rằng osbome cần số tiền năm trăm nghìn đôla ở quỹ ủy thác của tôi đó không phải là để ký hợp đồng xây dựng bệnh viện đâu, mà là để thanh toán món nợ đã mắc từ lâu ở Chicago. Tôi đoán chắc là ông chưa được biết điều này, thưa ông Alan không nói gì. Đúng là ông không biết đến chuyện ấy. Ván này William lại thắng.

Đánh đến ván cuối, Alan hỏi:

- Anh không để cho tôi được quả nào nữa hay sao?- Ông cười, rồi đứng tì tay lên cây gậy.

- Osborne sẽ không có được hơp đồng xây bệnh viện đâu thưa ông. Nghe nói ông ta hối lộ những quan chức cấp dưới trong tòa thị chính. Người ta sẽ không công khai đưa chuyện này ra, nhưng để tránh những phức tạp về sau, người ta đã xóa bỏ công ty của ông ta trong danh sách cuối cùng rồi. Hợp đồng ấy sẽ do công ty Kirkbride và Carter nhận. Tin này, thưa ông, là rất mật đấy. Ngay cả đến công ty Kirkbride và Carter cũng chưa được biết tin này mà phải một tuần sau thứ năm tới cơ, vì vậy mong ông giữ kín cho chuyện đó.
 
Alan lại đánh chệch. William đưa quả bóng của mình vào lỗ rồi bước đến bắt tay ông chủ tịch một cách nồng nhiệt.

- Xin cảm ơn ông đã cùng chơi. Như vậy là ông mất chín chục đôla rồi đấy.

Alan rút ví lấy ra tờ bạc một trăm đôla.

- William, tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc anh đừng "thưa ông" với tôi nữa. Tên tôi là Alan, anh cứ thế mà gọi.

- Cảm ơn Alan, - Wilìiam đưa lại cho ông ta mười đô- la.

Sáng hôm thứ hai, Alan Lloyd đến ngân hàng và thấy mình có nhiều việc phải làm hơn là trước khi gặp William. Ông lập tức cho năm bộ phận của ngân hàng tiến hành ngay những cuộc điều tra xem những lời William nói chính xác đến mức nào. Ông sợ rằng những cuộc điều tra kia sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến nội bộ nên dặn mỗi bộ phận chỉ được biết đến phần mình thôi, và bắt họ phải báo cáo trực tiếp cho chủ tịch, ngoài ra không ai được biết đến.

Đến sáng thứ tư, trên bàn giấy của ông đã năm bản báo cáo sơ bộ. Hình như tất cả đều khớp với những điều William nói, mặc dầu mỗi người đều xin có thời gian thêm để kiểm tra lại chi tiết. Alan quyết định nếu chưa có thêm chứng cớ cụ thể thì chưa nói gì cho Anne biết. Trong khi chờ đợi, ông tính chỉ nên tranh thủ đến dự bữa tiệc đứng do vợ chồng osbome mời và ông sẽ khuyên Anne nên từ từ, chưa quyết định ngay về chuyện cho vay kia.

Lúc đến dự bữa tối hôm đó, Alan lấy làm lo ngại thấy Anne rất bải hoải mệt mỏi, và lại phân vân, không biết sẽ nói thế nào. Ông chờ mãi mới có một vài phút đứng riêng với chị. Ông nghĩ bụng giá bây giờ Anne không có mang thì tốt bao nhiêu.

Anne quay lại nhìn ông mỉm cười - Ông bận việc ở ngân hàng thế mà cũng cố đến được, thật là quý hóa quá.

- Tôi không thề vắng mặt ở bất cứ cuộc chiêu đãi nào của chị. Nó vẫn còn những hương vị Boston.

- Ông nói quá đấy. - Chị cười.

Anne này, nhân đây tôi hỏi chị đã có lúc nào nghĩ thêm về chuyện cho vay tiền kia chưa?

- Không, tôi chưa nghĩ gì được. Tôi còn đang bù đầu về những chuyện khác. À thế ông xem sổ sách của Henry thế nào?

Chỉ mới có số liệu của một năm thôi, vì vậy tôi phải cho kế toán kiểm tra thêm. Theo lệ thường thì phải xem các hoạt động trong ba năm liền mới được.

Tôi chắc Henry cũng hiểu và đồng ý với chúng tôi như vậy - Anne, bữa ăn thật tuyệt, - Một giọng nói khá to bỗng vang lên phía sau Alan. Ông không nhận ra đó là ai, có lẽ là một bạn chính khách nào đó của Henry.

- Thế nào, bà mẹ tương lai nhỏ bé, có khỏe không?- Giọng nói hỏi tiếp.

Alan lách ra chỗ khác. Như thế là ông cũng đã tranh thủ nói được một đôi câu cho ngân hàng rồi. Ở cuộc chiêu đãi này có khá nhiều chính khách, cả của tòa thị chính cũng như có một đôi vợ chồng đại biểu quốc hội. Alan chợt nghĩ có lẽ William nói sai về chuyện hơp đồng kia chăng. Nhưng ngân hàng chả phải điều tra về chuyện này làm gì nữa, vì tuần sau Tòa thị chính sẽ chính thức công bố. Ông từ biệt vợ chồng nhà chủ và ra về.

- Ngày này tuần sau nhé, - Ông nói to, rồi đi bộ dọc phố Chesnut về nhà.

Trong buổi chiêu đãi, Anne để ý nhìn Henry mỗi khi anh ta đến gần Milly Preston. Chị thấy rõ ràng là giữa hai người không có dấu hiệu gì cả. Thật ra, phần lớn thời gian chỉ thấy Henry đứng với John Preston thôi. Anne bắt đầu tự hỏi hay là mình đã nghĩ sai về chồng mình. Chị tính có lẽ phải hủy bỏ cuộc hẹn giờ với Glen Ricardo vào hôm sau. Buổi chiêu đãi kéo dài đã hơn hai tiếng ngoài dự tính. Chị đoán tất cả các khách mời đều hài lòng với bữa tiệc hôm nay.

- Chiêu đãi tốt lắm, Anne. Cảm ơn chị đã mời chúng tôi. - Cái giọng to lúc nãy lại lên tiếng, và là người cuối cùng ra về. Anne không nhớ được tên ông ta, chỉ biết là người của Tòa thị chính. Ông ta đi khuất sau đường xe.

Anne loạng choạng đi lên gác. Chị cởi áo trước khi về đến phòng, trong bụng nghĩ từ nay đến ngày đẻ còn mười tuần nữa thôi và chị sẽ không tổ chức chiêu đãi gì nữa hết.

Henry cũng đã cởi quần áo rồi.

Em có nói được gì với Alan không, em yêu quý? - Có có nói, - Anne đáp, - Ông ta bảo sổ sách không có vấn đề gì nhưng vì chỉ có số liệu một năm thôi nên ông ta phải cho kế toán đi kiểm tra lại một lần nữa.

Đó là chính sách bình thường của ngân hàng thôi. - Chính sách bình thường cái chết tiệt gì đâu. Em không thấy là đằng sau chuyện đó Wilham ư? Nó đang tìm cách chặn đứag vụ cho vay này đấy, Anne.

- Sao anh lại nói thế. Alan có nhắc gì đến William đâu - Ông ta không nói ư? - Henry cao giọng. - Ông ta cũng không thèm nhắc đến chuyện William cùng ăn trưa với ông ta hôm chủ nhật ở Câu lạc bộ đánh gôn, còn chúng ta thì ngồi không ở nhà này.

- Sao? - Anne nói. - Không thể có chuyện ấy.

Wilham không bao giờ về Boston mà lại không về nhà gặp em. Chắc anh lầm thế nào đó. Henry.

- Em ơi, có đến nửa thành phố này đến đó, và anh cũng không thể tưởng tượng William có thể đi năm chục dặm chỉ để đến đây đánh gôn với Alan Uoyd mà thôi. Anne, em nghe đây, anh cần có món tiền vay ấy, nếu không anh không thể giành được hơp đồng ký với thành phố. Đến một lúc nào đó, thậm chí ngay bây giờ em phải quyết định xem em tin ở William hay ở anh. Tính từ ngày mai thì một tuần nữa là anh phải có món tiền ấy. Chỉ còn tám ngày nữa thôi, nếu anh không chứng minh cho Tòa thị chính thấy là anh có khoản tiền ấy thì họ không coi là anh có giá trị gì nữa. Mà như vậy chỉ vì William không tán thành việc em muốn lấy anh, Anne ngày mai ẹm gọi cho Alan bảo ông ta chuyển tiền cho anh được không?

Giọng hằn học của anh ta như đập vào đầu Anne khiến chị cảm thấy choáng váng.

- Không, Henry ngày mai chưa được đâu. Để đến thứ sáu được không? Ngày mai em còn bận.

Henry bình tĩnh lại rồi bước đến bên chị lúc đó đã cởi quần áo và đang đứng trước gương. Anh ta đưa tay xoa bụng vợ và nói.

Anh muốn cho đứa eon này cũng có được cái may mắn như William vậy.

Hôm sau Anne tự nhủ đến hàng trăm lần là sẽ không đi gặp Gien Ricardo nữa, nhưng đến gần mười hai giờ chị lại nhẩy .lên một chiếc tắcxi để đi đến đó.

Chị bước lên cầu thang gỗ cọt kẹt, trong bụng ngần ngại không muốn biết đến những gì mình sắp được nghe. Bây giờ quay ra cũng còn kịp. Chị ngập ngừng, rồi đưa tay lên gõ cửa.

Mời vào. Chị mở cửa.

- A, bà osborue, rất mừng gặp lại bà. Mời bà ngồi. - Anne ngồi xuống và hai người nhìn nhau.

- Có lẽ tin tức cho bà không hay lắm, - Glen Ricardo nói, đưa ngón tay lên vuốt mớ tóc đen dài.

Anne sững người. Chị cảm thấy như muốn ốm.

- Trong bảy ngày qua không thấy ông osbome đi với bà Preston hay bất cứ người đàn bà nào khác.

- Nhưng ông bảo tin tức không hay kia mà, - Anne nói.

- Tất nhiên, thưa bà osborne, tôi cứ nghĩ rằng bà tìm cớ để ly dị. Những bà vợ giận chồng thì đâu có tìm đến tôi để tôi chứng minh cho họ thấy là chồng họ vô tội.

- Ồ, không, không, - Anne nói, cảm thấy nhẹ người- Đã nhiều tuần nay bây giờ mới lại có tin hay thế.

- À thế thì tốt, - Ông Ricardo nói và hơi lấy làm ngạc nhiên.

- Vậy ta hy vọng tuần thứ hai cũng không thấy được gì hơn.

- Ô ông có thể chấm dứt cuộc điều tra đi được rồi, ông Ricaraó Tôi ChắC là tuần sau nữa ông cũng chẳng tìm thấy gì khác.

- Như vậy không phải là khôn ngoan lắm, thưa bà osbome. Chỉ một tuần quan sát thôi mà dám kết luận dứt khoát như thế thì tôi e rằng hơi quá sớm.

- Thôi được, nếu ông tin là như vậy thì cứ làm tiếp, nhưng tôi thì cho rằng cả tuần sau nữa ông cũng sẽ không tìm ra được gì hơn đâu.

- Dù sao thì bà cũng đã trả tiền cho hai tuần rồi, - Glen Ricardo nói tiếp và lại hút điếu xì- gà của anh ta, trông có vẻ to hơn và dễ ngửi hơn thứ xì- gà anh ta hút tuần trước.

- Còn về những bức thư thì thế nào? - Anne chợt nhớ ra và hỏi. - Tôi đoán đó là của một người nào nghen ghét gì với những thành tích của ông chồng tôi chăng.

Như tôi đã nói với bà tuần trước, thưa bà osborne, tìm ra tác giả những bức thư nặc danh thì không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã biết được cửa hàng họ mua thứ giấy viết thư và phong bì này. Loại giấy này đặc biệt, không như mọi thứ thường dùng, tuy vậy bây giờ tôi chưa thể nói gì thêm về chuyện đó. Có thể ngày này tuần sau tôi sẽ biết được rõ hơn. Mấy ngày vừa qua bà có nhận được thêm lá thư nào nữa không?

- Không, tôi không nhận được.

- Tốt. Thế thì mọi thứ có vẻ đã sắp rõ ràng rồi. Chúng ta hy vọng vào thứ năm tuần sau gặp lại sẽ là lần cuối.

Vâng, Anne vui vẻ đáp. - Tôi cũng hy vọng thế. Để tuần sau tôi thanh toán nốt cho ông các khoản chi khác, được không?

- Tất nhiên, tất nhiên.

Anne gần như đã quên đi cái câu đó, nhưng lần này chị chỉ cười. Trên đường ngồi xe về nhà, chị quyết định là Henry phải có số tiền 500 ngàn đô- la ấy, và phải cho William cũng như Alan thấy là họ nhầm. Chị vẫn còn đang băn khoăn với việc William về qua Boston mà không báo cho chị biết. Có lẽ điều Henry nói Wiliam đang ngấm ngầm hoạt động gì đó là đúng chăng.

Henry rất sung sướng thấy Anne đêm đó nói là chị đã quyết định về chuyện cho anh ta vay số tiền kia, và bảo anh ta chuẩn bị giấy tờ để sáng hôm sau chị ký vào đó. Lúc ký vào giấy tờ, chị không thể không nghĩ ngợi vì thấy nó đã được chuẩn bị từ lâu và đã có sẵn chữ ký của Milly Preston trên đó rồi. Nhưng chị lại tự nhủ có lẽ mình quá nghi ngờ chăng? Chị vội xua đuổi ý nghĩ ấy đi và hạ bút ký.

Sáng thứ hai sau đó, khi Alan Lloyd gọi điện thoại đến thì chị đã chuẩn bị tư tưởng đầy đủ rồi.

Anne, chị hãy khoan cho đến thứ năm đã. Đến hôm đó chúng ta sẽ biết ai là người được ký hơp đồng xây bệnh viện.

- Không, Alan, tôi đã quyết định rồi. Henry cần có tiền ngay bây giờ. Anh ấy phải chứng minh cho Tòa thị chính biết là tài chính anh ấy đủ điều kiện để thực hiện hợp đồng, vả lại bây giờ đã có hai chữ ký của những người được ủy thác nên ông không còn phải lo trách nhiệm nữa.

Ngân hàng vẫn có thể đảm bảo cho Henry được mà không cần phải chuyển tiền. Tôi chắc Tòa thị chính sẽ có thể chấp nhận điều đó. Dù sao thì tôi cũng chưa có thì giờ kiểm tra lại tài khoản công ty của anh ta - Nhưng ông lại có thì giờ đi ăn trưa với William hôm chủ nhật trước đây một tuần mà cũng không báo cho tôi biết nữa.

Đầu dây đằng kia im lặng một lát.

- Anne tôị...

- Ông đừng bảo là không có dịp báo. Ông đến dự chiêu đãi tối hôm thứ tư và đáng lẽ ông đã phải báo cho biết rồi. Nhưng ông cố tình không nhắc đến, và bây giờ ông lại có thì giờ khuyên tôi nên hoãn quyết định cho Henry vay tiền.

- Anne, tôi rất tiếc. Tôi hiểu được là chuyện đó có thể rắc rối như thế nào và tại sao chị thất vọng, nhưng nó thực sự có một lý do đấy, chị hãy tin như vậy. Tôi đến gặp chị và giải thích tất cả cho chị nghe được không?

- Không. Alan, không được đâu. Các người xúm lại chống chồng tôi. Không ai trong các người cho anh ấy được có cơ hội chứng minh bản thân mình. Vậy thì để tôi cho anh ấy có cơ hội chứ.

Anne bỏ máy xuống, trong bụng hài lòng với mình, cảm thấy như thế là mình đã trung thành với Henry và chuộc cái lỗi trước đây đã nghi ngờ chồng.

Alan Uoyd gọi lại, nhưng Anne dặn cô hầu trả lời là chị đi vắng suốt ngày. Đêm đó Henry về nhà rất phấn khởi được nghe Anne kể lại đã nói với Alan như thế nào.

- Như thế thì mọi thứ sẽ cực kỳ hay, em yêu ạ. Rồi em xem. Sáng thử năm anh sẽ được người ta cho ký hợp đồng. Lúc đó em có thể hôn và hòa giải với Alan.

Nhưng từ nay đến hôm đó thì em hãy cứ tránh đừng gặp Thực ra, nếu em muốn thì hôm thứ năm chúng ta có thể liên hoan bữa ăn trưa ở nhà hàng Ritz và mời ông ta đến cùng ăn được chứ. Anne cười đồng ý.

Chị cũng không quên rằng chị sẽ còn phải gặp Ricardo một lần cuối nữa vào trưa hôm đó. Gặp xong rồi, quay về nhà hàng Ritz cũng hãy còn sớm chưa đến một giờ.

Như vậy chị sẽ được dịp ăn mừng cả hai thắng lợi một lúc. Alan cố gọi đến nhiều lần để gặp Anne nhưng đều nghe cô hầu trả lời là đi vắng. Vì giấy tờ đã được hai người ủy thác ký vào đó rồi, ông không có quyền ách lại việc chi tiền quá hai mươi tiếng. Các từ ngữ dùng trong giấy tờ đó là do Richard Kane đã thảo ra trước đây, điển hình về mặt pháp lý chặt chẽ, không có chỗ nào sơ hở mà lách qua được nữa. Sau khi tờ séc 500 nghìn đô la được trao đi chiều ngày thứ ba, Alan viết một bức thư dài gửi cho William, kể lại đầu đuôi các sự kiện đã dẫn đến việc chuyển tiền, chỉ không nói gì đến những chi tiết sự việc do ngân hàng của ông điều tra được. Ông cũng gửi cho mỗi giám đốc trong ngân hàng một bản sao bức thư đó, tin rằng mặc dầu ông đã làm rất cần thận như thế nhưng người ta vẫn có thể buộc tội cho ông là che giấu.

Sáng hôm thứ năm, trong khi đang ăn sáng với Mathequ thì William nhận được bức thư của Alan loyd gửi đến St. Paui.

Còn ở Đồi Beacon thì bữa ăn sáng bình thường như mọi ngày, trứng, thịt rán, bánh mì nướng, cháo ngô và cà phê nóng, Henry tỏ ra lúc buồn lúc vui, anh ta làm duyên với cô hầu, nói đùa với một nhân viên Tòa thị chính gọi đến báo cho biết tên công ty được ký hơp đồng xây bệnh viện sẽ được dán lên bảng yết thị trước cửa Tòa thị chính vào lúc mười giờ. Anne thì chờ đến lúc đi gặp Glen Ricardo một lần cuối nữa. Chị ngồi giở mấy trang tạp chí Vogue, cố không để ý đến bàn tay Henry đang run run cầm tờ báo Globe của Boston.

- Sáng nay em định làm gì? - Henry hỏi, như muốn nói chuyện bình thường.

- Ồ, không có gì nhiều lắm trước khi chúng ta ăn mừng trưa nay. Anh có định đặt tên Richard cho khoa nhi trong bệnh viện để tưởng nhớ đến anh ấy không?

- Không phải tưởng nhớ đến Richard đâu, em yêu quý ơi Đây là thành tích của anh, vì vậy phải giành vinh dự đó cho em. Sẽ gọi đó là khoa nhi do bà Henry osborne tặng, - Anh ta huênh hoang nói.

- Ý kiến đó hay lắm, - Anne bỏ tờ báo xuống và nhìn anh ta cười - Anh không được để em uống quá nhiều sâm- banh vào bữa trưa nay nhé, vì chiều em còn phải đến cho bác sĩ Mackanzie khám toàn bộ, nếu ông ta biết em say rượu vào quãng này, tức chỉ chín tuần trước khi đẻ, thì ông ta sẽ không bằng lòng đâu. Đến bao giờ thì anh biết chắc là hợp đồng sẽ giao cho anh?

- Anh biết rồi, - Henry nói. - Nhân viên tòa thị chính vừa nói chuyện với anh trên điện thoại bảo là chắc chắn trăm phần trăm rồi, nhưng đến mười giờ họ mới chính thức công bố.

- Vậy thì việc đầu tiên là anh phải gọi. cho Alan và bảo với ông ta cái tin vui đó. Em bắt đầu thấy hơi hối hận về chuyện đã đối xử không hay với ông ấy tuần trước.

- Em chả cần phải hối hận làm gì. Chính ông ta cũng không thèm báo cho em biết về những hành động của William kia mà.

- Không, nhưng ông ấy vẫn cố tìm cách giải thích thêm, thế mà em thì lại không để cho ông ấy được nói.

- Thôi được thôi được, tùy em. Vậy để cho em vui lòng, anh sẽ gọi điện thoại vào mười giờ năm phút báo cho ông ấy biết, còn em thì gọi cho William bảo nó rằng anh đã kiếm thêm cho nó một triệu đô- la nữa. - Anh ta nhìn đồng hồ. - Thôi bây giờ anh đi đây. Em chúc anh may mắn đi.
 
- Em tưởng anh không cần may mắn gì kia mà. - Anne nói.

- Anh không cần thật. Wen miệng nói thế thôi. hẹn gặp em vào một giờ ở nhà hàng Ritz nhé. - Anh ta hôn lên trán vợ - Đêm. nay em sẽ tha hồ mà cười về Alan, về Willam, về những chuyện hơp đồng, và coi tất cả những cái đó là quá khứ. Em cứ tin là như vậy Anh đi nhé, em yêu.

Em cũng hy vọng thế, Henry.

Bữa ăn sáng để trước mặt Alan Lloyd nhưng ông chưa đụng gì đến. Ông đang đọc mấy trang tài chính của tờ báo Gbole Boston, chú ý đến đến một đoạn nhỏ ở cột bên phải đưa tin mười giờ sáng hôm đó Tòa thị chính sẽ công bố ai được hưởng hợp đồng xây bệnh viện trị giá năm triệu đô- la.

Alan Lloyd đã tính nếu như Henry không được hợp đồng ấy và tất cả những gì William nói đều là chính xác thì ông sẽ làm thế nào. Ông sẽ làm như Richard trước kia đã làm trong trường hợp tương tự, tức là hành động như thế nào cho ngân hàng có lợi nhất.

Nhưng những báo cáo mới nhất ông nhận được về tình hình tài chính của Henry khiến ông rất lo ngại.

osborne đúng là một tên bạc bịp, và số tiền 500 nghìn đô la của quỹ ủy thác kia hoàn toàn không được chuyển đến công ty của anh ta. Alan Lloyd chỉ nhấp một ít nước cam, còn không đụng gì đến bữa ăn sáng.

ông xin lỗi người quản gia, rồi bước xuống đi bộ đến ngân hàng.

Thời tiết hôm đó dễ chịu.

- William, chiều nay có đánh quần vợt không?

Hai người đang ăn sáng. Matthequ Lester đứng nhìn William đang đọc đi đọc lại bức thư của Alan Liloyd.

- Cậu bảo gì?

- Cậu điếc hay bắt đầu lẫn cẫn rồi đấy? Cậu muốn chiều nay mình cho cậu thất điên bát đảo trong trận quần vợt không?

Không chiều nay mình không có đây đâu, Matthequ. Mình đang có nhiều chuyện quan trọng khác cần làm.

- Cố nhiên rồi, anh bạn ơi. Mình quên rằng cậu đang chuẩn bị cho một trong những chuyến đi bí mật vào Nhà Trắng. Mình biết là Tổng thống Harding đang tìm một người làm cố vấn về tài chính cho ông ta, mà cậu đúng là người có thể ngồi vào chỗ của cái ông Charles. G.Daques dở hơi ấy. Cậu cứ bảo với ông tổng thống là cậu nhận lời đi, với điều kiện ông ấy cũng mời Matthequ Lester làm Bộ trưởng Tư pháp trong chính quyền tới.

William không trả lời.

Mình biết nói đùa như thế là hơi vô duyên, nhưng cậu cũng phải bình luận xem sao chứ, - Matthequ nói và ngồi xuống bên William nhìn kỹ anh bạn. - Tại món trứng phải không? Y như trứng vừa mới đem từ một trại tù binh ra chứ gì?

- Mathequ, mình cần cậu giúp một tay, - William nói và bỏ bức thư của Alan vào phong bì.

Cậu vừa có thư của em gái mình rồi đó, nó nghĩ là cậu có thể thay thế cho Rudolph Valentino được đấy William đứng dậy.

- Thôi, đừng đùa nữa, Matthequ. Nếu ngân hàng của bố cậu bị cướp, thì liệu cậu có ngồi đó mà nói đùa về chuyện ấy được không?

Mặt Wilham rất nghiêm nghị, khiến Matthequ phải dịu giọng xuống.

- Không, ai mà đùa được.

- Rồi, vậy cậu ra ngoài này mình sẽ nói tất cả cho mà nghe.

Sau mười giờ một lúc, Anne rời Đồi Beacon đi mua sắm vài thứ lặt vặt trước khi đến gặp Glen Ricardo một lần nữa. Chị vừa đi khuất ra đến phố Chestut thì có chuông điện thoại. Cô hầu ra nghe máy. Cô ta nhìn ra cửa sổ thấy bà chủ đã đi quá xa rồi không gọi được nữa. Giá như Anne quay trở lại nghe điện thoại được, thì chị đã biết về quyết định của thành phố đối với hợp đồng xây bệnh viện, nhưng chị lại đi mua thêm mấy đôi tất lụa và vài thứ nước hoa mới. Chị đến văn phòng Glen Ricardo khoảng sau mười hai giờ, trong bụng nghĩ thứ nước hoa mình mới mua sẽ có thể đánh bạt được mùi khói xì- gà của ông ta.

- Chắc tôi không đến muộn chứ, ông Ricardo, - Chị nói gọn.

Xin mời bà ngồi, bà osbornẹ- Trông Ricardo có vẻ không vui lắm, nhưng Anne nghĩ ông ta có bao giờ vui đâu Rồi chị lại để ý thấy ông ta không hút loại xì- gà như mọi khi nữa.

Ricardo mở một hồ sơ màu nâu khá lịch sự, một thứ đồ mới duy nhất mà Anne có thể trông thấy ở văn phòng này, rồi lấy ra vài tờ giấy.

- Chúng ta hãy bắt đầu bằng những bức thư nặc danh đã nhé, thưa bà osborne?

Anne không thích cái giọng nói ấy.

Được thôi, - Chị đáp.

- Những thứ này do một bà tên là Ruby Phloquers gửi đến.

- Ai? Tại sao vậy? - Anne nói, vừa muốn vừa không muốn có câu trả lời.

Tôi ngờ rằng một trong những lý do là hiện nay bà Phloquers đang kiện chồng bà.

à, thế thì rõ cả rồi, - Anne nói - Bà ta muốn trả thù Bà ta đòi Henry phải trả bao nhiêu?

- Bà ta không nói đến nợ, thưa bà osborne.

- Vậy bà ta muốn gì?

Glen Ricardo tì tay vào ghế đứng dậy bằng một dáng mệt mỏi. Anh ta đi ra cửa sổ nhìn xuống bến Boston lúc đó đang đông người.

- Bà ta kiện về chuyện không giữ lời hứa, thưa bà osborne.

- Ôi không thể thế được, - Anne nói.

- Hình như hai người đã đính hôn với nhau vào cái lúc ông osborne gặp bà, nhưng rồi vụ đính hôn đó bị hủy bỏ không biết vì lý do gì.

- Bà ta đào mỏ đấy thôi. Chắc bà ta muốn tiền của Henry.

- Không, có lẽ không phải thế. Bà biết không, bà Phloquers đã vào loại khá giả. Tuy không phải như bà đâu tất nhiên, nhưng cũng là khá. Chồng cũ của bà ta là chủ một công ty nước quả đóng chai và để lại cho bà ta khá nhiều tiền.

- Chồng cũ ư? Thế bà ta bao nhiêu tuổi?

Nhà thám tử quay lại bên bàn giở vài trang hồ sơ.

Móng tay cáu đen của ông ta dừng lại một chỗ. - Sinh nhật tới của bà ta là thứ năm mươi ba.

- Ôi lạy Chúa!- Anne nói. - Tội nghiệp bà ta. Chắc bà ta phải căm ghét tôi lắm.

- Có thể như vậy, thưa bà osbome, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho chúng ta cả. Bây giờ tôi xin chuyển sang nhữag hoạt động khác của chồng bà..

Ngón tay vàng khè những khói thuốc của anh ta giở thêm mấy trang nữa.

Anne cảm thấy nôn nao trong người. Tại sao chị đến đây làm gì? Tại sao chị không cắt đi từ tuần trước có được không? Chị cần gì phải biết? Chị không muốn biết kia mà? Tại sao chị không đứng dậy mà bỏ đi luôn? ôi, chị mong có Richard bên mình biết bao nhiêu. Còn anh thì anh sẽ rất biết phải đối phó với tình hình này như thế nào. Chị tưởng như mình không thể cựa quậy được nữa. Glen Ricardo và những điều trong hồ sơ mới của anh ta làm chị ngây đơ cả người.

- Tuần vửa qua, ông osborne đã có hai lần ngồi riêng với bà Preston, trên ba tiếng đồng hồ.

- Nhưng điều đó chẳng chứng minh gì hết, - Anne chậm rãi nói. - Tôi biết là họ đang phải thảo luận với nhau một tài liệu rất quan trọng liên quan đến tiền nong.

- Nhưng là ở một khách sạn nhỏ trên phố La Salle, thưa bà.

Anne không ngắt lời nhà thám tử nữa. Cả hai lần họ đều bước vào khách sạn, cầm tay nhau, thì thầm với nhau cười đùa. Tất nhiên chưa thể kết luận được là họ ìàm gì, nhưng chúng tôi có ảnh họ cùng bước vào khách sạn và cùng ở khách sạn ra.

- Ông hủy những ảnh đó đi, - Anne khẽ nói.

Glen Ricardo chớp mắt.

- Tùy bà, thưa bà osborne. Nhưng còn những điều khác nữa. Những cuộc điều tra thêm cho thấy ông osborne chưa bao giờ học ở Harvard, cũng chưa bao giờ là sĩ quan trong quân đội Mỹ. Trường Harvard cũng có một Henry osborne nhưng nhỏ người hơn, tóc hung hung và quê ở Alabama. Ông này bị chết trận ở Maine năm 1917. Chúng tôi cũng biết là chồng bà còn ít tuổi hơn nhiều so với lời ông ta khai, và tên thật của ông ta là Vittorio Togna. Ông ta đã phục vụ....

- Tôi không muốn nghe nữa, - Anne nói, nước mắt chảy tràn xuống hai bên má - Tôi không muốn nghe nữa.

Anne cố nén để giữ bình tĩnh.

Cảm ơn ông Ricardo, tôi hoan nghênh tất cả những gì ông đã làm. Tôi còn thiếu ông bao nhiêu?

- Bà đã trả trước hai tuần rồi. Chúng tôi làm thêm hai ngày, cộng với những khoản chi khác là bảy mươi ba đô- la.

Alan đưa cho anh ta tờ một trăm đô la rồi đứng dậy.

- Bà còn tiền thừa, thưa bà osborne.

Chị lắc đầu và xua tay.

- Bà không hề gì chứ, bà osborue? Tôi thấy bà hơi tái đi đấy Tôi lấy cho bà cốc nước hoặc cái gì đó được không?

- Tôi không sao, - Anne nói dối.

- Có lẽ bà cho phép tôi đưa bà về nhà?

- Không, cảm ơn ông Ricardo. Tôi tự về nhà được.- Chị quay nhìn anh ta mỉm cười. - Cảm ơn ông đã quan tâm.

Glen Ricardo nhẹ nhàng đóng cửa lại, từ từ bước ra cửa sổ, cắn đứt đầu mẩu xì- gà, nhổ toẹt một cái rồi rủa thầm cái nghề của anh.

Aune dừng lại ở chân cầu thang đầy rác rưởi, tay vịn vào lan can. Suýt nữa chị ngất. Đứa bé trong bụng đạp dội lên khiến chị cảm thấy buồn nôn. Chị lê ra đến cuối phố, tìm được chiếc xe tắc- xi rồi ngồi nép vào phía sau. Chị không nín được, khóc sụt sịt. Chị không biết rồi mình sẽ làm gì bây giờ đây. Về đến nhà, chị vào ngay trong phòng ngủ đề những người làm trong nhà khỏi trông thấy chị thất vọng. Vừa vào đến bên trong phòng, chuông điện thoại đã reo lên. Chị nhắc máy lên nghe, vì thói quen hơn là vì muốn biết ai ở đầu dây đằng kia.

- Tôi muốn nói chuyện với bà Kane được không?

Chị nhận ra ngay cái giọng của Alan, một giọng mệt mỏi, không vui vẻ gì.

- Chào ông Alan. Anne đây.

Chị Anne thân mến, tôi rất tiếc khi được biết về tin sáng nay.

- Sao ông biết được, Alan? Làm sao ông biết được? Ai bảo cho ông biết?

Tòa thị chính gọi điện cho tôi và cho tôi biết tin chi tiết ngay sau lúc mười giờ. Tôi gọi ngay cho chị nhưng cô hầu trả lời chị đã ra phố mua sắm rồi.

- Ôi lạy Chúa - Anne nói. - Tôi đã quên khuấy đi mất về chuyện hợp đồng.

Chị ngồi phịch xuống ghế, cảm thấy khó thở.

- Anne, chị có sao không thế - Không, tôi không sao, - Chị đáp, cố không tỏ ra nghẹn ngào trong điện thoại. - Tòa thị chính bảo sao?

- Hợp đồng xây dựng bệnh viện được giao cho công ty có tên là Kirbrnde và Carter. Rõ ràng Henry không có trong số ba người đứng đầu danh sách. Cả buổi sáng tôi cố tìm anh ta, nhưag hình như anh ta đã đi đâu ngay từ sau lúc mười giờ, và từ đó chưa trở về.

Có lẽ chị cũng không biết anh ta đang ở đâu chứ, Anne?

- Không, tôi không biết nữa.

- Chị muốn tôi sang bên đó bây giờ không - Ông ta nói. - Tôi có thể sang với chị mấy phút.

- Không, cảm ơn ông, Alan. - Anne dừng lại lấy hơi thở.- Xin ông tha lỗi cho tôi về thái độ đối với ông trong mấy ngày vừa qua. Nếu như Richard còn sống thì anh ấy sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi được.

- Chị đừng lẩn thẩn, Anne. Chúng ta đã là bạn với nhau từ nhiều năm nay rồi, một chuyện nhỏ như vậy có nghĩa gì đâu.

Giọng nói thân mật của ông càng làm chị muốn khóc lên. Chị lảo đảo đứng dậy.

- Tôi phải ra đây đã, hình như có nglrời gõ cửa ngoài, có thể là Henry về.

- Chị cẩn thận đấy nhé. Anne. Đừng nghĩ ngợi gì nữa chuyện hôm nay. Chừng nào tôi còn là chủ tịch thì ngân hàng vẫn sẽ ủng hộ chị. Khi nào cần, chị cứ gọi cho tôi ngay nhé, đừng ngại.

Anne bỏ máy xuống. Trong tai chị vẫn ù ù. Chị cố thở mà không được. Chị gục xuống sàn nhà, cùng lúc đó cảm giác co bóp dội lên trong người chị.

Lát sau có tiếng gọi cửa nhè nhẹ của cô hầu. Phía sau cô hầu là bóng William. Từ khi chị lấy Henry osborne, anh không hề bước chân vào phòng ngủ của mẹ nữa. Hai người chạy vội đến chỗ Anne. Chị vẫn đang giẫy giụa, không biết có người vào. Phía trên mép có chút bọt sùi ra. Vài giây sau, chị không co quắp nữa mà nằm yên và khẽ rên.
 
- Mẹ, - William lên tiếng, - Mẹ sao thế?

Anne mở mắt nhìn con như ngây dại.

- Richard. Lạy Chúa anh đã về. Em đang cần đến anh.

- Con William đây mà, mẹ.

Mắt chị vẫn lờ đờ.

Em kiệt sức rồi, Richard. Em phải trả giá cho lỗi lầm của mình. Anh tha thứ....

Giọng chị kéo dài thành một tiếng rên rồi người lại co quắp một lần nữa.

- Sao thế này? - William lúng túng nói.

Tôi nghĩ có lẽ bà trở dạ đấy, - Cô hầu nói. - Phải mấy tuần nữa mới đến ngày đẻ cơ.

- Cô ra điện thoại gọi ngay cho bác sĩ MacKenzie, - Wiìliam bảo cô hầu rồi chạy ra cửa phòng. Anh gọi tọ- Matthequ! Lên đây ngay, mau lên.

Matthequ chạy vội lên cầu thang cùng William vào phòng ngủ.

Cậu giúp đưa mẹ tớ xuống xe với. Matthequ qùy xuống. Hai chàng thanh niên bế Anne lên, nhẹ nhàng đưa xuống cầu thang và ra xe. Chị vừa thở dốc vừa rên rỉ tỏ ra đang rất đau đớn. William trở lại trong phòng cầm vội lấy ống nói trong tay cô hầu, trong khi Matthequ chờ ở dưới xe.

- Bác sĩ MacKenzie.

Phải, ai đấy?

- Tên tôi là Wilham Kane, có lẽ ông không biết tôi đâu.

- Không biết anh ư? Chính tôi đỡ khi đẻ anh ra đấy Có chuyện gì vậy?

- Có lẽ mẹ tôi đang trở dạ. Bây giờ tôi đưa bà đến bệnh viện ngay đây. Mấy phút nữa tôi đến đó rồi.

Giọng bác sĩ MacKenzie đã đổi khác.

Thôi được, Wiììiam, anh đừng lo. Tôi sẽ ở đây chờ anh. Mọi thứ sẽ đâu vào đấy.

Xin cảm ơn ông, - William nói, - Hình như mẹ tôi bị co giật, như vậy có bình thường không ạ?

Câu nói của William khiến ông bác sĩ rùng mình. chính ông cũng ngần ngại không biết nói thế nào.

Không bình thường lắm đâu. Nhưng nếu đẻ được thì không sao. Anh mau đưa đến đây, càng nhanh càng tốt.

William bỏ máy xuống, chạy ra ngoài nhà và nhảy ngay vào chiếc Rolls- Royce.

Matthequ lái xe rất cẩn thận, không dám sang số và cũng không dừng lại một chỗ nào, cứ thế từ từ đi đến bệnh viện. Hai người cùng một cô y tá đặt Anne lên cáng đi vội đến khu hộ sinh. Bác sĩ MacKenzie đã đứng chờ sẵn ở cửa phòng mổ. Ông bảo hai người đứng ngoài.

William và Matthequ yên lặng ngồi trên chiếc ghế dài chờ đợi. Trong phòng đẻ vang ra những tiếng kêu hét ghê rợn họ chưa từng nghe thấy bao giờ. Rồi sau đó là im lặng, và cái im lặng này còn ghê rợn hơn cả tiếng kêu hét. Lần đầu tiên trong đời mình, William thấy hoàn toàn bất lực. Hai chàng thanh niên ngồi trên ghế dài hơn một tiếng đồng hồ. Không một ai nói gì Lát sau, bác sĩ MacKenzie xuất hiện với dáng mỏi mệt. Hai chàng thanh niên cùng đứng dậy. Bác sĩ nhìn Matthequ Lester.

- Không, thưa ông, tôi là Matthequ Lester. Còn đây là William.

Bác sĩ quay lại đặt một tay lên vai William. William, tôi rất tiếc. Mẹ anh chết cách đây vài phút.... còn đứa bé, một cháu gái, cũng chết lúc mới đẻ.

William ngồi khụyu xuống ghế.

- Chúng tôi đã làm mọi cách để cứu sống cả hai mẹ con, nhưng muộn quá rồi. - Ông lắc đầu buồn bã. - Bà ấy không chịu nghe tôị... mà cứ đòi phải có con. Lẽ ra không có chuyện này.

quiuiam ngồi lặng người, sững sờ về câu nói vừa rồi của bác sĩ. Anh khẽ hỏi:

- Làm sao mà chết được? Sao ông có thể để cho bà ấy chết được?

Bác sĩ ngồi xuống ghế.

- Bà ấy không chịu nghe tôi, - Ông từ từ nhắc lại. - Tôi đã nhiều lần nhắc bà ấy, sau cái vụ sẩy thai lần trước, rằng chớ có đẻ nữa. Nhưng sau khi bà ấy tái giá, bà ấy với ông bố dượng của anh không bao giờ coi trọng lời dặn của tôi hết. Lần có mang trước đây, huyết áp của bà ấy rất cao. Lần này tôi cũng lo ngại nhưng chưa có lúc nào đến mức nguy ngập. Hôm nay, lúc anh đưa bà ấy đến đây, tôi không. hiểu được tại sao lại bỗng có hiện tượng co giật như vậy.

Wilham nhìn ông không hiểu.

- Phải, co giật. Đôi khi bệnh nhân có thể chịu đựng được nhiều lần như vậy. Nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân tắt thở luôn.

William gục đầu xuống hai tay. Matthequ Lester đỡ anh dậy đi chầm chậm trong hành lang. Bác sĩ đi theo hai người. Ra đến thang máy, ông nhìn William nói:

Huyết áp của bà ấy tăng đột ngột. Điều này là rất là không bình thường, và hình như bà ấy không gượng lại như mọi khi, gần như bà ấy không cần gượng lại nữa. Tôi thấy rất lạ. Gần đây, có điều gì khiến bà ấy phiền lòng không?

quilliam ngước lên nhìn bác sĩ. Nước mắt anh tràn xuống đầy mặt.

- Không phải là điều gì, - Giọng anh đầy căm giận,- Mà là người nào.

Khi hai người về đến nhà thì thấy Alan Uoyd đã ngồi ở một góc phòng khách. Ông đứng dậy.

Wilìiam, - Ông lên tiếng ngay. - Tôi tự trách mình đã để cho vay như vậy.

Wiliam nhìn ông ta như không nghe thấy ông ta nói gì. Matthequ Lester nói thay vào đó.

- Có lẽ điều đó không còn quan trọng nữa, ông ạ. Mẹ của William vừa mất lúc đau đẻ rồi. - Anh nói nhỏ.

Alan Lloyd tái nhợt người, phải vịn tay vào bệ lò sưởi mới đứng được. Ông quay mặt đi. Lần đầu tiên, cả William và Matthequ mới trông thấy người lớn khóc.

- Đó là lỗi tại tôi - Ông chủ ngân hàng nói. - Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình được. Tôi đã không nói cho chị ấy biết tất cả những gì tôi biết được. Tôi quý chị ấy quá nên không muốn thấy chị ấy thất vọng bao giờ. ' Nỗi đau của ông giúp Wiìliam bình tĩnh trở lại.

- Không phải lỗi của ông đâu, Alan, - Anh dằn giọng nói. - Ông đã làm đủ mọi cách rồi. Tôi biết thế. Và bây giờ đến lượt tôi phải nhờ ông giúp đỡ đây.

Alan Lloyd đứng thẳng người dậy.

- Osborne đã được báo tin về chuyện mẹ anh chết chưa?

- Tôi không biết mà cũng không cần biết.

- Suốt ngày hôm nay tôi gọi cho anh ta về chuyện đầu tư Nhưng anh ta bỏ đi từ lúc mười giờ sáng nay, và không ai biết anh ta ở đâu.

- Sớm muộn rồi hắn cũng về đây thôi, - Wilham nghiêm mặt nói.

Sau khi Alan Lloyd ra về rồi, Willỉam và Matthequ ngồi lại trong phòng khách đó gần hết đêm, lúc ngủ thiếp đi, lúc tỉnh. Đến bốn giờ sáng, William chợt nghe tiếng chuông đồng hồ vang lên và cũng nghe thấy cả tiếng gì ở ngoài nhà. Matthequ nhìn qua cửa Hổ xuống đường. William cũng bước ra nhìn xuống. Họ thấy Henry osborne đang lảo đảo đi qua quảng trường Louisburg, trong tay cầm một chai rượu. Anh ta thò tay vào túi tìm chìa khóa một lúc rồi đứng giữa cửa nhìn hai chàng thanh niên, mắt nhấp nháy.

Tôi cần Anne chứ không cần anh. Tại sao anh không ở trường? Tôi không cần anh đâu, - Anh ta líu lưỡi và giơ tay định gạt William sang một bên. - Anne đâu?

Mẹ tôi chết rồi, - William khẽ nói.

Henry osborne ngơ ngác nhìn anh vài giây. Cái nhìn ngơ ngác ấy khiến William còn có thể tự chủ được Anh bỗng quát lên:

- Ông đi đâu trong khi bà ấy cần đến chồng osborne vẫn còn đứng lảo đảo. Đứa bé thế nào?

- Con gái, nhưng nó cũng chết rồi.

Henry osborne thụp ngồi xuống một chiếc ghế. Nước mắt bắt đầu chảy xuống mặt anh ta.

- Cô ấy làm mất con tôi rồi ư?

William không biết mình nên điên hay nên buồn. - Con ông? ông đừng có nghĩ về mình nữa được không? - Anh lại quát lên. - Ông biết là bác sĩ MacKenzie đã khuyên bà ấy không nên có mang nữa chứ?

- Anh lại cũng giỏi cả môn ấy nữa kia à? Nếu anh biết lo chuyện của anh và đừng có can thiệp gì vào đây thì tôi đã có thể chăm lo đến vợ tôi rồi, phải thế không nào?

- Và chăm lo cả tiền của bà ấy nữa chứ?

- Tiền, hừ. Anh chỉ là một thằng keo kiệt. Tôi biết là mất tiền thì anh còn đau hơn mất bất cứ gì khác.

- Đứng dậy! - William rít qua kẽ răng.

Henry osborue đứng dậy và đập vỡ chai rượu vào thành ghế. quhisky tung tóe ra thảm. Anh ta lắc lư bước đến chỗ William và giơ chai rượu vỡ ìên. William vẫn đứng nguyên đó trong khi Matthequ đứng chen ngay vào giữa và dễ dàng gỡ cái chai ra khỏi tay anh chàng say rượu.

William gạt bạn sang một bên và tiến đến sát mắt Henry osborne.

Bây giờ, ông hãy nghe đây, và nghe cho kỹ vào. Tôi yêu cầu ông phải ra khỏi nhà này trong vòng một giờ nữa. Tôi mà còn nghe thấy nói đến ông nữa, tôi sẽ lập tức cho điều tra ngay về tiền nửa triệu đôla của rnẹ tôi vào công ty của ông, tôi sẽ cho tiến hành ngay cả việc điều tra về quá khứ của ông ở Chicago và ông thật sự là ai. Còn nếu không nghe nói đến ông nữa, tôi sẽ coi như quên chuyện đó đi. Bây giờ, ông cút ngay đi, không tôi sẽ giết ông đấy.

Hai chàng thanh niên nhìn anh ta bước ra ngoài, vừa sụt sùi vừa hoang mang giận dữ.

Sáng hôm sau William đến ngân hàng. Anh được mời vào ngay vào phòng làm việc của Chủ tịch. Alan đang xếp một số giấy tờ vào cặp. Ông nhìn lên và đưa một mẩu giấy cho Wilìiam mà không nói gì.

đó là một bức thư ngắn gửi tất cả các thành viên trong ban giám đốc cho ông được từ chức chủ tịch ngân hàng.

- Ông cho gọi cô thư ký vào đây được không?

William bình tĩnh nói.

- Tùy anh.

Alan Lloyd bấm vào một nút bên cạnh bàn giấy. Một người đàn bà cỡ trung niên, ăn mặc kiểu cổ, từ một cửa bên bước vào.

Chào ông Kane, - Bà ta trông thấy William đã nói ngay. Tôi rất tiếc khi được tin về thân mẫu ông.

- Cảm ơn bà, - William nói. - Đã có ai khác xem bức thư này chưa?

- Thưa chưa, - Bà thư ký nói. - Tôi đang sắp đánh ra mười hai bản để ông Doyd ký.

- Thôi bà đừng đánh máy ra nữa, và xin bà cũng quên là có bản thảo này nhé. Bà cũng đừng nói cho bất cứ ai biết về chuyện này, bà hiểu chứ?

Bà ta nhìn vào đôi mắt xanh của anh chàng thanh niên mười sáu tuổi. Sao mà giống ông bố ngày xưa thế, bà nghĩ bụng.

Vâng, thưa ông Kane. - Bà lặng lẽ ra ngoài và đóng cửa lại. Alan Lloyd nhìn lên..

- Lúc này, Kane và Cabot không cần đến một ông chủ tịch mới, ông Alan ạ, - William nói. - Trong trường hợp này, ông không hề làm cái gì mà bố tôi trước kia đã không làm.

- Đâu có dễ dàng thế, - Alan nói.

- Dễ chứ, - William nói. - Chúng ta sẽ lại bàn việc này khi nào tôi hai mươi mốt tuổi. Còn trước đó thì chưa bàn. Từ nay đến đó, tôi rất mong ông vẫn quản lý ngân hàng của tôi theo cái cách vừa rất ngoại giao vừa rất bảo thủ như từ trước đến nay. Tôi không muốn người ta bàn tán gì đến những chuyện vừa xẩy ra ở ngoài văn phòng này. Xin ông cho hủy tất cả những tài liệu gì ông có về Henry osbome, và coi như vấn đề này đã kết thúc.

William xé vụn bức thư xin từ chức và vứt từng mảnh vào lửa. Anh quàng tay vào vai Alan.

- Bây giờ tôi không còn gia đình nữa, Alan chỉ còn có ông thôi. Lạy chúa, ông đừng bỏ tôi.

William trở về ngôi nhà trên đồi Beacon. Bà nội Kane và bà ngoại Cabot ngồi yên lặng trong phòng khách. Thấy anh bước vào, hai cụ đứng dậy. Lần đầu tiên Wilham nghĩ ra bây giờ anh đã là chủ của gia đình Kane.

Hai ngày sau, tang lễ được tiến hành một cách lặng lẽ ở nhà thờ lớn St. Paul. Chỉ có những người trong gia đình và bạn thân được mời đến. Riêng Henry osborne vắng mặt. Những người đến dự tang lễ chia buồn với Wilham. Hai cụ bà đứng phía sau anh như hai người hộ vệ, cảm thấy anh tỏ ra bình tĩnh, tỉnh táo Sau khi mọi người ra về rồi, William tiễn Alan Lloyd ra xe.

ông chủ tịch rất sung sướng nghe William yêu cầu mình giúp một việc.

- Như ông đã biết đấy, Alan, mẹ tôi vẫn muốn xây cho bệnh viện một khu nhi để tưởng nhớ đến bố tôi. Vậy tôi muốn nhờ ông giúp cho nguyện vọng của bà được thực hiện.
 
Hai Số Phận - Chương 12
Wladek ở lại tòa lãnh sự Ba- lan tại Constantinople đến một năm chứ không chỉ ít ngày như lúc đầu anh đã tưởng. Suốt ngày đêm, anh làm việc cho Paquel Zaleski, trở thành người trợ lực không thể thiếu và là bạn gần gũi của ông ta nữa. Đối với anh, hình như không có việc gì là khó khăn lắm. Zaleski nghĩ bụng không biết trước đây không có Wladek thì ông ta đã xoay sở như thế nào.

Mỗi tuần Wladek đến thăm sứ quán Anh một lần, vào trong bếp ngồi ăn với bà Hendersom, người Xcốt- len. Có một lần anh còn được ngồi ăn với cả ông phó lãnh sự của Nhà vua Anh nữa. Lúc này ở Thổ Nhĩ Kỳ lối sống cũ của Hồi giáo đang mất dần và đế chế ottoman đã bắt đầu rệu rã. Cái tên Mustapha Kemal được nhắc đến ở cửa miệng mỗi người. Không khí sắp diễn ra những thay đổi khiến Wladek sốt ruột. Anh luôn luôn nghĩ đến Nam tước và tất cả những ai anh yêu quý ở lâu đài. Hồi còn ở Nga, do phải làm sao để sống được từ ngày này sang ngày khác nên anh không có lúc nào nghĩ đến họ, nhưng sang đến đây rồi họ lại hiện lên trước mắt anh, lặng lẽ, chậm chạp. Đôi khi anh hình dung những con người đó khỏe mạnh vui tươi, anh thấy Leon bơi lội trên sông, thấy Phiorentyna chơi trò lộn dây trong phòng ngủ, thấy khuôn mặt bệ vệ của Nam tước trong ánh đèn nến buổi tối. Nhưng bao giờ cũng vậy những khuôn mặt thân yêu mà anh rất nhớ ấy sẽ rung rinh trước mắt anh rồi biến thành những hình ảnh khủng khiếp, Leon nằm chết trên người anh, Phlorentyna trong cơn hấp hối người đầy máu me, và Nam tước gần như mù và kiệt quệ.

Wladek dần dần hiểu ra rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở về được quê hương với những hồn ma như thế, mà anh phải làm một cái gì thật xứng đáng mới được:

Nghĩ thế, anh lại nhớ đến nhân vật Tadeusz Khôngsciuskhông mà trước đây Nam tước đã nhiều lần kể cho anh nghe, và anh nghĩ đến chuyện đi sang Mỹ.

Paquel Zaieski cũng đã mô tả cho anh nghe nơi đó được gọi là Thế giới mới. Wladek càng hy vọng tương lai anh sẽ có cơ hội được trở về Ba lan một cách vẻ vang.

Chính Paquel Zaleski đã góp tiền để mua một tấm giấy nhập cư cho Wladek đi sang Mỹ. Kiếm được giấy đó không để vì bao giờ cũng phải đặt cọc trước một năm. Wladek tưởng như khắp cả các nước Đông âu ai ai cũng tìm cách trốn đi để làm lại cuộc sống ở Thế giới mới vậy.

Mùa xuân năm 1921, Wladek Khôngskiequicz rời Constantinople bước xuống con tàu Mũi tên đen đi đến đảo Rllis thuộc New York. Anh có chiếc va- li đựng tất cả những đồ đạc của mình trong đó với một mớ giấy tờ do Paquel Zaleski cấp.

ông lãnh sự Ba lan đưa anh ra bến tàu và ôm anh thân mật.

- Cậu đi theo Chúa nhé.

Wladek tự nhiên đáp lại bằng câu nói truyền thống của Ba lan anh đã thuộc từ bé:

- Xin ông ở lại với Chúa.

Bước chân lên cầu tàu, Wladek chợt nhớ lại chuyến đi khủng khiếp của anh từ odessa đến Constantinople.

lần này trên tàu không thấy có than, chỉ có người, đủ mọi thứ người, Ba lan, Li- tua- ni- a, E- xtô- nia, U cơ- rai- na và rất nhiều những người khác nữa mà Wladek không hiểu là thuộc dân tộc nào. Anh ôm chặt lấy chiếc va- li nhỏ và đứng vào hàng để chờ. Trước khi vào được đất Mỹ, anh còn phải trải qua nhiều lần chờ lâu như thế nữa.

Một sĩ quan trên tàu xem giấy tờ của anh rất cẩn thận, vì ngờ rằng Wladek trốn nghĩa vụ quân sự Ở Thồ Nhĩ Kỳ. Nhưng Paquel Zaleski đã chuẩn bị rất đầy đủ Lọt qua được cửa đó rồi, anh thầm cảm ơn người đồng bào của anh đã chu đáo được như vậy.

Nhiều người khác không có giấy tờ hợp lệ đã bị trả lại Sau đó là tiêm chủng và khám bệnh. Giá như không có một năm trời được ăn uống tử tế và lấy lại sức khỏe ở Constantinople thì có lẽ Wladek đã không qua được chỗ này. Cuối cùng, mọi thứ kiểm tra đã làm xong, anh được phép xuống khoang dưới, vào chỗ ăn ở rẻ tiền nhất của hành khách. Dưới đó có những ngăn riêng cho nam nữ và các đôi vợ chồng. Wladek nhanh chóng tìm đến khu nam giới và thấy nhóm người Ba lan đã chiếm một khu giường sắt hai tầng khá lớn. Trên mỗi chiếc giường có một đệm rơm mỏng, một chiếc chăn mỏng và không có gối. Wladek không lo chuyện không có gối, vì từ khi rời nước Nga đến nay anh chưa bao giờ ngủ có gối.

Wladek chọn một giường nằm phía dưới một anh chàng khác suýt soát tuổi anh, và tự giới thiệu.

- Tôi là Wladek Khôngskiequicz.

Tôi là Jerzy Noquak ở Warsaqu, - Anh kia đáp lại bằng tiếng Ba lan. - Tôi đi làm giàu ở Mỹ đây.

Anh ta đưa tay ra bắt. Trước khi con tàu khởi hành, Wilìiam và Jerzy ngồi nói chuyện với nhau về mình, cả hai đều lấy làm mừng có bạn để đỡ cô đơn trên tàu. Cả hai đều không muốn nói là mình hoàn toàn không biết gì về nước Mỹ. Hóa ra Jerzy đã mất cả bố mẹ trong chiến tranh và không còn trông cậy vào ai khác. Còn Wladek thì kể cho anh ta nghe về mình:

con của một Nam tước, lớn lên trong một căn lều của người thợ săn, bị người đức và người Nga bỏ tù, trốn khỏi Siberia, thoát khỏi tay một đao phủ Thổ Nhĩ Kỳ nhờ có chiếc vòng bạc đeo trên tay. Jerzy nhìn vào chiếc vòng rất chăm chú. Wladek kể lại tóm tắt mười lăm năm của mình mà Jerzy tưởng như phải cả một đời người mới trải qua hết được những thứ đó. Suốt đêm, Wladek chỉ nói về quá khứ. Jerzy nghe mà không muốn ngủ , cũng không dám nói ra là mình đang lo ngại về tương lai như thế nào Sáng hôm sau, con tàu Mũi tên đen rời bến. Wladek và Jerzy đứng trên boong tàu nhìn Constatinople lùi xa dần trong khoảng trời xanh. Sau vịnh Marmara phẳng lặng đến vùng có sóng của biển Aegean. Phần lớn các hành khách trong khoang rẻ tiền đều bị say sóng. Trong khu này chỉ có mấy phòng vệ sinh và vòi nước lạnh, không đủ cho họ rửa ráy.

Chỉ qua vài ngày là mùi hôi thối đã sực lên không chịu được.

Bữa ăn của họ được để trên những chiếc bàn dài trong một phòng ăn rộng nhưng bẩn thỉu nhếch nhác. Có súp nóng, khoai tây, cá, thịt bò hầm và bắp cải, bánh mì nâu hoặc đen. Trước khi rời nước Nga, Wladek đã được biết những thức ăn khổ hơn thế này nhiều, nhưng ngoài những thứ ở trên tàu này, anh còn có những cái bà Henderson đã gói cho anh như xúc xích, lạc và cả một ít rượu brandy nữa. Anh rủ Jerzy đem vào góc giường cùng ăn. Hai người thầm hiểu với nhau mọi thứ mà không cần nói ra lời. Họ cùng ăn, cùng đi xem các nơi trên tàu, và đêm đến lại trèo lên giường cùng ngủ.

Sang ngày thứ ba trên biển, Jerzy rủ một cô gái Ba lan cùng đến bàn ăn. Anh ta giới thiệu với Wladek đó là Zaphia. Lần đầu tiên trong đời, Wladek nhìn kỹ một cô gái. Anh không rời mắt khỏi Zaphia. Cô ta làm anh nhớ đến Phlorentyna. Cũng đôi mắt xanh đậm đà, mớ tóc vàng trễ xuống hai vai và giọng nói ấm áp.

Wladek cảm thấy như muốn sờ vào người cô ta. Thỉnh thoảng cô gái nhìn Wladek cười. Anh đau khổ thầm nghĩ rằng Jerzy còn đẹp trai hơn mình rất nhiều. Anh đi theo Jerzy đưa cô gái trở về khu phụ nữ.

Sau đó Jerzy quay lại nhìn anh với vẻ hơi khó chịu. - Cậu tìm một cô gái khác cho cậu chứ? Cô này là của tớ.

Wladek không sẵn sàng thừa nhận là anh chẳng hiểu kiếm riêng cho một một cô gái bằng cách nào. Anh ra điều coi khinh.

- Ôi chao, sang đến Mỹ thì còn ối thì giờ đi tìm gái.

- Tại sao phải chờ sang đến Mỹ? Ngay trên tàu này muốn bao nhiêu mà chả được?

- Cậu làm thế nào? - Wladek hỏi, muốn biết Nhưng không dám nhận là mình dốt về môn này.

- Chúng ta còn hơn mười hai ngày nữa trong cái hầm này, và mười hai ngày đó tớ sẽ có mười hai người đàn bà cho mà xem, - Jerzy khoe khoang.

Cậu có thể làm gì với mười hai người đàn bà? - Wladek hỏi.

- Ngủ với họ, chứ còn làm gì nữa? - Wladek ngỡ ngàng không hiểu.

ôi lạy Chúa, - Jerzy thốt lên. - Chẳng lẽ một người như cậu đã sống được với bọn Đức, thoát khỏi tay bọn Nga, đã giết một người khi mình mới mười hai tuổi và suýt bị bọn Thổ Nhĩ Kỳ dã man đem chặt tay, thế mà lại chưa biết đàn bà là gì ư?

Anh ta cười to đến nỗi những người khác ở các giường chung quanh phải lên tiếng bảo im đi. Jerzy tiếp tục nói thầm với Wladek. - Đã đến lúc cậu phải học thêm cho biết. Ít ra tớ cũng có được một cái để dạy cho cậu. - Anh ta thò đầu xuống giường dưới nói, mặc dầu không nhìn thấy rõ mặt Wladek trong bóng tối - Zaphia là một cô gái dễ thông cảm đấy. Tớ có thể nói là sẽ thuyết phục cô ta mở rộng kiến thức thêm cho cậu. Để rồi tớ thu xếp.

Wladek không nói gì.

Cũng không ai nhắc đến chuyện ấy nữa, nhưng hôm sau thì Zaphia tỏ ra chú ý đến Wladek. Lúc ăn, cô ta đến ngồi bên cạnh Wladek và họ nói chuyện với nhau hàng giờ về cuộc sống và những hy vọng của mình. Cô ta là một cô gái mồ côi ở Poznan, bây giờ đi sang với bà con họ hàng ở Chicago. Wladek thì bảo Zaphia là anh sang New York và có lẽ sẽ cùng ở với Jerzy.

- Tôi mong là New York rất gần Chicago, Zaphia nói.

- Thế thì sẽ có thể đến thăm tôi khi nào tôi làm thị trưởng, - Jerzy huênh hoang nói.

Cô ta cười khẩy.

- Anh còn Ba Lan lắm, Jerzy ạ. Anh cũng không nói được tiếng Anh tử tế như Wladek.

Tôi sẽ học, - Jerzy nói với vẻ tin tưởng, - Và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên Mỹ cho mình. Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là George Navak. Thế là không có khó khăn gì nữa. Mọi người ở Hoa Kỳ sẽ nghĩ tôi là người Mỹ. Còn cậu, Wladek Khôngskiequicz, cậu thế nào? Cậu giữ cái tên đó thì chả làm gì được mấy đâu, phải không?

Wladek nhìn anh chàng mới có cái tên là George kia và thầm bực mình với tên của chính mình. Không thể lấy ngay được cái tên mà anh có quyền hưởng gia tài kia, anh nghĩ bụng cái tên Khôngskiequicz thật là rắc rối mà còn bất hợp pháp nữa.

- Tớ sẽ tìm cách sau, - Anh đáp. - Nếu cậu muốn, tớ có thể giúp cậu học tiếng Anh được.

Còn tớ sẽ giúp cậu tìm ra một cô gái. - Zaphia cười khúc khích.- Anh chả cần đâu, anh ấy đã tìm được một cô rồi.

Jerzy bây giờ có tên là George và anh ta đòi họ phải gọi bằng tên đó, cứ mỗi tối sau khi ăn xong lại chui vào một chiếc xuồng phao có bạt che ở trên để hú hí với một cô gái. Wladek rất muốn biết anh ta làm gì trên đó, vì những người đàn bà mà George chọn và rủ lên đó không những bẩn thỉu mà còn xấu xí nữa.

Một tối sau bữa ăn, khi George đã biến đi rồi, Wladek với Zaphia ngồi trên boong tàu nói chuyện. Cô ta quàng tay ôm lấy anh và bảo anh hôn. Anh kề íniệng vào môi cô ta, nhưng người anh cứng quèo, lúng túng không biết làm thế nào. Anh ngạc nhiên thấy cô ta lùa đầu lưỡi vào miệng mình. Lát sau hết sửng sốt rồi, anh thấy miệng cô ta há ra một cách rất khêu gợi và anh thấy người rạo rực hẳn lên. Anh ngượng, muốn ngồi lui lại nhưng cô ta không hề chú ý trái lại cứ áp người vào sát anh đưa đẩy và cầm tay anh kéo xuống dưới. Cơ thể anh giần giật rất khó chịu. Cô ta ngừng hôn và thủ thỉ vào tai anh.

- Anh muốn em cới quần áo không, Wladek?

Anh không biết thế nào trả lời.

- Thôi có lẽ để đến mai. - Cô ta nói và đứng dậy bỏ đi.

Anh lật đật đi về giường mình, trong bụng nghĩ đến hôm sau sẽ quyết tâm hoàn thành cái việc mà Zaphia đã bắt đầu. Anh vừa đặt lưng xuống và nghĩ xem sẽ thực hiện cái việc đó như thế nào thì bỗng có một bàn tay to túm lấy tóc anh kéo từ trên giường xuống sàn tàu. Trong khoảnh khắc, sự kích thích tình dục trong anh tan biến mất. Hai người đàn ông anh chưa thấy bao giờ đứng lù lù ở đó. Họ kéo anh vào một góc xa và bắt đứng dựa vào tường. Một bàn tay to bịt chặt lấy miệng anh trong khi một lưới dao kề vào cổ họng.

- Cấm không được kêu, - Tên cầm dao ấn lưỡi dao vào da thịt anh, nói khẽ. - Chúng tao chỉ cần cái vòng bạc ở cổ tay mày thôi.

Mất chiếc vòng bạc này sẽ chẳng khác gì như bị chặt bàn tay, Wladek nghĩ mà khiếp sợ. Anh chưa biết làm thế nào thì một trong hai tên đó đã kéo tuột được chiếc vòng ra khỏi cổ tay anh. Anh không rõ mặt chúng vì ở chỗ này tối quá. Anh đang lo như thế là vĩnh viễn mất chiếc vòng thì bỗng có một người nào đó nhảy lên lưng tên cầm dao. Wladek lợi dụng cơ hội đấm một nhát vào mặt tên đang ghì anh vào tường.

Những người ngủ quanh đó thức dậy xôn xao. Hai tên kia vội bỏ trốn nhưng George đã kịp đâm một nhát dao vào cạnh sườn một tên.

Cho chúng mày chết nhé, - Wladek hét lên và đứng lại.

- Tớ đến vừa kịp, - George nói. - Chúng nó chưa quay lại ngay đâu. - Anh ta nhìn xuống chiếc vòng bạc nằm lăn lóc trên sàn đầy những mùn cưa. - Hay thật,- Anh ta trịnh trọng nói. - Sẽ còn có nhiều người muốn cướp cái của quí ấy của cậu đấy.

Wladek nhặt chiếc vòng lên đeo vào tay.

- Suýt nữa thì cậu mất hẳn cái vòng này đấy nhé.- George nói. - May cho cậu là tối nay tớ về hơi muộn.

Tại sao cậu về hơi muộn? Wladek hỏi. - George khoe khoang:

- Tớ nổi tiếng rồi. Thực tình là tối nay tớ vớ được một thằng ngốc mò đến chiếc xuồng của tớ. Hắn đã tụt quần rồi. Tớ trông thấy thế bèn bảo hắn đừng có nằm với cô gái mà tuần trước tớ định nằm nhưng không dám vì cô ta có bệnh giang mai. Thế là hắn vội vã mặc quần vào bỏ đi ngay.

- Cậu làm gì trong xuồng ấy? Wladek hỏi.

- Thì ngủ với họ chứ làm gì nữa, sao cậu hỏi ngốc thế?

- Nói rồi George lăn ra ngủ.

Wladek nằm nhìn lên trần, tay mân mê chiếc vòng bạc. Anh suy nghĩ về câu George vừa nói, và tự hỏi không biết mình sẽ ngủ với Zaphia như thế nào đây.

Sáng hôm sau tàu gặp một cơn bão. Tất cả các hành khách đều bị cấm không được lên trên boong.

Mùi hôi thối cộng thêm với hệ thống sưởi trong tàu càng nồng nặc lên như sói vào tận trong óc Wladek.

- Thế là hỏng cả việc của tớ, không thực hiện được đủ một tá. George phàn nàn.

Cơn bão tan đi, hầu hết các hành khách kéo lên khoang trên. Wladek và George vội chen trong đám đông chui lên hít thở ít không khí trong lành. Nhiều cô gái nhìn George mỉm cười, nhưng Wladek thấy họ không để ý gì đến anh. Một cô gái tóc đen, má đỏ hồng lên vì gió biển, qua mặt George cười với anh ta. Anh ta quay sang Wladek.

Wladek nhìn cô ta xem cô ta chú ý đến George như thế nào.

Tối nay nhé, - George chờ cô ta bước đến gần mới nói cho cô ta đủ nghe. Cô ta làm như không nghe thấy gì vẫn bước đi nhanh hơn trước một chút.

- Wladek, cậu ngoái lại xem cô ta có quay nhìn tớ không.

- Wladek ngoái lại, và ngạc nhiên đáp.

Có cô ta có nhìn.

- Thế là tối nay cô ta thuộc về tớ. - George nói. - Cậu đã có được Zaphia chưa?

- Chưa, - Wladek đáp. - Tối nay.

- Đã đến lúc rồi há? Đến New York thì cậu sẽ không bao giờ còn được gặp lại cô ta nữa.
 
Đúng như George nói, bữa tối hôm đó anh ta đã kéo theo được một cô gái tóc đen. Wladek và Zaphia không nói gì, quàng tay vào người nhau và đi lên boong trên dạo bước quanh tàu. Wladek liếc nhìn sang thấy nét nghiêng của Zaphia rất xinh. Anh nghĩ bụng, và quyết định phải làm ngay chứ không để lúc khác nữa. Anh dẫn cô ta đến một góc tối và bắt đầu hôn cô ta như hôm qua cô ta đã hôn mình. Cô ta lui lại một chút và tựa vai vào lan can. Wladek tiến theo. Cô ta cầm tay anh kéo xuống ngực. Anh sờ vào đó và không ngờ nó êm ái như vậy. Cô ta cởi vài khuy áo và đưa tay anh luồn vào bên trong. Anh thấy cảm giác đầu tiên sờ vào da thịt thật là ngon lành khó tả.

- Lạy Chúa Tay anh lạnh thế!- Zaphia nói.

Wladek ghì chặt cô ta vào người, thở dốc. Cô ta cùng đưa đẩy với anh một lúc rồi lui ra nói:

- Ở đây không được, chúng mình phải đi tìm một cái xuồng. Họ ngó nhìn vào ba chiếc xuồng đầu đều có người bên trong. Cuối cùng thấy một chiếc xuồng không bèn chui ngay vào dưới mái vải bạt. Trong bóng tối của chiếc xuồng Zaphia làm gì đó một lát với đám quần áo của cô ta rồi kéo Wladek nằm đè lên người mình.

Wladek loay hoay không biết làm thế nào thì cô ta bỗng ngừng hôn và khẽ bảo anh.

- Cởi quần ra chứ.

Anh cảm thấy mình như một thằng ngốc, vội làm theo, nhưng rồi chưa kịp hành động gì thì đã rùng mình rồi người anh nhủn ra. Anh chợt hiểu là khủyu tay và đầu gối của mình đang tì vào những đầu mẩu gỗ trong xuồng và rất đau.

- Đây là lần đầu tiên anh làm tình với một cô gái phải không? - Zaphia hỏi và muốn anh lại nằm lên người cô ta nữa.

- Không, tất nhiên không phải, - Wladek nói.

- Anh có yêu em không, Wladek - Có anh có yêu, - Wladek nói. - Và khi có nơi ăn chốn ở New York rồi, anh sẽ đến tìm em ở Chicago.

- Em muốn thế lắm, Wladek, - Cô ta nói và cài lại khuy áo.

- Và em cũng yêu anh nữa.

- Cậu có ngủ với cô ta không? - Wladek vừa về thì George đã hỏi ngay.

- Có - Thích không?

- Thích, - Wladek đáp bâng quơ rồi ngủ ngay. Đến sáng hôm sau, họ bỗng thức dậy nghe tiếng xôn xao trong hành khách. Ai cũng mừng đây là ngày cuối cùng trên con tàu Mũi tên đen. Một số người đã lên boong tàu từ trước lúc mặt trời mọc, hy vọng được nhìn thấy đất liền trước mọi người. Wladek gói ghém đồ đạc cho vào chiếc va- li mới, mặc bộ đồ duy nhất vào người, đội mũ vào, rồi lên đứng trên boong cùng với George và Zaphia. Ba người dõi nhìn vào đám sương mù trên mặt biển, im lặng chờ để được trông thấy đất Hoa Kỳ.

- Kia kìa!- Một hành khách reo lên, tiếp theo đó là cả đám người trên boong vui mừng trông thấy dải đất màu xám của đảo Long island từ từ hiện ra trong buổi sáng mùa xuân.

Những chiếc tàu con tiến đến bên tàu Mũi tên đen dẫn nó đi vào giữa Brooklyn vào đảo Staten để vào bến New York. Pho tượng Thần Tự Do đứng sừng sững trên nền trời trước khu Manhattan và giơ ngọn đuốc lên cao khiến mọi người trên tàu nhìn bằng con mắt kinh ngạc.

Cuối cùng, tàu bỏ neo gần những ngôi nhà có tháp cao xây gạch đỏ trên đảo Ellis. những hành khách có phòng riêng trên tàu xuống trước. Mãi đến hôm nay Wladek mới trông thấy những người đó. Anh đoán có lẽ họ Ở một tầng riêng trên tàu và có những phòng ăn riêng. Hành lý của họ đã có người đến mang vác. Họ được những người đứng sẵn dưới bến đón mừug.

Wladek biết là mình sẽ chẳng có được cái cảnh ấy. Sau khi một số người có đặc quyền ấy đã xuống tàu rồi, thuyền trưởng nói trên loa rằng mọi hành khách khác chưa được rời tàu và phải chờ nhiều giờ nữa.

Tiếng phàn nàn thất vọng vang lên và Zaphia ngồi bệt xuống boong tàu khóc. Wladek đến khuyên nhủ cô ta.

Lát sau có một viên chức mang cà- phê đến, một người nữa mang những biển số đến đeo vào cổ mỗi hành khách. Wladek mang số B.127. Anh nhớ trước đây đã có một lần phải đeo số rồi. Sao bây giờ cũng lại thế nữa? Mỹ cũng như các trại giam ở Nga chăng?

Cho đến tận giữa buổi chiều họ cũng chẳng được cho ăn uống gì, và cũng không ai nói cho biết là thế nào nữa. Họ được đưa xuống bến bên phía đảo Ellis.

Rồi đàn ông tách riêng khỏi đàn bà, được đưa vào những căn khác nhau. Wladek hôn Zaphia và cứ giữ cô ta đứng lại trong hàng. Một viên chức đi qua đó thấy thế tách họ ra.

Cứ đi đã ông ta nói. - Rồi sẽ cho hai người lấy nhau, chẳng bao lâu nữa đâu.

Wladek thấy Zaphia đi mất hút, còn anh và George bị đẩy lên phía trước. Đêm đó họ ngồi trong một căn nhà cũ ẩm ướt, không sao ngủ được trong khi những người phiên dịch đi đi lại lại giúp cho một số người nhập cư còn lớ ngớ chưa biết gì. Họ giúp qua loa thôi nhưng thái độ cũng nhã nhặn.

Đến sáng, họ được đưa đi khám sức khỏe. Chặng đầu là khó nhất. Người ta bắt Wladek phải leo lên một thang gác thật dốc. Ông bác sĩ mặc bộ đồng phục màu xanh bảo Wladek lên xuống hai lần và nhìn kỹ cách đi đứng của anh.

Wladek cố hết sức không tỏ ra mình hơi bị thọt.

Cuối cùng ông bác sĩ hài lòng. Sau đó người ta bảo anh cởi bỏ mũ, và cổ áo cứng, để xem kỹ mặt mũi tóc tai, tay và cổ. Người đến sau Wladek có môi trên bị sứt thế là bị Ông bác sĩ ách lại, đánh dấu phấn lên vai phải anh ta và chỉ ra đứng ở đầu nhà. Khám thân thể xong, Wladek cùng với George lại nối vào một đoàn người xếp hàng dài bên ngoài phòng gọi là kiểm tra công cộng. Mỗi người vào trong phòng đó chừng năm phút để họ phỏng vấn. Ba giờ đồng hồ sau đến lượt George được gọi vào. Wladek nghĩ bụng không biết người ta sẽ hỏi gì mình.

Lúc George bước ra, anh ta nhìn Wladek mỉm cười.

- Dễ thôi, cậu cứ đi thẳng vào đó, - Anh ta nói.

Wladek cảm thấy hai bàn tay mình ướt mồ hôi khi anh bước vào phòng.

Anh bước theo người viên chức vào một phòng nhỏ chung quanh không có gì trang trí. Có hai người xét hỏi ngồi sẵn đó và đang hí hoáy viết gì lên những tờ giấy có vẻ là giấy khai đặc biệt.

- Anh nói được tiếng Anh không?- Người thứ nhất hỏi.

- Thưa ông có, tôi nói được, - Wladek trả lời, nghĩ bụng dọc đường giá tập nói nhiều thì hơn.

Tên anh là gì?

- Wladek Khôngskiequicz, thưa ông.

- Họ đưa cho anh một cuốn sách to màu đen.

- Anh có biết cái này là gì không.

- Thưa có, đây là Kinh Thánh.

- Anh có tin ở Chúa không Thưa có, tôi có tin.

- Anh hãy để tay lên Kinh Khánh và thề sẽ trả lời thành thật những câu hỏi của chúng tôi.

quladek đưa tay trái cầm cuốn Kinh Thánh, đặt bàn tay phải lên đó và nói:

- Tôi hứa sẽ nói sự thật.

- Wốc tịch anh là gì?

- Ba Lan.

- Ai trả tiền cho anh đi qua đây?

- Tôi tự trả bằng tiền tôi kiếm được trong Lãnh sự quán Ba Lan ở Constantinople.

Một trong hai người nhìn vào giấy tờ của Wladek, gật đầu rồi hỏi tiếp.

- Anh có đến một nhà nào không?

Thưa có. Tôi sẽ đến ở nhà ông Peter Novak. Ông ấy là chú của bạn tôi. Ông ấy ở New York.

- Tốt. Anh có việc gì làm không?

- Thưa có. Tôi về làm trong lò bánh mì của ông Novak.

- Anh đã bị bắt bao giờ chưa?

Wladek chợt nghĩ đến Nga. Điều đó không tính. Thổ Nhĩ Kỳ.... Không, anh sẽ không nhắc đến làm gì.

- Không, thưa ông, chưa bao giờ.

Anh có phải là người vô chính phủ không - Không, thưa ông. Tôi ghét họ lắm.

- Anh có tuân theo luật pháp của Hoa Kỳ không - Có thưa ông.

Anh có tiền gì không - Có thưa ông.

- Cho chúng tôi xem nào?

Vâng, thưa ông. - Wladek để lên bàn mấy tờ giấy bạc và một ít tiền lẻ.

- Cảm ơn, - Người xét hỏi nói. - Anh có thề cất tiền vào túi đi Người thứ hai nhìn Wladek.

Hai mươi mốt cộng với hai mươi bốn là bao nhiêu?

- Bốn mươi lăm, - Wladek không ngập ngừng nói ngay.

Con bò cái có mấy chân.

Wladek không tin ở tai mình.

- Bốn, thưa ông, - Anh đáp và không biết có phải câu hỏi đó là cái bẫy không Con ngựa có mấy chân?

- Bốn, thưa ông, - Wladek đáp, trong bụng vẫn ngờ ngợ.

- Đang đi trên một chiếc thuyền con ngoài biển, nếu phải vứt đồ đi cho nhẹ thì anh sẽ vứt gì, bánh mì hay tiền bạc?

- Vứt tiền, thưa ông, - Wladek đáp.

- Tốt. - Người xét hỏi cầm lên một tấm thẻ có đề chữ "Chấp nhận" và đưa cho Wladek. - Sau khi anh đổi tiền rồi thì đưa tấm thể này trình cho viên Sĩ quan Nhập cư. Anh nói đầy đủ tên cho ông ta biết, và ông ta sẽ đưa cho anh thẻ đăng ký. Rồi họ sẽ cho anh giấy nhập cảnh. Nếu trong năm năm anh không phạm tội gì và qua được buổi? kiểm tra đọc và viết tiếng Anh, tán thành ủng hộ Hiến pháp, thì anh sẽ được phép xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Chúc anh may mắn.

Wladek. - Xin cảm ơn ông.

Ra quầy đổi tiền, Wladek đưa cả số tiền mười tám tháng dành dụm ở Thổ Nhĩ Kỳ cùng với ba tờ bạc 50 rúp còn lại cho họ. Họ trao lại cho anh 47,20 đô la đổi tiền Thổ Nhĩ Kỳ sang, còn những tờ rúp thì họ bảo anh là không có giá trị. Anh nghĩ đến bác sĩ Dubien với mười lăm năm dành dụm của ông.

Bước cuối cùng là ra gặp Sĩ quan Nhập cư. Ông ta ngồi sau một chiếc bàn ngay bên cửa ra vào có thang chắn, dưới bức chân dung Tổng thống Harding.

Wladek và George cùng bước đến.

Tên họ? - Ông sĩ quan hỏi George.

- George Novak, - Anh ta trả lời gọn. Ông sĩ quan viết lên một tấm thẻ.

Địa chỉ? - Ông ta hỏi.

- 286, phố Broome, New York bang New York.

viên sĩ quan đưa tấm thẻ cho George.

Đây là giấy chứng nhận nhập cư của anh, 21871, Geotge Novak. Hoan nghênh anh đến Hoa Kỳ, George. Tôi cũng là người Ba Lan. Rồi anh ở đây sẽ thích.

Chúc mừng anh, và chúc anh may mắn.

George mỉm cười và bắt tay viên sĩ quan, rồi đứng sang một bên chờ Wladek. Viên sĩ quan nhìn Wladek.

Wladek đưa cho ông ta tấm thể có chữ "Chấp nhận".

- Tên họ? - Viên sĩ quan hỏi.

Wladek ngập ngừng.

- Tên anh ìà gì?- Ông ta nhắc lại to hơn, có vẻ hơi sốt ruột. Wladek không sao nói ra được. Anh ghét cái tên nông dân kia hết sức.

- Tôi hỏi lần nữa, tên anh là gì?

George nhìn Wladek. Những người khác xếp hàng phía sau cũng nhìn anh. Wladek vẫn. chưa nói. Viên sĩ quan bỗng nắm lấy cổ tay anh, nhìn kỹ vào dòng chữ trên chiếc vòng bạc, viết vào tấm thẻ rồi đưa lại cho Wladek.

- 21872, Nam tước Abel Rosnovsk Hoan nghênh đến Hoa Kỳ. Chúc mừng và chúc anh may mắn, Abel.
 
Hai Số Phận - Chương 13
1923 - 1928
Tháng chín 1923

William trở lại học năm cuối cùng ở trường St. Paul và được bầu làm chủ tịch lớp lớn, đúng ba mươi ba năm sau khi bố anh cũng đã giữ chức đó. Nhưng William không phải được bầu lên theo cách thông thường hoặc do là một lực sĩ hay do được coi là học sinh nổi tiếng nhất trong trường. Nếu theo những tiêu chuẩn ấy thì Matthequ Lester, bạn thân nhất của anh, sẽ đánh bạt anh trong bất cứ cuộc thi nào. Nhưng William lại là một anh chàng gây nhiều ấn tượng nhất trong trường và về mặt này thì Matthequ Lester không thể đua với anh được. William mang tên của trường St. Paul để thi lấy học bổng Hamilton về môn toán ở trường đại học Harvard, và trong học kỳ cuối này anh quyết tâm đạt mục tiêu ấy.

Thời gian về nhà nghỉ nhân dịp lễ Giáng Sinh, anh giành tất cả tâm trí vào việc nắm vững những nguyên lý về toán. Tuy nhiên điều đó cũng khó thực hiện vì người ta mời anh đến dự đủ thứ chiêu đãi và vũ hội.

Anh khéo léo từ chối được một số cuộc, nhưng riêng có một cuộc anh không trốn nổi, đó là vũ hội do các cụ bà chủ trương làm ở ngôi nhà đỏ trên giảng đường Loquisburg. William nghĩ. không biết đến tuổi nào anh mới có quyền quyết định được, không để cho các cụ dùng ngôi nhà này vào những việc như thế. Anh biết là bây giờ chưa đến lúc, vả lại có như vậy thì những người làm trong nhà mới có việc làm. Anh chỉ có rất ít bạn thân ở Boston, và điều đó không ngăn nổi các cụ bầy ra một danh sách dài dằng dặc những khách mời.

Để kỷ niệm dịp này, các cụ tặng William một bộ áo lễ phục kiểu mới có hai lần ngực. Anh nhận tặng phẩm ấy với một vẻ không nồng nhiệt lắm, nhưng rồi cũng về phòng ngỉl đóng bộ đó lên người và đi lại nhìn ngắm trong gương.

Hôm sau anh gọi điện thoại đường dài đi New York mời Matthequ Lester về dự. Cô em Matthequ cũng muốn đi theo nhưng mẹ cô bảo là không tiện, nên lại thôi.

William ra ga đón bạn.

- Này, cậu thử nghĩ xem, - Matthequ ngồi trên xe về Đồi Beacon nói với William, - Chẳng phải là đã đến lúc cậu phải có quan hệ trai gái rồi hay sao? Có lẽ ở Boston không có cô nào ra hồn ư ?- Sao, cậu đã có cô nào rồi đấy, Matthequ?

Rồi chứ, từ mùa đông năm ngoái ở New York cơ.

- Lúc đó mình làm gì nhỉ?

- Có lẽ cậu đang mơ làm Bertrand Russell.

Thế mà cậu chả bảo gì cho mình biết.

- Có gì đâu mà nói. Thực ra, hình như cậu nghĩ nhiều đến ngân hàng của ông bố mình hơn là chuyện tình của mình. Chuyện xảy ra tại một cuộc chiêu đãi của bố mình kỷ niệm ngày sinh Washington. Hôm đó có thể nói mình bị một trong những thư ký giám đốc đè ra hiếp. Đó là một bà rất to lớn có tên là Cynthia, có bộ ngực đồ sộ núng nính đến mức....

Cậu có thích không chứ?

- Có, nhưng mình không tin rằng bà ta cũng thích. bà ta quá say rượu nên không biết có mình ở đó. Vả lại mình nghĩ rồi cũng phải bắt đầu ở chỗ nào đó, trong khi ấy thì bà ta tự nguyện giúp cho con ông chủ được biết mùi đời kia mà.

Trong óc Wilham chợt hiện lên hình ảnh bà thư ký trung niên đứng đắn của Alan Lloyd anh gặp hôm trước.

- Mình không nghĩ là sẽ có cái may mắn được bà thư ký của Chủ tịch dạy cho những bài học đầu tiên ấy anh nói.

Matthequ ra điều hiểu biết:

- Rồi cậu sẽ ngạc nhiên thấy rằng chính những người đàn bà có vẻ đứng đắn nghiêm túc lại là những người dễ dàng lăn vào vòng tay mình hơn cả. Bây giờ thì mình sẵn sàng nhận mọi lời mời, dù là chính thức hay không chính thức, mà cũng chả cần phải ăn mặc chỉnh tề nữa.

Cất xe vào rồi, hai người bước lên ngôi nhà bây giờ là của Wilham.

- Cậu đã thay đổi nhiều rồi đấy nhỉ, - Matthequ nhìn bộ bàn ghế mới bằng song mây và giấy hoa mới dán trên tường. Chỉ có chiếc ghế da màu đỏ sẫm vẫn đâu ở nguyên đấy.

- Chỗ này cũng cần sáng sủa lên một chút, - William nói. - Trước đây cứ như sống trong thời kỳ đồ đá Vả lại mình không muốn để gợi lại những....

Nhưng thôi, bây giờ không phải lúc nói về trang trí nội thất.

Bao giờ thì mọi người sẽ đến dự cuộc chiêu đãi - Vũ hội đấy, Matthequ. Các cụ cứ nhất định phải gọi đây là vũ hội.

Trong những dịp này chỉ có một thứ có thể gọi là vũ hội được thôị.

- Matthequ, cậu chỉ mới biết đến một thư ký của giám đốc thôi mà đã tưởng mình có quyền lên lớp thiên hạ về tình dục sao?

- Ôi cậu ghen đấy à? Thôi đi bạn ơi - Matthequ thở dài chế nhạo.

William cười và nhìn đồng hồ tay.

- Trong vài giờ nữa, người khách đầu tiên sẽ tới. Bây giờ cậu hãy đi tắm rửa thay quần áo đã. Cậu có nhớ mang theo bộ lễ phục đấy không?

- Có, nhưng nếu không thì mình mặc bộ quần áo ngủ cũng được chứ sao. Mình thường hay quên thứ này hoặc thứ kia, nhưng cả hai thứ thì không bao giờ, dù muốn quên cũng không được. Thực ra, nếu mình mặc quần áo ngủ ra dự vũ hội thì có thể sẽ làm mọi người buồn cười lắm nhỉ.

- Các cụ nhà mình chả thích đùa thế đâu, - William nói.

Sáu giờ những người phục vụ chiêu đãi lục tục đến. Họ có tất cả hai mươi ba người. Bây giờ, các cụ đến, trịnh trọng trong bộ đồ bằng ren đen kéo dài chám đất. Vài phút trước 'tám giờ, William và Matthequ đến với các cụ Ở phòng tiền sảnh. William định nhặt một quả anh đào trên chiếc bánh ga- tô lớn rất đẹp ở giữa bàn thì có tiếng bà nội Kane ở sau lưng.

- Cháu đừng đụng vào đấy, William, không phải dành .cho cháu đâu.

Anh quay ngoắt người lại.

- Vậy thì dành cho ai? - Anh hỏi và hôn ìên má bà nộl.

- Đừng lôi thôi, William. Đừng tưởng lớn thế rồi mà bà không cho mấy cái phát vào đít được đâu.

Bà nội ơi, cháu giới thiệu với bà đây là Matthequ Lester, bạn thân nhất của cháu.

Bà nội Kane giương mục kỉnh lên ngắm nhìn anh ta một lát rồi nói:

Chào cháu.

- Cháu vinh. dự được gặp bà, bà Kane. Cháu tin là bà có biết ông cháu.

Biết ông cháu ư? Calebongquorth Lester ư Trước đây hơn năm mươi năm, ông ấy đã từng hỏi lấy bà nhưng bà từ chối. Bà bảo là ông ấy uống rượu quá nhiều và như thế thì sẽ chết sớm đấy. Wả đúng như bà nói. Vậy hai cháu đừng có uống rượu nhé. Nhớ đấy, rượu làm cho người ta ngu muội đi.

- Chúng cháu. chẳng dám phạm luật ' đâu- Matthequ ra vẻ ngây thơ nói.

- Nhưng rồi chẳng bao lâu nữa, luật sẽ mất giá trị, - Bà Kane nói. - Tổng thống Coolidge đã quên mất những ngày thơ ấu của ông ta rồi. Nếu như cái ông ngốc Harding ấy không chết một cách dại dột thì ông Coolidge này cũng chẳng bao giờ làm Tổng thống được.

William cười.

- Ôi bà nhớ giỏi thật đấy. Trong cả thời gian cảnh sát đình công, có ai nói gì đến ông ta đâu.

Bà Kane không bắt chuyện nữa.

Khách mời đã đến dần. Rất nhiều trong số họ hoàn toàn xa lạ với chủ nhà.

Mấy bà cháu vui mừng thấy Alan Lloyd đến sớm.

- Trông anh khá lắm, William, - Alan lần đầu tiên ngắm kỹ anh và nói.

- Ông cũng thế. Ông đến thật là quý hóa.

- Wý hóa ư? Anh quên rằng giấy mời là của cả hai cụ à? Nếu là một cụ thôi thì tôi có thể lấy hết can đảm từ chối, nhưng cả hai cụ thì....

- Ông cũng thế à? - William cươi. - Tôi muốn nói riêng với ông một câu được không? - Anh kéo ông khách ra một góc. - Tôi muốn có chút thay đổi trong kế hoạch đầu tư, bắt đầu mua chứng khoán của ngân hàng Lester khi nào nó được tung ra thị trường. Tôi muốn là đến khi nào đầy hai mươi mốt tuổi thì đã có năm phần trăm cổ phiếu trong ngân hàng của họ rồi.

Không dễ thế đâu, - Alan nói. - Chứng khoán Lester không mấy khi xuất hiện trên thị trường, vì nó đều nằm trong tay tư nhân cả. Nhưng để tôi xem có thể làm gì được không. Tại sao anh lại nghĩ thế, Wllliam?

Mục đích thật sự của tôi là....

William, - Bà ngoại Cabot bỗng đến bên cạnh. - Cháu âm mưu cái gì với ông Lloyd ở đây nhé? Bà chưa thấy cháu ra nhảy với một cô nào cả. Vậy cháu tưởng bà tổ chức ra cái vũ hội này để làm gì?

Bà nói đúng đấy, - Alan Lloyd nói và đứng dậy. - Mời bà ngồi xuống đây với tôi, bà Cabot, để tôi tống cái cậu này ra ngoài kia. Chúng ta ngồi đây nghỉ, xem cậu ta nhảy, và nghe nhạc vậy.

- Nhạc? Đây không phải là nhạc, Alan. Chỉ toàn những tiếng loảng xoảng inh tai mà không có chút giai điệu nào hết.

- Ôi, bà ngoại yêu quý ơi, - William nói, - Đây là bài hát nổi tiếng mới nhất, bài "Chúng ta không có chuối" đấy Bà ngoại Cabot nhăn nhó:

- Nếu vậy thì đã đến lúc bà từ giã cõi đời này rồi. - Không bao giờ đâu, thưa bà, - Alan Lloyd đỡ lời.

William ra nhảy với vài cô gái mà anh nhớ mang máng là đã gặp ở đâu và không nhớ tên. Trông thấy Matthequ ngồi ở góc phòng, anh tìm cớ thoát khỏi sàn nhảy và ra đó. Đến tận nơi anh mới để ý thấy bên cạnh Matthequ có một cô gái. Thấy cô ta ngẩng lên nhìn mình, William tưởng như mình đến rủn cả người.

- Cậu biết Abby Blount chứ - Matthequ chợt hỏi.

- Không, - William đáp, tay chỉnh lại chiếc ca- vát cho ngay ngắn.

- Đây là chủ nhà của em, ông William Loquell Kane. William ngồi xuống ghế bên cạnh cô gái. Cô ta nhìn theo anh ngồi xuống, vẻ mặt nghiêm nghị. Matthequ đã chú ý đến cái nhìn của William đối với Abby. Anh ta bỏ ra chỗ khác tìm nước quả uống.

- Suốt đời tôi ở Boston mà sao chưa gặp cô bao giờ nhỉ?

- Chúng ta đã gặp nhau một lần rồi. Cái hồi anh đẩy tôi xuống ao ở gần Nhà thị chính ấy. Lúc đó chúng tôi có ba đứa mà. Phải mất mười bốn năm tôi mới hoàn hồn đấy.

Tôi xin lỗi, - William lặng người đi một lúc rồi mới nói lên được. Anh không nghĩ ra câu gì để đáp lại cô ta.

- Anh có ngôi nhà đẹp lắm, William.

Cảm ơn.

Anh lại ngồi im rồi khẽ đáp. Anh liếc nhìn sang Abby, làm ra vẻ như mình không để ý lắm. Cô ta mảnh dẻ, có đôi mắt nâu và to, lông mi dài cong, có nét nhìn nghiêng rất hấp dẫn đối với William. Abby buông thõng mớ tóc hung xuống theo một kiểu mà xưa nay William vốn không thích.

- Matthequ bảo em là sang năm tới anh vào Harvard, - Cô ta gợi chuyện.

- Đúng đấy. Cô muốn nhảy không?

- Cảm ơn, - Cô ta nói.

Những bước chân của anh lúc nãy thoải mái mà bây giờ sao ngượng ngùng thế nào ấy. Anh giẵm cả lên chân cô ta và đưa cô ta đụng vào những người khác. Anh xin lỗi. Cô ta mỉm cười. Anh ôm cô ta lại sát người, rồi hai người lại tiếp tục nhảy.

Bà có biết cái cô gái kia suốt từ nãy chỉ có nhảy với William không? bà ngoại Cabot nghi ngờ hỏi.

Bà nội Kane giương mục kỉnh lên nhìn cô gái đang cùng với William lúc này đi ra ngoài bãi cỏ.

- Abby Blount, - Bà Kane nói.

Tức là cô cháu giá của Đô đốc Blount ấy ư? - Bà ngoại Cabot hỏi.

- Đúng thế.

Bà ngoại Cabot gật đầu có vẻ hài lòng.

Wilham đưa Abby Blount ra tận góc vườn, đứng lại dưới gốc một cây hạt giẻ to ngày xưa anh hay trèo lên đó.

Lần đầu gặp một cô gái nào anh cũng đính hôn cô ta hay sao? - Abby hỏi.

Nói thật tình là anh chưa bao giờ hôn một cô gái nào, - William đáp.

- Thế thì em hân hạnh quá. Abby cười.

Cô ta giơ một bên má hồng cho anh hôn, rồi đến đôi môi mọng đỏ. Liền sau đó đòi anh quay trở vào trong nhà. Hai cụ bà theo dõi thấy họ quay vào sớm mới yên tâm.

Tối hôm đó về phòng ngủ của William, hai anh chàng thanh niên ngồi bàn tán về chuyện vừa qua.

- Cuộc chiêu đãi không đến nỗi nào. - Matthequ nói.- Cũng bõ công mình đi từ New York về cái tỉnh lẻ này, và mặc dầu cậu đã hớt tay trên cô gái của mình.

- Thế cậu tưởng cô ta giúp cho mình mất trinh hay sao?

- William hỏi lại, không để ý đến lời trách đùa của Matthequ.

- Dù sao cậu cũng có ba tuần lễ để tìm hiểu, Nhưng mình e rằng cậu sẽ phát hiện ra cô ta cũng chưa mất trinh, - Matthequ nói. - Theo hiểu biết chuyên môn của mình là như thế. Mình đánh cuộc năm đô- la với cậu là cô ta không đổ trước những lời tán tỉnh của Wilham Loquell Kane.

William tính một kế hoạch cẩn thận. Anh nghĩ mất trinh là một chuyện, còn mất năm đô la với Matthequ lại là chuyện khác. Sau vũ hội, hầu như ngày nào anh cũng gặp Abby Blount, nhân tiện có ngôi nhà riêng của mình và có xe. Anh bắt đầu cảm thấy giá như không có bố mẹ Abby theo dõi và kín đáo kiềm soát cô con gái thì hoạt động của anh đã khá hơn rồi. Cho đến ngày cuối cùng hết hạn nghỉ hè, anh cũng thấy mình chẳng đến gần được mục tiêu hơn chút nào.

Wyết tâm thắng cuộc và lấy năm đô la hôm đó William gửi đến cho Abby một bó hoa hồng từ sáng sớm, rồi đến tối rủ cô ta đi ăn ở nhà hàng Joseph và cuối cùng kéo được cô ta về phòng mình.

- Anh làm sao lại có được chai quhisky như thế này? - Cấm rượu kia mà? - Abby hỏi.

- Ồ, có khó gì lắm đâu, - William khoe.

Thực ra đó là anh đã giấu được một chai rượu buốc- bông của Henry osborne ngay sau khi anh ta rời ngôi nhà này ra đi, và William lấy làm may mà còn giữ đến hôm nay chứ không uống hết.

William rót rượu ra uống. Rượu làm anh suýt sặc và làm Abby chảy cả nước mắt.

Anh ngồi xuống bên cạnh cô ta, quàng tay qua vai. Cô ngả người theo.

Cô ta nhìn anh tha thiết, đôi mắt nâu mở to. Ôi, William, em nghĩ anh cũng hay lắm, - Cô ta vừa thở vừa nói.

Khuôn mặt như búp bê của cô khiến anh không cưỡng nổi. Cô ta để cho anh hôn. Rồi mạnh bạo hơn, William đưa bàn tay lần theo cổ tay của cô lên ngực và dừng lại ở đó như cảnh sát giao thông dừag một đoàn xe vậy. Bỗng cô ta đỏ mặt không bằng lòng và đẩy tay anh xuống, đề cho giao thông tiếp tục bình thường.

- William, anh không nên làm thế.

- Tại sao không? - Wilham nói, vẫn cứ cố ôm chặt lấy cô vì anh không thể biết được nó sẽ kết thúc như thế nào.

- Anh có một ý kiến này hay lắm.

Nhưng trước khi anh nói được câu gì thì Abby đã đẩy lùi anh ra và vội đứng dậy vuốt lại áo.

- Thôi, có lẽ em về nhà đây, William. - Em vừa mới đến mà. Mẹ em sẽ hỏi em làm gì ở đây.

- Thì em bảo là không làm gì cả.

Đúng thế, tốt hơn là không làm gì cả, - Cô ta tiếp lời Nhưng ngày mai anh về rồi. - Anh tránh không nói là về trường.

- Vậy anh có thể viết thư cho em, William.

Không giống như Valentino William biết là khi nào mình thất bại. Anh đứng dậy, chỉnh lại ca- vát cầm tay Abby rồi lái xe đưa cô về nhà.

Hôm sau, trở ìa.i trường, Matthequ Lester nhận của Wladek tờ bạc năm đô la và ngạc nhiên nghe anh nói:

- Cậu mà nói thêm câu gì nữa, Matthequ, là mình sẽ dùng cây gậy dã cầu đánh đuổi cậu chạy quanh trường cho mà coi.

- Mình chả nghĩ ra câu gì mà nói được, trừ mỗi điều là tỏ ra thông cảm với cậu thôi.

- Matthequ, cậu chết với mình nhé! Trong học kỳ cuối năm ở St.Paul, William bắt đầu để ý đến bà vợ Ông chủ nhà chỗ anh ở. Bà ta trông khá đẹp, chỉ có bụng và mông hơi xệ, nhưng bà ta giữ được bộ ngực tuyệt vời và bộ tóc đen sum suê trên đầu chỉ mới có vài sợi bạc. Một hôm vào thử bảy, nhân Wilham bị trẹo tay ở trận khúc côn cầu về, bà Raglan- Đó là tên bà ta- Lấy băng mát ra bó tay cho anh. Bà ta đứng gần hơn mức cần thiết, để tay William cọ vào ngực. Anh thấy cảm giác dễ chịu lắm. Rồi một dịp khác anh bị sốt phải nằm trong trạm xá mấy ngày, bà ta đích thân đem thức ăn đến cho anh. Bà ta ngồi ngay trên giường của anh, người bà cọ vào chân anh qua lần vải mỏng. Anh cũng lấy thế làm thích.
 
Người ta đồn bà ta là vợ thứ hai của ông Raglan. trong cả ngôi nhà ấy, không ai cho là ông Raglan có thể chịu nổi một vợ chứ đừng nói đến hai. Thỉnh thoảng bà Raglan bằng những cái thở dài và bằng im lặng của mình, cho thấy là số phận của bà chẳng sung sướng gì.

Với nhiệm vụ trưởng nhà, mỗi tối vào lúc mười rưỡi là William phải đến báo cáo cho ông Raglan biết anh đã tắt hết đèn và chuẩn bị đi ngủ. Tối hôm thứ hai, lúc gõ cửa buồng ông Raglan như mọi lần, anh ngạc nhiên nghe thấy chỉ có tiếng gõ cửa bà Raglan gọi anh vào Bà ta đang nằm trên chiếc ghế dài và mặc chiếc áo khoác ngoài bằng lụa giống như kiểu áo Nhật.

William nắm tay núm cửa nói:

- Đèn tắt hết rồi, và tôi cũng đã khóa cửa ngoài. Bà Raglan, chúc bà ngủ ngon.

Bà ta thả hai chân xuống đất, thoáng để lộ đùi trần dưới làn áo lụa.

- Sao anh vội thế, Wilham. Lúc nào cũng vội vã khổ sở - Bà bước ra gần bàn nói, - Sao anh không nán lại một lúc, uống sôcôla nóng với tôi đi. Tôi thật dở quá, lại đi làm hai cốc, mà quên mất là ông Raglan phải đến thứ bảy mới về.

Bà ta nhấn mạnh vào chữ thứ bảy. Bà đem một cốc còn đang nóng bốc hơi đến và ngước nhìn lên xem câu nói của mình có tác động gì đến anh không. Bà ta đưa cốc cho anh với một vẻ thỏa mãn, để tay mình chạm vào tay anh. Anh lấy thìa ngoáy cốc sôcôla nóng.

- Ông Gerald nhà tôi đi họp hội nghị - Bà ta giải thích. Lần đầu tiên anh nghe nói đến tên tục của ông Raglan. - Anh ra đóng cửa đi, William, rồi vào đây ngồi với tôi.

William ngập ngừng. Anh ra đóng cửa, nhưng không dám ngồi xuống chiếc ghế của ông Raglan, cũng không ngồi xuống bên bà ta. Sau anh quyết định dù sao ngồi ghế của ông Raglan cũng đỡ hơn. Anh bước ra phía đó.

- Không, không, - Bà ta vừa nói vừa vỗ vào chỗ bên cạnh mình:

Wilham quay lại từ từ ngồi xuống đó, mắt nhìn vào cốc nước để xem đối phó thế nào. Anh uống ực một hơi, bỏng cả lưỡi. Thấy bà Raglan đứng dậy, anh nhẹ người. Bà ta lại rót thêm vào cốc anh, mặc cho anh từ chối, rồi nhẹ nhàng ra góc phòng, lên dây cót chiếc máy hát và cho chạy đĩa hát. Lúc bà ta quay lại anh vẫn còn đang nhìn xuống đất.

- Chẳng lẽ anh để cho phụ nữ nhảy một mình sao William?

Anh nhìn lên. Bà Raglan lắc lư theo điệu nhạc.

William đứng dậy giơ tay ôm lấy bà Nhưng để khoảng cách thật xa. Giá có ông Raglan ở đây mà đứng chen vào giữa cũng còn đủ chỗ. Sau vài nhịp thì bà ta nhích lại gần William hơn. Tay bà từ từ để tuột từ vai xuống lưng anh. Đĩa hát đứng lại, Wilham nghĩ bụng thế là mình thoát và quay lại với cốc sô- cô- la nóng.

Nhưng bà ta đã lộn mặt đĩa hát và trở về ngay trong vòng tay của anh.

Bà Raglan ạ, tôi nghĩ có lẽ là....

- Yên trí đi, Wilham.

Anh mạnh bạo nhìn thẳng vào mắt bà ta. Anh định nói với bà nữa nhưng không biết nói gì. Lúc này bà ta đã sờ lần khắp nơi trên lưng anh và anh cảm thấy đùi bà ta đã nhẹ nhàng cọ vào người mình. - Anh chợt quàng tay ôm chặt lấy bà.

- Đấy như thế tốt hơn, - Bà ta nói.

Họ từ từ đi những bước vòng quanh căn phòng, mỗi lúc ghì chặt lấy nhau hơn. Cứ thế từng bước một, từng bước một cho đến cuối đĩa hát. Lúc bà ta lui người để đi ra tắt đèn thì anh lại muốn bà ta quay lại ngay chỗ mình. Anh đứng trong chỗ tối, không cử động, lắng nghe tiếng lụa sột soạt và trông rõ thấy cả bóng người đang trút bỏ quần áo.

Đến lúc bà ta đến giúp William cởi quần áo của anh và đưa anh trở lại chiếc ghế dài thì bài hát cũng vừa hết, chỉ còn tiếng kim máy hát gại vào đĩa. Trong bóng tối, anh vụng về đưa tay ra sờ vào mấy chỗ trên cơ thể bà ta. Anh cảm thăy nó không đúng như anh đã tưởng tượng. Vừa sờ lên ngực bà ta, anh đã rụt tay lại Anh bắt đầu có những cảm giác tưởng như trước đây nằm mơ cũng không có. Anh muốn rên lên thật to nhưng cố nhịn, không dám thốt ra một lời nào, sợ tỏ ra ngớ ngẩn quá chăng. Hai tay bà ta vẫn vòng lấy lưng anh và nhẹ nhàng kéo anh nằm đè lên mình.

William loay hoay không biết làm thế nào vừa để thực hiện được điều mong muốn vừa không tỏ ra mình thiếu kinh nghiệm. Anh thấy nó không dễ dàng như anh nghĩ, và càng loay hoay càng như vụng thêm. Một lần nữa, bà ta lại đưa tay luồn xuống dưới bụng anh, hướng dẫn anh hành động một cách rất thông thạo.

Nhưng anh cũng lập tức rùng mình rồi rủn cả người.

- Tôi xin lỗi, - William nói. Anh không biết làm gì tiếp theo, nhưng vẫn nằm yên trên bụng bà ta một lúc - Mai sẽ khá hơn, - Bà tá nói.

Anh lại nghe thấy tiếng kim máy hát gại vào đĩa. Suốt cả ngày hôm sau, lúc nào bà Raglan cũng hiện lên trong óc anh. Kết quả là đêm hôm đó bà ta đã thở dài khoan khoái. Sang đêm thứ tư, bà ta hổn hển. Đêm thứ năm, bà ta rên rỉ. Đêm thứ sáu, bà ta hét lên sung sướng.

Đến thứ bảy, ông Raglan đi họp hội nghị về, thì lúc đó coi như William đã hoàn thành những bài học của anh về môn ấy.

Đến cuối kỳ nghỉ lễ Phục sinh, vào ngày lễ thăng thiên, thì Abby Blount coi như đã bị William chinh phục. Thế là Matthequ mất năm đô la, còn Abby thì mất trinh. Theo bà Raglan nói thì đó chẳng qua là một hiện tượng không tránh khỏi. Trong suốt kỳ nghỉ chỉ có mỗi chuyện đó xảy ra thôi, vì Abby đã đi theo bố mẹ về nghỉ ở Palm Beach, còn Wilham thì đóng cửa chúi đầu vào sách vở, chỉ thỉnh thoảng mới gặp hai cụ bà và Alan Lioyd. Còn ít tuần nữa là đã thi tốt nghiệp. Ông Raglan không đi họp hội nghị Ở đâu nữa và William cũng không có hoạt động nào khác được.

Trong những ngày cuối học kỳ, anh với Matthequ ngồi yên trong phòng học hàng giờ, không ai nói với nhau trừ phi Matthequ có vài vấn đề về toán không giải được. Cuối cùng, kỳ thi mong đợi từ lâu đã đến.

Tất cả chỉ có một tuần lễ mà họ gọi là "tàn bạo". Thi xong rồi, cả hai anh chàng sốt ruột chỉ muốn biết ngay kết quả. Nhưng rồi họ chờ hết ngày này sang ngày khác, mãi chẳng thấy gì, đâm ra không còn tin ở chính mình nữa. Học bổng Hamilton về toán để vào trường Harvard được cấp trên một cơ sở rất chặt chẽ, mà học sinh ở toàn nước Mỹ đều có quyền được nhận học bổng ấy. William không biết thế nào mà xét đoán được xem địch thủ của mình tài giỏi đến đâu. Thời gian tiếp tục trôi qua mà không nghe thấy nói gì, William bắt đầu nghĩ có lẽ mình thất bại.

Hôm đó William đang ở ngoài bãi chơi dã cầu với những học sinh lớp dưới, coi như giết nốt thì giờ của những ngày cuối cùng trước khi rời trường, thì có một bức điện gửi đến. Những ngày cuối cùng ở trường này thường có rất nhiều học sinh bị đuổi học hoặc vì say rượu, hoặc vì đập vỡ cửa kính, thậm chí vì tìm cách ngủ với con gái và vợ của các thầy giáo.

quilham đang khoe là anh sẽ thắng trong trận dã cầu này với mức chưa từng có từ trước đến nay và mọi người đang cười đùa trước lời tuyên bố quá đáng của anh thì người ta đưa vào tay cho anh bức điện ấy.

Anh quên hết ngay mọi thứ, vứt bỏ cây gậy dã cầu xuống, và đưa tay xé chiếc phòng bì nhỏ màu vàng.

Mọi người chung quanh hồi hộp chờ anh đọc bức điện. Matthequ bước đến nhìn nét mặt William xem đó là tin mừng hay tin buồn. Nét mặt vẫn bình thản, William đưa bức điện cho Matthequ xem. Vừa đọc xong, Matthequ đã nhảy cẫng lên, quẳng bức điện xuống đất rồi ôm lấy William chạy vòng quanh sân.

Một người khác bước đến nhặt bức điện lên xem rồi chuyền tay nhau cho đến người cuối cùng xem bức điện lại chính là người đã đem nó đến lúc nãy. Anh ta đã không được cảm ơn thì chớ, mà còn là người cuối cùng được biết nội dung bức điện.

Đó là điện gửi cho William Loquel Kane. Trong đó viết:

Chúc mừng anh được hưởng học bổng Hamilton về toán vào trường đại học Harvard. Chi tiết sẽ gửi sau.

Tu víện trưởng Laqurence Loqueìl, Chủ tịch.

Matthequ sung sướng nhìn người bạn thân nhất của mình nay đã thành công, nhưng anh cũng hơi buồn nghĩ đến bây giờ lại phải xa nhau. William cũng cảm thấy nhưng không nói gì. Hai người lại phải chờ chín ngày nữa mới được biết là Matthequ cũng trúng tuyển vào trương Harvard.

Liền đó có một bức điện khác gửi đến, lần này là của ông Charles Lester chúc mừng con trai và mời cả hai anh chàng về dự tiệc trà tại Khách sạn Plaza ở New York. Cả hai cụ bà cũng có điện chúc mừng William, tuy nhiên bà nội Kane cũng nói với Alan Lloyd rằng thằng bé đã làm được không ít hơn cái người ta mong muốn ở nó và không nhiều hơn cái mà bố nó đã làm được trước kia.

Vào ngày hẹn, hai chàng thanh niên tung tăng đi trên Đại lộ Năm, trong lòng hết sức tự hào. Các cô gái đi qua đường nhìn vào họ nhưng họ làm như không để ý Bước vào cửa khách sạn Plaza, họ đàng hoàng đi đến phòng lớn bên trong có mọi người trong gia đình đang chờ đón. Hai cụ nội ngoại Kane và Cabot ngồi ở mấy chiếc ghế bành giữa phòng. Bên cạnh đó có một bà già nữa William cho đó là bà nội của Lester, giống như bà nội Kane của mình. Rồi có ông bà Charles Lester, có cô con gái Susan (cô ta chẳng lúc nào rời mắt khỏi William) và có Alan Lloyd. Còn hai ghế trống để đó chờ William và Matthequ.

Bà nội Kane vẫy gọi một người hầu đứng gần đó nói:

- Một ấm trà mới và đem thêm bánh đến nữa nhé.

Người hầu chạy vội vào bếp đem trà và bánh ra ngay.

- Cha cháu còn sống thì hôm nay sẽ rất tự hào về cháu đó, William, - Một người lớn tuổi nói.

Người hầu đứng đó không hiểu anh chàng thanh niên kia đã làm được cái gì mà người ta phải khen như vậy.

William thì không để ý gì lắm đến người hầu, trừ có chiếc vòng bạc anh ta đeo ở cổ tay. Anh đoán có lẽ chiếc vòng bạc ấy là từ nhà hàng Tiphphany mà ra, nhưng anh lấy làm lạ tại sao người hầu kia lại có được một thứ đồ trang sức giá trị như thế.

William, - Bà nội Kane nói. - ăn hai bánh là đủ rồi. Đây không phải là bữa ăn cuối cùng trước khi vào trường Harvard đâu.

Anh quay nhìn bà nội một cách âu yếm, nhưng rồi chợt quên đi chiếc vòng bạc kia.
° ° °
Đêm đó Abel nằm trong căn phòng nhỏ của anh ở khách sạn Plaza không ngủ được. Anh nghĩ đến người con trai có tên là William mà người ta bảo là nếu cha còn sống thì sẽ tự hào về anh ta ấy. Tự nhiên anh cũng thấy đó chính là điều anh muốn thực hiện. Anh muốn được người ta coi mình là ngang hàng với những người như William trên đời này.

Từ khi đến New York, Abel đă phải trải qua một cuộc vật lộn gay go. Anh về ở một căn phòng chỉ có hai giường, thế nhưng anh lại phải ở chung với George và hal người anh em họ khác nữa của George.

Kết quả là Abel chỉ có thể được ngỉ khi nào một trong hai chiếc giường ấy không có người. Ông chủ của George không sao có việc làm cho Abel được. Sau mấy tuần lễ rất lo lắng vì tiêu gần hết số tiền tiết kiệm mà chưa tìm được việc gì mặc dầu phải chạy đi chạy lại từ Brooklyn sang vùng Weens cuối cùng anh xin được một chỗ ở cửa hàng thịt. Họ trả cho anh chín đô la một tuần làm việc sáu ngày rưỡi và chỉ cho anh được nằm ngoài hiên. Cửa hàng đó nằm giữa một khu cộng đồng người Ba lan nhỏ bé và nghèo ở phía Đông thành phố. Abel bắt đầu lấy làm sốt ruột với tính cách sống biệt lập của đồng bào anh ở đây, trong số đó còn có rất nhiều người không chịu học tiếng Anh.

Abel vẫn thường thấy George cứ mỗi ngày cuối tuần lại đi với các bạn gái, hết cô này đến cô khác.

Riêng anh, hầu hết các tối trong tuần đều đi học trường đêm để nâng cao khả năng viết và đọc tiếng Anh. Anh không lấy làm xấu hổ về chuyện mình học chậm, vì từ hồi tám tuổi đến giờ anh có dịp nào được học nữa đâu. Trong hai năm, anh đã trở nên thông thạo với ngôn ngữ mới này, hầu như khi nói ra không còn ngượng ngịu mấy nữa. Anh cảm thấy mình đã sẵn sàng đi khỏi cửa hàng thịt này rồi. Nhưng đi đâu? Và đi cách nào? Bỗng một hôm trong khi đang chuẩn bị một cái chân cừu cho khách, anh thoáng nghe thấy một trong những khách hàng quen là người chuyên cung cấp lương thực cho khách sạn Plaza phàn nàn với chủ hàng là ông ta sẽ phải đuổi một người phục vụ trẻ vì anh ta ăn cắp vặt. Ông ta nói:

Gấp quá, tôi biết tìm đâu ra người thay bây giờ được? Chủ hàng không biết giúp ông ta giải quyết thế nào. Nhưng Abel thì biết ngay. Anh khoác bộ quần áo duy nhất của mình vào, đi bộ suốt bốn mươi bảy khối? phố và qua năm quãng đường nữa vào thành phố nhận công việc nói trên.

Một khi yên thân ở Plaza rồi, anh ghi tên vào một lớp học đêm Anh ngữ cấp cao ở trường Đại học Columbia. Đêm nào anh cũng học rất đều, một tay mở từ điển, một tay viết lia lịa. Mỗi buối sáng, giữa giờ phục vụ ăn sáng và bày bàn cho bữa trưa, anh tranh thủ chép những bài xã luận của Thời báo New York, mỗi khi gặp từ nào không chắc chắn thì lại giở cuốn từ điển Webster cũ ra xem.

Ba năm sau đó, Abel leo dần lên các cấp phục vụ trong khách sạn Plaza cho đến lúc anh được cử vào phục vụ trong phòng Gỗ Sồi, hưởng lươmg mỗi tuần hai mươi lăm đô la với những khoản khách cho thêm.

Trong cuộc sống riêng của mình, Abel không còn thiếu gì nữa.

ông thầy dạy Abel có ấn tượng tốt với những tiến bộ cúa anh, đã khuyên Abeln học thêm lớp ban đêm nữa để chuẩn bị thi lấy bằng Tú tài văn chương. Lúc rỗi rãi anh chuyển từ chỗ đọc những bài báo về ngôn ngữ sang đọc những bài về kinh tế, rồi bắt đầu chép riêng ra những bài trong Nhật báo phố Wall chứ không chép những bài trong Thời báo nữa. Cái thế giới mới này đối với anh hết sức hấp dẫn. Anh bị cuốn hút vào đó đến mức, ngoại trừ George, còn bao nhiêu những bạn Ba lan cũ trước đây anh không gặp họ được vào lúc nào nữa.

Trong khi phục vụ Ở khách sạn Plaza, anh vẫn luôn luôn nghiên cứu tìm hiểu về những người nổi tiếng như các gia đình Baker, Loeb, Whitney, Morgan và Phelp, và cố hình dung được tại sao người giàu lại khác với mọi người như vậy. Anh đọc H.L.

Mencken, đọc báo Mercury Mỹ, đọc Scott Phitzgerald, Sinclair Lequis, và Theodore Dreiser để có thêm kiến thức càng nhiều càng tốt. Anh đọc kỹ tờ Thời báo New York trong khi những người phục vụ khác chỉ liếc qua tờ Tấm gương. Anh đọc tờ Nhật báo phố Wall vào giờ nghỉ trong khi những người khác ngủ và ngủ gật. Anh không biết là những kiến thức mới này sẽ đưa anh đến đâu, nhưng anh không một lúc nào nghi ngờ câu châm ngôn của Nam tước đã nói với anh rằng không gì có thể thay thế được cho việc học hành tử tế.

Vào một ngày thứ năm của tháng Tám năm 1926 - Anh nhớ rất kỹ ngày này vì hôm đó Rudolph Valention qua đời và rất nhiều bà đi mua sắm trên Đại lộ Năm đều mặc đồ đen để tang anh ta- Abel đang phục vụ như mọi ngày thường ở một chiếc bàn góc phòng. Những bàn ở góc phòng bao giờ cũng dành cho các nhà kinh doanh lớn họ thường ngồi ăn một cách kín đáo và nói chuyện riêng không ai nghe thấy được Anh thích phục vụ Ở cái bàn đặc biệt này, vì đây là khu vực người ta bàn chuyện mở rộng kinh doanh và qua những mẩu chuyện anh thoáng nghe được của họ thường có những thông tin rất quý. Sau khi họ ăn xong, nếu khách là người của một ngân hàng hay một công ty cổ phần lớn, Abel sẽ tìm cách kiểm tra giá cổ phiếu của những công ty ấy. Nếu giọng điệu của những ông khách này trong khi nói chuyện có vẻ lạc quan, thì anh sẽ đầu tư một trăm đô la vào công ty nào nhỏ hơn với hy vọng sẽ được công ty to hơn vực lên. Nếu vào cuối bữa ăn mà ông khách gọi mang xì gà đến, Abel sẽ tăng tiền đầu tiên lên hai trăm đô la.
 
Cứ mười lần thì có đến bảy lần giá cổ phiếu anh chọn theo kiểu đó chỉ trong sáu tháng đã tăng lên gấp đôi, cũng tức là thời gian Abel bám lấy chứng khoán.

Trong bốn năm làm việc ở khách sạn Plaza và làm theo cách đó, anh chỉ mất tiền có ba lần thôi.

Trong việc phục vụ hôm nay, anh thấy có một điều rất không bình thường ở cái bàn góc phòng này là khách đã gọi xì gà ngay từ trước bữa ăn. Abel nhìn vào sổ ghi khách đặt bàn trước thấy có tên là Woolquorth. Abel đã thấy trong những chương mục về tài chính trên báo chí gần đây có nói đến tên ông ta nhưng anh không xác định ngay được. Còn ông khách cùng ngồi kia là Charles Lester, khách thường xuyên của Plaza và là một nhà ngân hàng có cỡ ở New York.

Trong khi phục vụ bữa ăn, anh cố nghe xem họ nói chuyện gì. Khách thì hoàn toàn không quan tâm gì đến người phục vụ mặc dầu anh ta tỏ ra chú ý nghe họ bàn bạc. Abel không thể phát hiện được chi tiết gì quan trọng, nhưng anh biết được loáng thoáng là sáng hôm đó kết thúc một vụ làm ăn và đến cuối ngày người ta sẽ công bố. Anh chợt nhớ ra. Anh đã đọc thấy tên ông này trên tờ Nhật báo phố Wall. Woolquorth chính là con người có ông bố đã từng lập ra cửa hàng đầu tiên nổi tiếng là chỉ bán những thứ từ năm đến mười xu. Ra bây giờ người con định đi quyên vốn để mở rộng hệ thống cửa hàng ấy. Khi khách đang ăn tráng miệng - Phần lớn khách đều chọn thứ bánh dâu phó mát (do Able gợi ý) - Anh tranh thủ ra ngoài phòng ăn một lúc để gọi điện cho đại lý của anh trên phố Wall.

ông Woolquorth đang buôn bán gì ấy nhỉ? - Anh hỏi Đầu dây đằng kia im lặng một chút rồi nói:

- Cổ phiếu thôi. Gần đây hoạt động lắm, không rõ tại sao.

vào cuối ngày hôm nay nếu nghe thấy công ty thông báo thì anh lấy tài khoản của tôi ra mua nhé.

- Họ sẽ thông báo gì?- Anh đại lý không hiểu hỏi lại.

- Lúc này chưa tiết lộ được, - Abel đáp.

Anh đại lý chột dạ. Xưa nay anh ta vẫn biết là chớ hỏi kỹ về những nguồn tin của khách hàng. Able vội trở về Phòng Gỗ Sồi, vừa kịp để đem cà phê lên cho khách. Họ còn ngồi nán lại một lúc và chỉ đến lúc họ chuẩn bị ra về thì Abel mới quay lại bàn đó. Ông cầm biên lai cảm ơn Abel về việc anh phục vụ chu đáo.

ông ta quay sang ông bạn rồi hỏi anh, - Này, cậu em có muốn tiền thưởng không nào?

- Dạ, cảm ơn ông, - Abel nói.

- Vậy thì cậu em nên mua cổ phiếu Wooquorth. Hai người khách phá lên cười. Abel cũng cười, cầm lấy năm đô la ông khách chìa ra cho và cảm ơn ông ta.

Trong sáu tuần sau đó, anh kiếm được 2.412 đô la lợi nhuận từ cổ phiếu Woolquorth mà ra.

Mấy ngày sau sinh nhật thứ hai mươi mốt của anh, Abel được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ và anh quyết định nhân dịp này phải tổ chức liên hoan chiêu đãi.

Anh mời George với Momka đến dự. Momka là người tình mới nhất của George. Ngoài ra còn có một cô gái tên là Clara, người tình cũ của George. Anh rủ họ đi xem John Barrymore trong phim Don Juan, sau đó đến nhà hàng Bingo ăn tối. Hồi này, George vẫn chỉ là thợ tập việc trong lò bánh của ông chú anh ta với lương tám đô la một tuần. Mặc dầu vẫn coi George là bạn thân nhất, nhưng Abel hiểu là giữa hai người đã có sự khác biệt vì George là một anh rỗng túi còn Abel thì đã có trên tám nghìn đô la gửi ngân hàng và bây giờ đang là học sinh năm cuối của trường Đại học Columbia chuẩn bị thi tú tài về kinh tế. Abel biết là mình đang đi đến đâu, còn George thì bây giờ không dám mở miệng nói với ai rằng mình sẽ là thị trưởng New York nữa.

Bốn người có một tối liên hoan rất vui, nhất là do Abel biết ăn ở chỗ nào ngon. Ba người bạn kia được một phen chén thỏa thích. Khi nhà hàng đưa biên lai ra, George hoảng sợ thấy số tiền của bữa đó nhiều hơn lương tháng của anh ta. Abel trả tiền một cách thản nhiên, coi như số tiền đó chả nghĩa lý gì. Vả lại, nếu đã không chịu được thế thì vào nhà hàng làm gì.

Coi như không, đừng nói gì hoặc đừng tỏ ra ngạc nhiên, đó là điều những người giàu có đã dạy cho anh biết như thế.

Đến tận hai giờ sáng cuộc liên hoan mới kết thúc. George và Monika trở về phía Đông cuối thành phố, còn Abel thì thấy mình được hưởng cô Clara. Anh đưa cô ta vào phía cửa sau khách sạn Plaza qua thang máy chuyên chở đồ giặt rồi đưa về phòng anh trong đó Cô ta không chờ phải giục giã mới trèo lên giường và Abel cũng vội vã vào nằm ngay với cô ta để còn ngủ một chút sáng mai dậy sớm làm việc. Anh lấy làm hài lòng đã hoàn thành nhiệm vụ với cô ta vào lúc hai giờ rưỡi sáng. Anh nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến sáu giờ thì chuông đồng hồ gọi dậy. Lúc đó anh vẫn còn đủ thì giờ hành động với Clara một lần nữa trước khi đứng dậy mặc quần áo.

Clara ngồi trên giường phụng phịu nhìn Abel thắt ca vát rồi hôn cô một cái tạm biệt.

- Em nhớ lúc ra về cũng bằng lối cửa lúc vào đấy nhé, kẻo lôi thôi cho anh lắm đấy, - Abel nói. - Bao giờ thì gặp lại em?

- Anh không gặp lại đâu, - Clara lạnh lùng đáp.

Tại sao thế? - Abel ngạc nhiên hỏi - Anh làm gì đâu?

- Không, chính là cái anh không làm ấy chứ. - Cô ta nhảy xuống giường và vội vã mặc áo vào.

- Cái gì anh không làm?- Abel hỏi. - Em muốn đi ngủ với anh kia mà, không phải thế à?

Cô ta quay lại. nhìn thẳng vào anh.

Đúng là em muốn thế, nhưng về sau mới biết là anh với Valentino cũng chả khác gì nhau, nghĩa là cả hai cùng chết rồi. Anh có thể là của quý của khách sạn Plaza vào những lúc người ta đói ăn, nhưng ở trên giường thì anh chẳng là cái gì hết. - Mặc xong quần áo, cô ra cửa còn nắm lấy tay vịn và ngoái lại nói:

- Có lẽ anh chưa thuyết phục được cô nào đi nằm với anh phải không?

Rồi đóng sầm cửa lại. Abel đứng ngớ người. Suốt ngày hôm đó, anh băn khoăn về câu nói của Clara.

Anh không thể tìm được một ai để bàn vấn đề này. Có nói với George chỉ tổ cho anh ta cười thêm. Còn nhân viên khách sạn Plaza thì ai cũng tưởng anh biết đủ mọi thứ. Anh hiểu rằng vấn đề này, cũng như các vấn đề khác anh đã gặp trên đường đời, đều có thể vượt qua được miễn là mình hiểu biết và có kinh nghiệm.

Sau bữa trưa được nghỉ nửa ngày, anh tìm đến hiệu sách Scribner ở Đại lộ Năm. Trước đây cửa hàng này đã giúp anh giải quyết được nhiều vấn đề về kinh tế và ngôn ngữ, nhưng anh không tìm ra được cái gì có vẻ như giúp anh giải quyết được những vấn đề về tình dục. Các nhãn sách đều chẳng nói được gì, vài cuốn gọi là Khó xử về tinh thần thì hoàn toàn không thích hợp.

Abel bỏ hiệu sách đi ra, không mua gì, và cả buổi chiều la cà trong một nhà hát bẩn thỉu ở đường Broadquay, không xem chiếu bóng mà chỉ lẩn quẩn suy nghĩ về điều Clara nói lúc sáng. Cuốn phim đang chiếu là một chuyện tình có Greta Garbo đóng, mãi đến cuối phim mới có cảnh hôn hít, thành ra cũng chẳng giúp đỡ gì hơn được cho anh so với hiệu sách Scribner.

ở rạp chiếu bóng ra thì trời đã tối. Ngoài đường đang có gió lạnh. Abel lấy làm lạ thấy về đêm đường phố này cũng ồn ào và nhiều đèn sáng như ban ngày vậy Anh bắt đầu đi bộ lên đường 59, hy vọng gió mát sẽ làm cho đầu óc mình tỉnh táo hơn chút ít. Anh dừng lại ở góc đường 52 để mua tờ báo buổi chiều.

- Tìm gái hả? - Một giọng nói ở góc đường bên quầy bán báo lên tiếng.

Abel ngẩng lên nhìn. Bà ta chừng ba mươi lăm tuổi mặt bự phấn sáp, môi bôi một thứ son kiểu mới.

Chiếc áo lụa trắng có một khuy đã cởi sẵn. Bà ta mặc váy đen, giầy và tất cũng đen.

- Chỉ năm đô la thôi, mất xu nào đáng xu ấy, bà ta nói và vẹo mông sang một bên để hở một đường bên váy lên đến tận bẹn.

- Ở đâu? - Abel hỏi.

- Có nhà riêng ở gần đây.

Bà ta hất đầu chỉ cho Abel biết là hướng nào. Lần đầu tiên, Abel trông thấy rõ mặt bà ta dưới ánh đèn đường Bà ta cũng không phải không hấp dẫn. Abel gật đầu đồng ý. Bà ta cầm lấy tay anh ta rồi hai người cùng đi.

- Nếu bị cảnh sát giữ thì anh bảo là bạn cũ và tên tôi là Joyce nhé, - Bà ta nói.

Họ đi đến đầu phố rồi vào một ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu có nhiều buồng cho thuê. Abel kinh sợ thấy phòng bà ta nhếch nhác quá. Tất cả bên trong chỉ có một bóng đèn trần, một chiếc ghế, một chậu rửa mặt với một chiếc giường đôi ọp ẹp mà hình như trong ngày hôm đó đã được dùng đến nhiều lần.

- Chị Ở đây à? - Anh ngần ngại hỏi.

- Trời ơi, không đâu. Chỗ này chỉ để làm ăn thôi.

- Tại sao chị làm chuyện này? - Abel hỏi, trong bụng nghĩ không biết mình có nên tiếp tục kế hoạch này không.

- Tôi phải nuôi hai đứa con, mà chồng thì không có.

Anh bảo còn cách nào khác nữa? Nào, anh có muốn hay không đây?

- Có nhưng không phải như chị nghĩ, - Abel nói.

Bà ta nhìn anh chột dạ.

- Anh không phải cái đám chuyên hành hạ người ta như Hầu tước de Sade đấy chứ Chắc chắn là không rồi, - Abel nói.

- Anh không châm thuốc lá vào người tôi chứ?

- Không, không có chuyện đó đâu, - Abel giật mình đáp - Tôi muốn được chỉ bảo tử tế. Tôi muốn học.

- Học? Anh nói đùa đấy à? Anh bạn thân mến, dễ anh tưởng đây là trường đêm chuyên dạy về ngủ với gái sao?

Đại khái như vậy, - Abel nói và ngồi xuống góc giường, nói lại cho bà ta nghe đêm trước Clara đã phản ứng với anh thế nào. Chị xem có thể giúp tôi được không?

Người đàn bà kia nhìn Abel một lúc lâu, tự hỏi không biết anh chàng này có định bịp mình không.

- Được thôi, - Bà ta nói. - Nhưng cứ mỗi buổi ba mươi phút là anh sẽ mất năm đô la đấy.

Đắt hơn bằng tú tài Columbia, - Abel nói. - Tôi cần học mấy bài tất cả?

Còn tùy ở chỗ anh học nhanh hay chậm chứ, - Bà ta nói.

- Được, ta bắt đầu luôn đi, - Abel nói và rút trong túi ra năm đô la. Anh đưa tiền cho bà ta. Bà ta nhét tiền vào trong bít tất. Như vậy rõ ràng là bà ta sẽ không cởi cả tất ra nữa.

Cởi quần áo ra, anh bạn, - Bà ta nói. "Mặc cả quần áo thế này thì chẳng học được gì đâứ.

Anh cởi ra rồi, bà ta nhìn ngắm anh bằng con mắt thông thạo. "Anh không phải như Douglas Phairbanks phải không nào? Nhưng thôi, anh đừng lo. Tắt đèn đi rồi thì người anh thế nào cũng không quan trọng nữa. Cái quan trọng là anh có thể làm được gì cơ".

Abel ngồi xuống cạnh giường. Bà ta bắt đầu giảng giải cho anh biết là phải làm những gì đối với người đàn bà. Bà ta lấy làm lạ không những Abel không tỏ ra thèm muốn gì mình, mà lại còn ngạc nhiên thấy hai tuần sau đó ngày nào anh cũng đến rất đều.

Bao giờ thì tôi biết mình học xong? Abel hỏi.

- Rồi anh sẽ biết, - Joyce đáp. - Nếu anh làm cho tôi sướng được thì đến một cái xác ướp Ai cập anh cũng làm cho sướng được.

Bà ta dạy cho anh biết đâu là nhưng chỗ nhạy cảm trên cơ thể người đàn bà, và bảo anh phải biết kiên nhẫn trong khi làm tình. Những dấu hiệu như thế nào khiến anh có thể biết được là anh làm cho người ta thỏa mãn, vân vân. Abel nghe rất kỹ và làm theo từng cái bà ta dặn. Lúc đầu anh có hơi máy móc, nhưng bà ta đảm bảo rồi anh sẽ thành công không thể tưởng tượng được. Wả nhiên, đến tuần thứ ba và sau khi đã mất đến 110 đô la, anh thấy chính mình đã có thể làm cho người đàn bà Joyce này trở nên sống động và háo hức trong vòng tay của mình. Lần đầu anh nghe thấy tiếng rên rỉ của Joyce và cảm thấy sung sướng môt cách lạ kỳ. Bà ta cứ bấu chặt lấy anh rên rỉ hoài, lúc to lúc nhỏ cho đến lúc bà ta phải hét lên rồi buông tay ra, rã rời.

- Anh bạn ơi, thế là anh đô thủ khoa rồi đấy nhé.- Thở được rồi, bà ta nói. Nhưng chính Abel thì chưa thấy gì.

âbel tốt nghiệp cả hai bằng. Anh tự thưởng cho mình bằng cách rủ cả mấy người, George, Monika và Clara nữa, đi xem trận đấu quyền Anh hạng vô địch thế giới giữa Gene Amney với Jack Dempsey và mua vé hạng nhất. Đêm đó, sau khi xem trận đấu rồi, Clara miễn cưỡng làm cái bổn phận đi nằm với Abel vì anh đã chi cho cô khá nhiều tiền. Nhưng đến sáng hôm sau thì chính Clara lại cầu khẩn Abel là đừng có bỏ cô ta. - Mặc dầu vậy, Abel không bao giờ rủ cô ta đi nữa.

Tốt nghiệp đại học Columbia rồi, Abel cảm thấy không hài lòng với cuộc sống ở khách sạn Plaza. Tuy nhiên, anh chưa hình dung được mình sẽ tiến lên nữa như thế nào. Mặc dầu anh đã phục vụ một số trong những người giàu nhất và thành công nhất ở Mỹ, nhưng anh chưa hề bao giờ dám nói chuyện trực tiếp với những người đó, vì anh sợ làm như thế có thể mất việc như chơi. Dù sao, anh nghĩ các vị khách đến ăn ở đây sẽ chẳng ai thực sự quan tâm đến nguyện vọng của một người hầu bàn. Abel quyết chí mình sẽ trở thành một người đứng đầu những tay phục vụ bàn.

Một hôm có ông bà Ellsquorth Statler đến ăn trưa ở Phòng Edquard trong khách sạn Plaza là nơi Abel đang làm thay người khác một tuần. Anh nghĩ bụng vận may của mình đã đến. Anh làm mọi cách để có thể gây ấn tượng cho nhà chủ và bữa ăn hôm đó thật là tuyệt Lúc ra về, ông Statler cảm ơn Abel một cách nồng nhiệt và cho anh mười đô la. Nhưng rồi chỉ thế là hết. Abel nhìn theo khách đi ra phía cửa ngoài khách sạn, không biết làm thế nào nữa.
 
Sammy, người đứng đầu những tay hầu bàn, vỗ vào vai anh hỏi:

- Ông StaUer cho cậu gì đấy?

- Ông ấy khống cho thưởng tiền ư - Sammy nghi ngờ hỏi.

- Ồ có chứ, - Abel nói. - Mười đô la. - Anh đưa tiền cho Sammy.

- Khá đấy nhỉ, - Sammy nói. - Tớ đã tưởng cậu định loè tớ, Abel. Mười đô la, với ông Statler như thế cũng là tất lắm đấy. Có lẽ cậu đã làm cho ông ta phải cảm động.

- Không tôi có làm gì đâu.

Cậu nói thế là sao?- Sammy hỏi.

- Nhưng thôi, không quan trọng. - Abẹl đáp và định bỏ đi.

- Khoan đã, Abel, có mẩu giấy này cho cậu đây.

ông khách ở bàn mười bảy, ông Leroy muốn nói chuyện riêng với cậu đấy.

Về cái gì thế, Sammy?

Ai mà biết? Có lẽ ông ta thích đôi mắt xanh của cậu chăng..

Abel liếc nhìn ra bàn 17. Bàn đó chỉ dành cho những khách hiền lành không đòi hỏi gì và là khách vô danh nữa. Vị trí của chiếc bàn gần ngay cửa ra vào bếp. Abel thường tránh không phục vụ bất cứ bàn nào ở cuối phòng.

- Ông ta là ai thế Abel hỏi. - Ông ta muốn gì?

Tớ không biết, - Sammy nói và cũng không buồn ngẩng lên. - Tớ không quen tìm hiểu về lịch sử đời sống của khách như cậu. Cho họ ăn tử tế, yên trí có tiền thưởng càng nhiều càng tốt rồi mong họ trở lại nữa, thế thôi. Cậu có thể cho đó là triết lý đơn giản, nhưng với tớ thế là tốt lắm rồi. Có lẽ ở Columbia họ quên không dạy cho cậu những cái cơ bản. Thôi, cậu ra đó đi, Abel, và nếu được tiền thưởng thì mang ngay về đây Abel nhìn vào cái đầu hói của Sammy, cười rồi bước đến bàn 17. Có hai người đang ngồi ở đó. Một người mặc chiếc áo ngoài sặc sỡ mà Abel không thích lắm, người kia ìà một cô gái khá xinh đẹp có mớ tóc vàng xoăn mà anh đoán là bồ của ông khách và trong bụng nghĩ thế nào cũng được nghe khách phàn nàn về chuyện cái cửa ra vào gần bếp, đòi phải đưa bàn đi chỗ khác để làm oai với cô gái tóc vàng kia. Không ai thích ngửi cái mùi trong bếp xông ra và những người phục vụ đi ra đi vào khiến cánh cửa bật thình lình liên tiếp. Nhưng cũng không thể không dùng đến chiếc bàn đó, vì khách sạn thì rất đông người ở, mà những người New York vốn đã ăn quen ở đây rồi hễ thấy nglrời lạ không bằng lòng. Tại? sao Sammy lại để anh phải đối phó với những khách có vẻ khó chơi như thế này? Abel từ từ bước đến bên người khách mặc áo sặc sỡ - Thưa ông muốn nói với tôi ạ?

- Đúng thế, - Ông ta đáp bằng một giọng miền Nam.- Tên tôi là Davis Loroy, còn đây là con gái tôi, Melame.

Abel quay sang nhìn đôi mắt xanh của cô ta, một đôi mắt anh chưa từng thấy bao giờ.

- Trong năm ngày qua, Abel, tôi đã quan sát anh rất kỹ, - Ông Leroy nói tiếp với giọng miền Nam lê thê ấy.

Nếu ai hỏi vặn lại thì Abel sẽ phải thừa nhận rằng anh chưa bao giờ để ý đến ông Leroy mà chỉ cách đây năm phút mới biết.

- Tôi rất có ấn tượng về những gì đã trông thấy, Abel, vì xem ra anh là người có hạng, có hạng thật sự, mà tôi thì vẫn chú ý đến những người như vậy.

Ellsoqurth Statler không chọn những người như anh thì thật là ngốc.

Abel bắt đầu nhìn anh Leroy kỹ hơn. Đôi má đỏ hồng và chiếc cằm bạnh của ông ta khiến Abel nghĩ ông ta không biết cấm rượu là gì. Những đĩa thức ăn trước mặt đã ăn sạch chứng tỏ ông ta ăn cũng rất khỏe. Nhưng cái tên đó của ông ta, bộ mặt của ông ta, như không có nghĩa gì với anh cả. Nếu là bữa ăn trưa bình thường, thì Abel đã có thể rất biết kỹ về lý lịch của bất cứ ai ngồi ở ba mươi bẩy trong số ba mươi chín chiếc bàn trong phòng Edquard rồi. Nhưng hôm đó bàn ông Leroy ngồi lại là một trong hai bàn mà anh không biết.

Vẫn cái giọng miền Nam cất lên.

Tôi không phải là một trong những nhà đại triệu phú thường đến ngồi ở mấy chiếc bàn trong góc của anh mỗi khi họ đến Plaza đâu nhé.

Abel ngạc nhiên. Nếu là khách bình thường thì không ai có thể biết giá trị của những bàn khác nhau trong phòng ăn này.

- Nhưng tôi làm ăn cũng không đến nỗi tồi đâu. Thực ra, một ngày kia khách sạn của tôi cũng sẽ có thể gây ấn tượng tốt được như khách sạn này, Abel.

Tôi tin chắc như vậy, thưa ông, - Abel nhẩn nha đáp.

Leroy, Leroy, Leroy. Cái tên này sao không nói lên điều gì nhỉ.

Để tôi nói thẳng cho anh biết nhé. Khách sạn đầu đàn trong số những khách sạn của tôi cần có một người phó quản lý mới phụ trách nhà ăn. Nếu anh quan tâm đến điều đó thì khi nào xong việc anh lên phòng gặp tôi.

ông ta đưa cho anh một tấm thiếp dầy.

- Xin cảm ơn ông - Abel nói và nhìn vào thiếp:

Davis Leroy. Công ty khách sạn Richmond, Dallas. Ở dưới có khẩu hiệu:

Một ngày kia mỗi bang có một khách sạn. Abel vẫn chưa thấy cái tên này của ông ta có nghĩa gì đối với mình.

- Tôi chờ gặp anh nhé, - Ông khách miền Texas có chiếc áo sặc sỡ thân mật nói.

- Xin cảm ơn ông, - Abel lại nói. Anh mỉm cười với Melanie. Mắt cô ta vẫn xanh và lạnh lùng như từ nãy đến giờ. Anh quay trở lại chỗ Sammy, trong đầu nghĩ ngợi.

- Anh có nghe thấy nói Công ty Khách sạn Richmond bao giờ không, Sammy?

Có chứ. Cậu em tớ đã hầu bàn ở đó một lần. Hình như họ có tám chín khách sạn gì đó ở khắp miền Nam, do một anh chàng điên rồ người Texas quản lý nhưng mình không nhớ rõ tên. Sao cậu hỏi thế? - Sammy ngửng lên với vẻ ngờ vực.

- Chả có lý do gì đặc biệt cả, - Abel nói.

- Với cậu thì bao giờ cũng có lý do tất. Thế bàn 17 muốn gì? Sammy hỏi.

- Họ phàn nàn về tiếng ồn trong bếp. Chả trách họ được - Vậy ông ta muốn thế nào? Cho ra ngồi ngoài hiên ư? ông ta tưởng mình là gì chứ, John D.Rockepheller chăng?

Abel để mặc cho Sammy đứng đó tính toán và càu nhàu, còn anh đi dọn mấy chiếc bàn của mình cho nhanh. Rồi anh trở về phòng bắt đầu tìm hiều về Công ty Richmond. Chỉ gọi điện thoại đi vài nơi là anh đủ biết được hết. Đây là một công ty tư nhân, có tất cả mười một khách sạn, cái lớn nhất là một tòa nhà có 342 phòng sang trọng ở Chicago, gọi là Richmond Continental. Abel quyết định đến thăm ông Leroy và Melanie mà sẽ chẳng mất gì. Anh hỏi số phòng của ông Leroy. Đó là phòng 85, nhỏ nhưng thuộc loại sang. Anh đến trước bốn giờ, hơi thất vọng vì cô Melanie không có đó:

Hoan nghênh anh đến, Abel. Mời anh ngồi.

Lần đầu tiên kề từ hơn bốn năm ìàm việc trong Plaza, bây giờ Abel mới được ngồi như một người khách.

- Anh được trả lương bao nhiêu? - Ông Leroy nói.

Câu hỏi bất ngờ làm Abel sửng sốt.

Tôi được khoảng hai mươi lăm đô la mỗi tuần kể cả tiền thưởng.

- Tôi sẽ bắt đầu bằng trả anh ba mươi lăm mỗi tuần.

- Ông muốn nói khách sạn nào kia ạ? - Abel hỏi:

- Nếu tôi đoán đúng, Abel, thì anh xong việc lúc ba rưỡi, và trong khoảng nửa giờ sau đó là anh tìm hiểu về khách sạn, tôi nói vậy có đúng không ạ Abel đã bắt đầu ưa ngay ông khách này. Anh bạo dạn đoán ngay.

- Khách sạn Richmond Continental ở Chicago, phải không ạ?

- Tôi đoán đúng, và đúng cả về anh. - Davis Leroy cười Trên người phó quản lý thì có bao nhiêu người nữa - Abel nghĩ thật nhanh.

- Chỉ có người quản lý với tôi. Người quản lý là một người chậm chạp, dễ thương và cũng gần về hưu. Tôi còn đến mười khách sạn nữa phải lo. Anh sẽ chẳng gặp khó khăn gì lắm đâu. Tuy nhiên tôi cũng phải thú thật Chicago là chỗ tôi thích nhất. Đó là khách sạn đầu tiên của tôi ở miền Bắc. Melame đi học ở đó nên tôi cũng mất nhiều thời gian ở thành phố này. Anh đừng có mắc sai lầm của nhiều người ở New York là đánh giá thấp Chicago. Họ thường nghĩ Chicago chỉ là một chiếc tem nhỏ trên phong bì rất to, mà tự coi họ là chiếc phong bì.

Abel mỉm cười.

- Lúc này khách sạn hơi xuống cấp một chút, - Ông Leroy nói tiếp. - Tự nhiên anh chàng phó quản lý của tôi bỏ đi, tôi cần có một người thay thế và hiểu biết công việc. Anh nghe đây, Abel, trong năm ngày qua tôi đã theo dõi anh cẩn thận, và tôi biết là anh có thể thay thế người đó. Anh có muốn đi Chicago không nào?

- Bốn mươi đô la cộng với mười phần trăm lợi nhuận, tôi sẽ nhận việc ngay.

- Sao? - Davis Leroy rất ngạc nhiên hỏi. - Không có một người quản lý nào của tôi ăn lương trên cơ sở lợi nhuận như thế cả. Những người khác mà biết được như thế thì lôi thôi ngay.

- Tôi sẽ không nói cho ai biết nếu ông không nói, - Abel đáp.

- Bây giờ thì tôi biết là mình đã chọn được đúng người, dù cho anh ta mặc cả còn giỏi hơn cả một người Bắc Mỹ có sáu cô con gái, - Ông ta vỗ tay vào thành ghế. - Tôi đồng ý với điều kiện của anh, Abel.

ông có cần tham khảo gì thêm nữa không, thưa ông Leroy?

Tham khảo ư? Tôi biết rõ về lý lịch của anh từ khi anh rời Châu âu sang đây, cho đến lúc anh đỗ bằng kinh tế ở Columbia. Thế anh tưởng mấy ngày vừa qua ở đây tôi làm gì? Nếu phải cần tham khảo nữa thì tôi đã không để anh làm người đứng thứ hai trong một khách sạn tốt nhất của tôi như vậy.

Bao giờ anh bắt đầu làm việc được?

- Một tháng nữa tính từ hôm nay.

- Tốt. Tôi chờ đến lúc đó sẽ gặp anh, Abel.

Abel đứng dậy. Anh thấy mình đứng thế này dễ chịu hơn là ngồi ghế khách sạn. Anh bắt tay ông Davis Leroy, người khách ngồi ở bàn 17, chiếc bàn chỉ để cho những người không ai biết đến.

Rời thành phố New York và Khách sạn Plaza, ngôi nhà thật sự của anh kể từ sau khi rời lâu đài gần Slonim, Abel cảm thấy bứt rứt trong lòng. Anh không ngờ có lúc phải chia tay như thế. Từ biệt George, Monika và các bạn ở Columbia, anh thấy bịn rịn vô cùng. Sammy và những tay hầu bàn khác tổ chức chiêu đãi tiễn anh đi.

- Rồi cậu còn lên nữa chứ không phải chỉ có thế đâu, Abel Rosnovski, - Sammy nói và mọi người cũng đồng ý như vậy.

Khách sạn Richmond Continental ở Chicago nằm giữa Đại lộ Michigan, trung tâm của một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Mỹ. Điều đó khiến Abel rất hài lòng. Anh rất nhớ câu châm ngôn của Ellsoqurth Statler nói rằng có ba điều cực kỳ quan trọng đối với một khách sạn, đó là:

địa điểm, địa điểm và địa điểm. Nhưng Abel cũng phát hiện ra ngay rằng khách sạn Richmond này chỉ được có mỗi cái là địa điểm thôi. Davis Leroy có nói rằng khách sạn đang bị xuống cấp, nhưng như vậy là ông ta chưa nói đúng lắm. Desmond Pacey, người quản lý, không phải một người chậm chạp hiền lành như Davis iJeroy nói, mà ông ta còn là một anh chúa lười nữa.

ông ta còn tỏ ra không ưa Abel lắm. Ông ta để cho anh phó quản lý mới của mình ở trong một căn phòng nhỏ tí dành cho nhân viên khách sạn ở bên kia đường, chứ không cho ở ngay trong khách sạn.

Mới xem qua những sổ sách của Richmond, anh đã biết ngay rằng số khách hàng ngày chỉ dưới 40 phần trăm phòng, còn nhà ăn thì không bao giờ có đến nửa số khách, mà nguyên nhân chính là thức ăn không ra gì. Nhân viên phục vụ thì nói đến ba bốn thứ tiếng gì với nhau nhưng hình như chẳng có ai trong số họ thông thạo tiếng Anh. Họ rõ ràng ràng không tỏ ra có chút gì hoan nghênh anh chàng Ba Lan ở New York này lên đây.

Anh không lấy làm lạ tại sao người phó quản lý trước đây đã vội vã bỏ đi như vậy. Nếu như Richmond là khách sạn mà Davis Leroy cho rằng ông ta ưa thích nhất, thì Abel cũng lấy làm lo ngại cả mười khách sạn còn lại kia lắm, dù cho ông chủ mới của anh có vẻ là người lắm tiền nhiều của ở Texas.

Nhưng trong những ngày đầu ở Chicago, cái tin hay nhất mà Abel biết được là:

Melani Leroy là đứa con duy nhất của ông chủ.
 
Hai Số Phận - Chương 14
Willam và Matthequ học năm đầu ở Harvard mùa thu năm 1924. Mặc dầu không được các cụ đồng ý, William vẫn nhận học bổng Hamilton về toán là 290 đô la, dùng tiền đó sắm chiếc Daisy - Kiểu xe mới nhất của hãng Phord và cũng là điều đầu tiên William yêu quý nhất đời mình. Anh đem xe đi sơn màu vàng nhạt. Tiền sơn bằng nửa tiền xe, nhưng số bạn gái của anh lại tăng gấp đôi. Lúc đó Calvin Coolidge(l) thắng lớn trong bầu cử để trở lại Nhà Trắng, và Thị trường chứng khoán New York đã đạt kỷ lục đầu tiên từ năm năm là có đến 2.336.160 cổ phiếu.

Cả hai chàng trẻ tuổi (Bà ngoại Cabot tuyên bố làkhông còn có thể coi họ như bé bỏng gì nữa) đều mong cho chóng đến ngày vào đại học. Sau một mùa hè hoạt động sôi nổi với quần vợt và đánh gôn, họ sẵn sàng đi vào những thứ gì người lớn hơn nữa. William bắt đầu ngay từ hôm về đến căn phòng mới của mình trên '!Bờ biển Vàng", so với căn phòng nhỏ hồi còn ở trường St. Paul thì khá hơn nhiều lắm. Còn Matthequ thì đi tham gia vào câu lạc bộ bơi thuyền của trường. Matthequ được bầu làm đội trưởng của đội năm học thứ nhất.

Mỗi chiều chủ nhật, William lại bỏ sách vở để ra xem bạn chèo thuyền trên sông Charles. Anh mừng với mỗi thành công của Matthequ, nhưng cũng tỏ ra nghiêm khắc với bạn.

- Cuộc đời không phải chỉ có tám người cắm đầu cắm cổ khua mái chèo dưới nước và nghe một anh chàng nhỏ bé hơn mình ngồi đầu thuyền mà hét đâu nhé Wilham nói.

- Cậu đi mà nói cái đó cho bọn Yale nó nghe, - Matthequ đáp.

Trong khi đó William nhanh chóng chứng minh cho các giáo sư về toán thấy rằng anh không khác gì Matthequ trước đây, tức là bỏ xa các bài đang được học rất nhiều. Willim cũng được bầu làm chủ tịch Hội tranh ìuận của năm thứ nhất trong trường. Anh thuyết phục ông ngoại của mình là chủ tịch Loquell thực hiện kế hoạch bảo hiểm đầu tiên của trường bằng cách đảm bảo cho mỗi sinh viên tốt nghiệp Harvard được bảo hiểm sinh mạng suốt đời mà mỗi người chỉ phải đóng có 1.000 đô la, do nhà trường thu dần. William tính rằng như vậy mỗi sinh viên tham gia bảo hiểm chỉ phải đóng mỗi tuần không đến một đô la và nếu có cả 40 phần trăm sinh viên cũ của trường cũng tham gia vào đó nữa thì từ năm 1950 trở đi trường Harvard đã có thể có được thu nhập mỗi năm chừng ba triệu đô la. Ông chủ tịch nghe anh trình bày kế hoạch đó ìiền ủng hộ ngay và một năm sau mời William tham gia vào bộ phận lãnh đạo của Uỷ ban quyên góp trong trường. William rất tự hào nhận chức vụ đó mà không biết là anh sẽ phải làm chuyện ấy suất đời Chủ tịch Loquell báo cho là bà nội Kane của anh biết là ông đã có được một trong những bộ Óc tài chính giỏi nhất của thế hệ này mà chẳng mất đồng nào. Bà nội Kane trả lời ông em họ của bà rằng:

mọi thứ đều có mục đích của nó cả, và như vậy William càng có thêm nhiều kinh nghiệm xử thế sau này.

Năm thử hai vừa bắt đầu là đã đến lúc phải chọn dần một trong số những Câu lạc bộ Chung kết, tức là những tổ chức trong trường có liên quan đến những cơ sở xã hội của từng người, nhất là những con nhà giàu, William được đưa vào câu lạc bộ Porcell là một hội lâu đời nhất, giàu nhất, độc đáo nhất nhưng cũng kín đáo nhất. Trong hội quán của nó ở Đại lộ Massachusetts đặt trong một tiệm cà phê rẻ tiền có tên là Hayes- Bickphord, anh có thể ngồi đàng hoàng trong một chiếc ghế bành, suy nghĩ về những chuyện đang xẩy ra ngoài đời, ngắm nhìn quang cảnh ngoài đường phố qua tấm gương đặt ở góc phòng và nghe chiếc đài lớn mới lắp.

Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, William bị thuyết phục đi trượt tuyết với Matthequ ở Vermont và anh phải mất một tuần vất vả trèo núi đề theo kịp người bạn của mình.

- Này, Matthequ này, tại sao lại phải mất một giờ trèo tên núi cao để rồi chỉ để trượt xuống trong có mấy giây đồng hồ mà lại nguy hiểm đến tính mạng hoặc bị ngã gẫy chân như vậy?

Matthequ càu nhàu.

Như thế chả hơn là ngồi với những lý thuyết về đồ thị hay sao? Này, Wilham, sao cậu không thừa nhận là leo lên hay trượt xuống cậu đều tồi cả?

Trong năm học thứ hai, họ bận nhiều việc khác nên bỏ qua một số môn học, tuy với mỗi người khái niệm về "bỏ qua" cũng rất khác nhau. Hai tháng đầu nghỉ hè, họ làm việc với tư cách trợ lý tập sự cho ngân hàng Charles Lester ở New York. Ông bố của Matthequ bây giờ đã thôi không giữ một khoảng cách đối với Willam nữa. Vào những ngày nóng ẩm của tháng tám, họ nhẩy lên chiếc Daisy về vùng nông thôn New York hoặc đi thuyền trên sông Charles với các cô gái, và hễ cứ đâu có chiêu đãi là họ tranh thủ để được mời và đến dự. Họ chả có lúc nào đóng vai những nhân vật quan trọng của trường. Trong xã hội Boston, ai cũng có thể biết rằng hễ cô gái nào lấy Wiìliam Kane hoặc Matthequ Lester thì đều không có gì phải lo cho tương lai của mình nữa. Tuy nhiên, cứ bà mẹ nào mang hy vọng đó và đem con gái mình đến gặp thì cáe cụ bà Kane hoặc Cabot đều từ chối thẳng thừng.

Ngày 18 tháng tư, 1927, William mừag ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình bằng một cuộc gặp cuối cùng với những nglíời được ủy thác trông coi tài sản của anh. Alan, Lloyd và Tony Simmons đã chuẩn bị các thứ giấy tờ cho anh ký.

- Thôi nhé, Wilham thân mến, - Bà Milly Preston nói với một giọng như vừa được trút khỏi gánh nặng,- Tôi tin rằng anh sẽ có thể làm được từng việc cụ thể như chúng tôi đã làm.

- Tôi hy vọng như vậy, thưa bà Preston, nhưng nếu như khi nào tôi cần mất nửa triệu trong một đêm, thì tôi sẽ biết phải gọi cho ai.

Milly Preston đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời Wỹ ủy thác bây giờ đã được trên 32 triệu đô la. William đã có kế hoạch trong đầu để nuôi số tiền ấy, nhưng anh cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ là kiếm thêm một triệu đô la nữa trước khi rời trường Harvard. So với tiền ủy thác thì nó không là bao nhiêu, nhưng tài sản thừa kế đối với anh không thể nào có ý nghĩa bằng tài khoản tự anh làm ra được và gửi ở ngân hàng Lester.

Mùa hè năm đó, các cụ bà nội ngoại rất lo sợ có các cô gái nhòm ngó tiền của các cháu mình, đã cho William và Matthequ đi chơi một tua ở Châu âu.

Chuyến đi này lại hóa ra thành công lớn cho cả hai người. Matthequ vượt qua mọi trở ngại về ngôn ngữ, hễ cứ đến một thủ đô nào của Châu âu là lại kiếm được một cô gái đẹp. Anh ta bảo với William rằng tình yêu là một thứ hàng tiêu dùng có tính quốc tế. Còn Wilham thì tự giới thiệu mình với mỗi giám đốc của các ngân hàng Châu âu. Anh bảo Yới Matthequ rằng tiền cũng là một thứ hàng tiêu dùng có tính quốc tế.

Từ London đến Berlin và Rome, hai anh chàng để lại sau lưng một loạt những trái tim tan vỡ và những nhà ngân hàng có khá nhiều ấn tượng. Về đến Harvard vào tháng chín, cả hai người đã sẵn sàng lao vào sách vở đề chuẩn bị cho năm cuối cùng ở trường.

vào mùa đông năm 1927 khá rét mướt, bà nội Kane qua đời, hưởng thọ 85 tuổi. lần đầu tiên từ sau khi mẹ chết, bây giờ William mới lại khóc.

ít ngày sau khi cùng chia buồn với William về cái chết của bà cụ, Matthequ nói:

- Thôi cậu, bà cụ đã sống một cuộc sống sung sướng, và cụ cũng đã chờ khá lâu để tìm hiểu xem Chúa là người thuộc họ Cabot hay Loquell rồi.

Wilham nhớ đến những lời bà nội trước đây thường nói, mặc dầu anh không thích lắm. Nhưng anh tổ chức một đám tang rất linh đình cho bà. Anh cho chở bà trên chiếc xe tang Packard đen đến nghĩa trang một cách rất oai vệ mà nếu bà còn sống chắc sẽ không bằng lòng. Cái chết của bà khiến cho William càng tập trung vào việc học hơn trong năm cuối ở Harvard.

Anh quyết tâm giành giải thưởng hàng đầu về toán của trường để kỷ niệm bà nội. Sáu tháng sau khi bà nội Kane mất thì bà ngoại Cabot cũng mất nốt.

Wilham nghĩ có lẽ vì bà buồn không còn ai nói chuyện với bà nữa.

Tháng hai năm 1928

đội trưởng đội tranh luận đến gặp Wilham. Họ báo là tháng sau đó sẽ có cuộc tranh luận và mọi người phải ăn mặc chỉnh tề để nói về Chủ nghĩa xã hội hay ch ủ nghĩa tư bản cho tương lai của nước Mỹ. Trong cuộc tranh luận này, cố nhiên William sẽ được yêu cầu đại diện cho chủ nghĩa tư bản.

Nếu như tôi bảo với anh rằng tôi chỉ muốn phát biểu nhân danh những quần chúng bị áp bức thì sao nhỉ? - William hỏi lại đội trưởng. Anh ta ngạc nhiên, vì xưa nay vẫn nghĩ rằng William vốn là dòng dõi con nhà giàu và lại là một nhà ngân hàng đang phát triển thì không thể có ý nghĩ quái gở ấy được.

- Ồ Wilhm, chúng tôi vẫn tưởng anh sẽ chọn lựạ... Ợ...

- Thôi được. Tôi nhận lời. Nhưng tôi được tự do chọn người đồng sự với tôi chứ?

Tất nhiên.

Tốt. Thế thì tôi chọn Matthequ Lester. Tôi có được biết đối phương của chúng tôi là những ai không?

- Một ngày trước khi tổ chức tranh luận anh mới biết được. Người ta sẽ yết thị trên sân trường ấy.

Cả một tháng sau đó Matthequ và William biến những cuộc phê phán báo chí tả hữu thường làm vào những bữa ăn buổi sáng và cả những cuộc thảo luận buồi tối về ý nghĩa của Cuộc sống thành những buổi họp có tính chất chiến lược, khiến cả trường đều gọi đó là Cuộc tranh luận vĩ đại. William để cho Matthequ dẫn đầu những buổi đó.

Gần đến ngày quyết định, người ta được biết tất cả những sinh viên có hiểu biết về chính trị, các giáo sư và cả một số chức sắc của Boston với Cambridge sẽ đến dự. Sáng hôm trước ngày đó, hai người lên văn phòng trường để xem đối phương của mình là những ai.

Leland Crosby và Thađeus Cohen. Cả hai cái tên này cậu có nghe nói bao giờ không, Wiìliam? Crosby có lẽ là một trong những Crosby của Philadelphia đấy chăng?

- Đúng rồi đấy. Bà cô của anh ta đã có lần mô tả đó là Anh chàng đỏ điên rồ ờ Wảng trường Rittenhouse. Đúng rồi đấy. Anh ta là một người cách mạng say sưa nhất ở khu học xá này, rất nhiều tiền và đem tiền tiêu hết cho những hoạt động bình dân cấp tiến gì đó. Mình đã có thể thấy được anh ta sẽ mở đầu như thế nào rồi.

Và William nhại cái giọng lanh canh của Crosby:

Tôi đã biết rất rõ cái tính tham tàn và hoàn toàn thiếu ý thức xã hội của giai cấp có tiền ở Mỹ. Nếu như mọi người trong cử tọa chưa từng nghe cái câu đó đến năm chục lần rồi, thì mình có thề cho anh ta sẽ là một đối thủ đáng gờm đấy.

- Thế còn Thađeus Cohen - Chưa nghe nói đến anh chàng này bao giờ.

Tối hôm sau, trong bụng hồi hộp, hai nglrời khoác áo dầy lên mình đi qua gió tuyết ngoài sân trường, qua những dẫy cột nhẵn bóng của thư viện Widener lên Hội trường Boylston. William có cảm tưởng như cha mình trước đây đã bước xuống con tàu Titanic vậy.

- Với thời tiết như thế này, giá chúng mình có thua thì cũng chẳng có mấy ai đi nói lại làm gì, - Matthequ nói.

Nhưng lúc hai người đi qua thư viện thì đã thấy rất đông người đang lục tục theo nhau lên cầu thang và kéo vào hội trường. Vào đến bên trong, họ chỉ cho hai người lên ngồi trên bục diễn đàn. William ngồi im lặng, nhưng mắt anh nhìn khắp mọi người trong cử tọa:

Chủ tịch Loquell ngồi kín đáo ở hàng ghế giữa, cựu giáo sư môn thực vật Newbury St. Hohn, vài bà phụ nữ trong giới văn học mà anh nhận ra được tại những cuộc chiêu đãi ở nhà mình. Phía bên phải hội trường có một nhóm thanh niên nam nữ trông như dân du mục và có một số cũng không chịu đeo ca vát nữa. Họ vỗ tay ran khi thấy những người phát ngôn của mình - Crosby và Cohen - Bước lên diễn đàn.

Trong hai người, Crosby có vẻ ra dáng hơn. Người anh ta cao gầy, gần như trong một bức tranh biếm họa, mặc bộ đồ vải sọc với chiếc sơ- mi là rất thẳng, miệng ngậm một chiếc tẩu thuốc dính vào môi dưới không ăn nhập gì với kiểu người, Thađeus Cohen lùn bé hơn, đeo đôi mắt kính không có gọng, mặc bộ đồ len sẫm quá mức ngay ngắn.

Bốn diễn giả bắt tay nhau một cách thận trọng. Tiếng chuông nhà thờ cách học xá chừng mấy chục thước vẳng lên bẩy tiếng.

- Xin mời ông Leland Crosby, - Người đội trưởng nói.

Bài diễn văn của Crosby khiến William lấy làm yên lòng. Anh đã dự kiến được trước mọi thứ. Cái giọng oang oang và gay gắt của Crosby là biểu hiện anh ta rất nóng tính, dễ mất tỉnh táo. Anh ta dẫn chứnag không biết bao nhiêu những thí dụ của chủ nghĩa cấp tiến ở Mỹ. William nghĩ chẳng qua Crosby chỉ nhân dịp này mà quảng cáo cho cá nhân mình và nhiều lắm là được nhóm thanh niên ngồi phía bên phải kia vỗ tay mà thôi. Lúc Crosby nói xong và ngồi xuống rồi, rõ ràng anh ta không có thêm được người mới nào ủng hộ, mà có thể trong những người cũ lại mất đi một số. Việc anh ta dẫn chứng William với Matthequ là hai nglrời bạn giàu có với nhau không chịu hy sinh cho sự nghiệp công bằng xã hội ở đây quả là một điều dại dột.

Matthequ nói thẳng vào vấn đề, với một giọng ôn tồn. Anh tỏ ra mình là hiện thân của sự rộng lượng và tự do. Anh trở về chỗ, được vỗ tay nhiệt liệt.

William nắm chặt lấy tay bạn.

- Chỉ còn có tiếng hò hét thôi, - Anh nói khẽ.

Nhưng đến lượt Thađeus Cohen thì mọi người phải ngạc nhiên. Anh ta có kiểu nói nhỏ nhẹ dễ được cảm tình. Những thí dụ dẫn chứng của anh ta mang tính tôn giáo và sắc sảo. Anh ta làm cho toát ra một sự nghiêm túc về tinh thần, đồng thời cũng thừa nhận những thiếu sót và cả những cái? quá đáng của phía mình. Nói chung, anh ta làm cho người nghe thấy rằng mặc dầu có những nguy cơ này khác nhưng muốn cho loài người có thể tiến lên được thì không có con đường nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội.

William thấy hơi bối rối. Anh nghĩ nếu trực tiếp đánh thẳng vào lập trường chính trị của đối phương thì sẽ là vô ích, nhất là sau khi Cohen đã trình bày một cách dễ nghe và có tính thuyết phục như vậy. Tuy nhiên, nếu muốn vượt lên trên anh ta để tỏ ra mình là người phát ngôn của hy vọng và niềm tin ở tinh thần nhân đạo của con người thì cũng không được.
 
William tập trung trước hết vào việc bác bỏ những lời buộc tội của Crosby, rồi sau đó anh trả lời cho những lý luận của Cohen bằng cách nói lên niềm tin của chính mình vào khả năng của xã hội Mỹ có thể đem lại những hiệu quả tốt nhất qua sự ganh đua với nhau về tinh thần và kinh tế. Anh cảm thấy mình bảo vệ cho luận điểm của mình thế là đủ, không cần gì nhiều hơn. Anh ngồi xuống với cảm tưởng như bị Cohen đánh bại.

Crosby lại lên nói tiếp. Anh ta hùng hổ làm như bây giờ sẽ đánh bại luôn cả Cohen cũng như William và Matthequ. Anh ta còn hỏi cử tọa xem có biết được đâu là kẻ thù của nhân dân trong số những người ngồi đây. Anh ta nhìn khắp hội trường một lúc lâu, chỉ thấy cử tọa ngồi yên lặng một cách khó chịu, còn đám thanh niên ủng hộ anh ta thì cúi nhìn xuống mũi giầy Rồi anh ta gào lên:

- Anh ta đứng trước mặt mọi người đó. Anh ta vừa nói đó. Tên anh ta là William Loquell Kane. - Giơ tay chỉ vào William nhưng không nhìn vào anh, anh ta quát tháo:

Ngân hàng của anh ta làm chủ những hầm mỏ trong đó công nhân đang chết dần mòn để đem lại cho bọn chủ số tiền lãi hàng triệu đô la mỗi năm. Ngân hàng của anh ta trợ giúp cho bọn độc tài tham nhũng và khát máu ở Mỹ La Tinh. Thông qua ngân hàng của anh ta, Wốc hội Mỹ ăn hối lộ để diệt nông dân nghèo. Ngân hàng của anh tạ...

Anh ta cứ như thế nói thao thao một lúc nữa. William ngồi im lặng, chỉ thỉnh thoảng ghi vài chữ vào tập giấy trong tay mình. Một số người trong cử tọa bắt đầu lên tiếng bác bỏ. Những người ủng hộ Crosby quát lại. Các vị quan chức bắt đầu khó chịu.

Thời gian cho Crosby nói đã sắp hết. Anh ta giơ nắm đấm lên trời và nói:

- Thưa các vị, tôi có thể nói rằng chỉ cách phòng này vài trăm bước là chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho cái tai họa của nước Mỹ. Đó là thư viện Widener, một thư viện tư lớn nhất thế giới hiện nay. Ở thư viện này, các nhà học giả nhập cư tội nghiệp cùng với những người có hiểu biết nhất ở Mỹ đến để làm cho thế giới này có thêm tri thức và thịnh vượng. Nhưng tại sao lại có thư viện ấy? Vì mười sáu năm trước đây do có một chàng thanh niên nhà giàu nhảy lên chiếc tàu Titanic để đi chơi rồi chẳng may gặp nạn. Thưa quý ông quý bà, tôi đề nghị rằng trong khi nhân dân Mỹ chưa cấp cho mỗi người của giai cấp cầm quyền một tấm vé để lên chiếc tàu Titanic của chủ nghĩa tư bản ấy, thì phải đem tất cả những của cải tàng trữ trên lục địa này mà giải phóng và phục vụ cho sự nghiệp của tự do, bình đẳng và tiến bộ.

Nghe cái cách ăn nói của Crosby như vậy, Matthequ đã thấy ngay anh ta làm một việc rất dại đột là đã nhắc đến vụ đắm tàu Titanic, và điều đó sẽ quật lại chính anh ta. Anh không biết,William sẽ trả lời đối với thái độ khiêu khích ấy như thế nào.

Trật tự và im lặng trở lại rồi, đội trưởng bước ra nói:

- Xin mời ông William Loquell Kane.

quilliam bước lên bục diễn đàn nhìn khắp lượt cử tọa. Trong phòng im phăng phắc.

- Ý kiến của tôi là những quan điểm do ông Crosby vừa nói không đáng được trả lời.

Rồi anh ngồi xuống. Cả phòng bỗng im lặng một cách lạ thường, rồi liền đó là tiếng vỗ tay vang dậy.

Đội trưởng bước lên diễn đàn nhưng lúng túng chưa biết làm gì. Một tiếng nói phía sau lưng anh ta bỗng phá tan giây phút căng thẳng.

- Ông chủ tịch. Xin cho phép hỏi ông Kane là tôi có thể dùng thời gian trả lời của ông ấy được không. - Đó là Thađeus Cohen.

William nhìn đội trưởng và gật đầu.

Cohen bước lên bục diễn đàn, chớp chớp mắt nhìn cử tọa rồi nói:

Từ lâu đã rõ ràng là trở ngại lớn nhất cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Mỹ lại chính là chủ nghĩa quá khích trong một số đồng minh của nó. Không có gì chứng minh cho sự thật đáng buồn ấy hơn là bài nói của người đồng sự của tôi tối nay. Việc kêu gọi hủy diệt những người chống nó lại chính là làm hại đến sự nghiệp tiến bộ, và chúng ta có thể hiểu điều đó là tiêu biểu cho những cuộc đấu tranh xa lạ Ở đâu đâu chứ không phải của chính chúng ta. Ở Mỹ thì điều đó là đáng buồn và không thể biện minh được. Riêng về phần tôi, tôi thành thật xin lỗi ông Kane về chuyện này.

Lần này thì tiếng vỗ tay vang lên dồn dập. Hầu như cả hội trường đứng dậy vỗ tay liên tục.

Wilham bước đến bắt tay Thađeus Cohen. Họ không lấy làm lạ thấy khi bỏ phiếu Wiìliam và Matthequ đã được hơn 150 phiếu. Buổi tối tranh luận thế là kết thúc. Mọi người lần lượt bước ra ngoài, đi trên những lối nhỏ phủ đầy tuyết và kéo ra đường phố oang oang nói chuyện với nhau.

Wilham mời Thađeus Cohen cùng đến uống nước với anh và Matthequ. Họ cùng đi qua đại lộ Massachusetts, dầm trong tuyết đang rơi rồi cuối cùng đến trước một cánh cửa to đen sì gần như đối diện với Hội trường Boylston.

William lấy chìa khóa ra mở rồi cả ba người bước vào bên trong nhà sảnh.

Trước khi cánh cửa khép lại, Thađeus Cohen bỗng nói :

- Có lẽ tôi không được hoan nghênh ở đây đâu.

William ngạc nhiên một giây lát.

- Nói vớ vẩn. Anh đi với tôi kia mà.

Matthequ liếc nhìn bạn, biết là William đã có một ý định gì.

Họ bước lên cầu thang vào một căn phòng rộng lớn, có đầy đủ bàn ghế nhưng không sang trọng lắm.

Khoảng hơn chục người đứng ngồi rải rác. Thấy William xuất hiện ở cửa vào, họ reo mừng.

- Cậu cừ ìắm, William. Đối xử với loại người ấy, phải như thế mới được.

- Hoan nghênh hiệp sĩ trở về.

Thađeus Cohen chựng lại, còn đứng ở phía sau. nhưng William không quên anh ta.

Các bạn, tôi xin giới thiệu đối thủ xứng đáng của tôi là ông Thađeus Cohen.

Cohen ngần ngại bước lên.

Trong phòng im lặng. Mấy cái đầu quay đi như đang nhìn lên cây thông ở sân trường, cành lá phủ đầy tuyết .Cuối cùng có tiếng lạo xạo trên sàn. Một người bước ra khỏi phòng bằng cửa bên. Lại một người nữa đi ra theo.

Lần lượt, cả đám người trong phòng bước ra hết. Người cuối cùng còn quay lại nhìn Wilham một cái rồi mới ra hẳn.

Matthequ nhìn bạn mà buồn thảm. Thađeus Cohen tím mặt, cúi nhìn xuống chân. Wilham cắn môi, mím miệng, trông giận dữ như khi Crosby nhắc đến chuyện con tàu Titanic.

- Thôi, chúng mình đi đi. - Matthequ kéo tay bạn. Cả ba chậm chạp đi về phòng của William và lặng lẽ uống rượu brandy.

Sáng hôm sau ngủ dậy, William thấy dưới cửa có chiếc phong bì. Bên trong là mấy chữ của chủ tịch Câu lạc bộ Porcell viết cho anh, hy vọng là sẽ không bao giờ tái diễn việc đáng tiếc của tối hôm qua nữa. Đến trưa thì chủ tịch nhận được hai thư từ chức.

Sau mấy tháng miệt mài, William và Matthequ hầu như đã sẵn sàng lao vào những đợt thi cuối cùng. Trong sáu ngày liền, họ liên tục trả lời các câu hỏi, viết hết tờ nọ đến tờ kia, điền vào cuốn sổ màu xanh, rồi chờ đợi. Họ đã không uổng công, vì cả hai đều đã tốt nghiệp trường Harvard như đã dự kiến vào tháng sáu năm 1928.

Một tuần sau kỳ thi, người ta công bố William đã giành được giải thưởng về Toán của Tổng thống. Anh ước gì bố mình còn sống để chứng kiến lễ trao giải thưởng ngày tốt nghiệp. Matthequ cũng cố được cái giải ba. Anh thở dài yên tâm và những người khác cũng không lấy thế làm ngạc nhiên. Cả hai đều không muốn học hành gì nữa, vì bây giờ họ đã có quyền được đi vào đời sống thực tế càng sớm càng tốt.

Tài khoản trong ngân hàng New York của William trội lên một triệu đô la nữa tám ngày trước khi anh rời trường Harvard. Đến lúc đó anh mới bàn một cách chi tiết với Matthequ về kế hoạch lâu dài của anh là giành lấy sự kiểm soát Ngân hàng Lester bằng cách nhập nó vào với ngân hàng Kane và Cabot.

Matthequ thấy thế cũng bằng lòng và anh thú thật là sau khi ông già nhà mình mất đi rồi, có lẽ chỉ còn có cách đó thì mình mới kế nghiệp và tiến lên được mà thôi.

Hôm làm lễ tốt nghiệp, Alan Lloyd, bây giờ đã sáu mươi tuổi, cũng có đến trường Harvard. Sau buổi lễ, William mời ông ra uống trà trên quảng trường.

Alan nhìn người trẻ tuổi một cách âu yếm.

- Bây giờ xong Harvard rồi, anh định làm gì?

- Tôi sẽ về ngân hàng Charles Lester ở New York.

Tôi muốn có được ít kinh nghiệm trong mấy năm trước khi về Kane và Cabot.

- Nhưng anh đã sống với ngân hàng Lester suốt từ hồi anh mười hai tuổi đến giờ kia mà, Wilham. Tại sao bây giờ anh không về thẳng chỗ chúng tôi đi?

Chúng tôi sẽ cử anh làm giám đốc ngay lập tức.

Alan Lloyd chờ anh trả lời, nhưng không thấy anh nói gì.

- William, chẳng có gì khiến anh bị ngỡ ngàng đến mức không nói lên được như vậy. Rất không phải con người của anh là như thế.

- Nhưng tôi không bao giờ có thể ngờ rằng ông sẵn sàng mời tôi tham gia ban lãnh đạo trước khi tôi hai mươi lăm tuổi. Hồi cha tôị...

- Đúng là cha anh đến hai mươi lăm tuổi mới vào ban lãnh đạo. Tuy nhiên không có lý do gì ngăn trở anh tham gia ban lãnh đạo trước cái tuổi đó nếu như các giám đốc khác tán thành ý kiến này, mà tôi thì tôi biết là họ đều tán thành cả. Dù sao cũng còn có những lý do riêng mà tôi muốn thấy anh làm giám đốc càng sớm càng tốt. Trong năm năm nữa tôi rút khỏi ngân hàng, tôi muốn chắc chắn là người ta bầu lên được một chủ tịch xứng đáng. Nếu anh làm việc ở ngân hàng Kane và Cabot trong năm năm đó thì anh sẽ ở tư thế thuận lợi hơn để tác động đến việc bầu này, chả hơn là anh đi làm một viên chức cao cấp bên ngân hàng Lester hay sao? Nào, thế anh có đồng ý tham gia ban lãnh đạo không đây?

Đây là lần thứ hai trong ngày William ước gì cha anh còn sống để được thấy cảnh này.

Tôi sẽ rất sung sướng nhận lời, thưa ông. - Anh đáp.

Alan nhìn William.

- Đây cũng là lần thứ hai anh "thưa ông" với tôi kể từ bữa đánh gôn đấy nhé. Tôi phải coi chừng anh mới được William cười.

- Tốt rồi, thế là giải quyết xong. - Alan Lloyd nói.

- Anh sẽ là giám đốc thứ hai phụ trách về các khoản đầu tư trực tiếp làm việc dưới quyền Tony Sunmons.

Tôi có thể cử người phó cho riêng mình được không? - William hỏi.

Alan Lloyd nhìn anh mỉm cười.

- Chắc là Matthequ Lester?

- Vâng, đúng thế.

- Không, tôi không muốn anh ta làm ở ngân hàng chúng ta cái mà anh định làm ở ngân hàng bên đó.

Đáng lẽ Thomas Cohen đã phải dạy cho anh biết điều này rồi chứ.

Wilham không nói gì nhưng từ đó không dám đánh giá thấp Alan nữạ.

Anh kể lại nguyên văn câu chuyện đó cho Charles Lester nghe và ông ta phá lên cười.

Rất tiếc là anh không về với ngân hàng chúng tôi, dù là về với tư cách một gián điệp, - Ông ta tươi cười nói. - Nhưng tôi chắc là một ngày nào đó anh cũng sẽ về đây với tư cách này hay tư cách khác.
 
Hai Số Phận - Chương 15
Tháng chín năm 1928

Wilham về làm việc với tư cách một giám đốc thứ hai trong ngân hàng Kane và Cabot, và lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy làm một công việc thật sự hơp với mong muốn của mình. Anh bắt đầu sự nghiệp trong một phòng nhỏ bên cạnh văn phòng của Tony Sinlmons, giám đốc của Ngân hàng phụ trách về đầu tư Ngay từ tuần đầu đến làm việc, William đã có thể biết, mặc dầu chưa ai nói ra, rằng Tony Simmons hy vọng sẽ được lên kế chân Alan Lloyd làm chủ tịch ngân hàng.

Toàn bộ chương trình đầu tư của ngân hàng là thuộc trách nhiệm của Simmons. Ông ta đã nhanh chóng chuyển cho William một phần công việc, nhất là những thứ như đầu tư của tư nhân vào kinh doanh quy mô nhỏ, đất đai và những hoạt động thầu khoán bên ngoài mà ngân hàng có dính líu vào đó. Trong số những nhiệm vụ chính thức của William có báo cáo hàng tháng về đầu tư mà anh muốn kiến nghị tại cuộc họp toàn thể ban lãnh đạo. Tất cả mười bảy thành viên ban lãnh đạo mỗi tháng họp một lần trong căn phòng lớn chung quanh ốp gỗ sồi và hai đầu phòng có treo chân dung, một của bố William, một của ông nội anh. William chưa bao giờ biết ông nội của mình thế nào, nhưng anh vẫn thường nghĩ hẳn ông phải ghê gớm lắm thì mới lấy một bà như bà nội Kane được, Phòng còn khối chỗ trên tường để sau này treo chân dung của anh.

Trong những ngày đầu ở ngân hàng, William có thái độ cư xử rất thận trọng và những thành viên khác trong ban lãnh đạo đã biết tôn trọng những ý kiến anh đề nghị mà rất ít có trường hợp bác bỏ.

Nhưng rồi sự thật cho thấy những ý kiến- Họ bác bỏ lại chính là những lời khuyên tốt nhất của William.

Trong một dịp có ông Mayer nào đó định vay của ngân hàng một số tiền để đầu tư vào phim có tiếng nói, nhưng ban lãnh đạo từ chối không cho rằng điều đó có tương lai gì đáng kể. Một dịp khác, có một ông là Paley đến tìm William với một kế hoạch đầy tham vọng cho mạng lưới phát thanh Unite. Alan Llyod vốn chỉ biết tôn trọng điện báo với thần giao cách cảm thôi nên không thích cái kế hoạch này. Ban lãnh đạo ủng hộ ý kiến của Alan.

Sau đó, chính cái ông Louis B. Mayer kia là chủ hãng MGM, còn ông William Paley thì công ty của ông ta trở thành hãng CBS. Willam tin ở những xét đoán của chính mình và anh đã ủng hộ cả hai người đó, lấy tiền ở quỹ ủy thác của mình cho họ vay. Anh cũng ìàm như bố anh trước đây, tức là không cho họ biết đã vay tiền của ai Một trong những hiện tượng không thú vị gì lắm trong công việc hàng ngày của William là phải giải quyết những vụ đóng cửa và phá sản của những khách hàng đã vay rất nhiều tiền của ngân hàng nhưng cuối cùng ở vào cái thế không sao trả nợ được.

William về bản chất không phải một người mềm mỏng gì Henry osborne đã từng phải trả cái giá đó rồi, nhưng anh vẫn đòi những khách hàng lâu năm và đáng kính ấy phải tìm cách thanh toán cho xong thậm chí bán cả nhà cửa đi để trả nợ, kẻo sẽ không ngủ yên với anh được. Wilham biết những khách hàng này có hai loại, một là những người coi phá sản như chuyện cơm bữa, và một loại rất sợ phá sản, suốt đời chỉ tìm cách làm sao trả được nợ cho xong. Với loại trên, William tỏ ra cứng rắn và anh nghĩ điều đó là tự nhiên, còn loại thứ hai anh rộng lượng hơn nhiều, mặc dầu Tony Simmons không tán thành lắm.

Chính trong trường hơp như trên đây mà Wilham đã phá bỏ một trong những nguyên tắc của ngân hàng và đích thân dính líu vào với một người khách. Đó là cô Katherine Brookes với chồng cô là Max Brookes, người đã vay của ngân hàng Kane và Cabot hơn một triệu đô la để đầu tư vào chuyện phát triển nhà đất ở Phlorida năm 1925, một chuyện đầu tư mà nếu như anh về ngân hàng từ trước đây thì anh đã không bao giờ cho vay. Nhưng Max Brookes hồi đó đã được coi như một anh hùng ở Massachusetts vì anh ta là một người rất dũng cảm thí nghiệm khinh khí cầu với máy bay, và là một bạn thân của Charles Linderg, trong vụ vay tiền này. Cái chết thảm thương của Brookes xảy ra trong khi anh lái chiếc máy bay nhỏ chỉ mới cất cánh khỏi mặt đất được mấy thước đã lao vào một cái cây cách đầu đường bay hơn trăm thước. Báo chí khắp nước Mỹ coi đó là một tổn thất cho cả quốc gia.

William đã nhân danh ngân hàng lấy lại toàn bộ tài sản của Brookes bán đi để thu tiền lại cho ngân hàng, chỉ còn để lại hai sào đất trên đó có ngôi nhà của gia đình Brookes. Như vậy, ngân hàng vẫn còn bị mất trên 30 không.000 đô la nữa. Một số giám đốc phê phán William là đã vội vã quyết định bán chỗ đất ấy đi và cả đến Tony Simmons cũng không đồng ý.

William cho ghi ý kiến bất đồng của Tony Simmons vào biên bản, và mấy tháng sau anh chứng minh cho ngân hàng thấy rằng nếu còn bám giữ lấy chỗ đất ấy thì có lẽ đã mất đi hơn một triệu đô la chứ không phải chỉ có thế. Điều chứng minh cái khả năng thấy trước được của anh như vậy khiến cho Tony Simmons không bằng lòng, mặc dầu tất cả những người còn lại trong ban lãnh đạo ai cũng thấy William có cái nhìn rất sắc sảo hiếm có.

Sau khi đã thanh toán mọi thứ liên quan đến tên tuổi của Max Brookes, William quay sang hỏi đến cô vợ của Brookes hiện đang là người có trách nhiệm trả nốt những khoản nợ của chồng. Mặc dầu William luôn luôn cố đảm bảo cho các khoản vay của ngân hàng có thể đòi được về anh cũng không tin lắm ở khả năng ấy và người đứng ra bảo lĩnh thường là thất bại.

William viết một bức thư chính thức cho cô vợ của Brookes, hẹn gặp để bàn giải quyết nốt nợ nần. Anh đã chú ý nghiên cứu kỹ về hồ sơ Brookes và biết rằng cô vợ chỉ mới hai mươi hai tuổi, con gái của Andrequ Higginson, thành viên của một gia đình quý tộc lâu đời ở Boston, và cũng là cháu gái của Henry Lee Higginson, người sáng lập ra dàn nhạc giao hưởng Boston. Anh cũng ghi nhận là cô ta có nhiều tài sản giá trị riêng nữa. Anh không thích gì cái chuyện yêu cầu cô ta phải đem nộp cả cho ngân hàng nhưng giữa anh với Tony Simmons lại có chuyện nhất trí với nhau về chủ trương đối với cô ta, nên anh đành chuẩn bị cho một cuộc tiếp xúc với cô ta mà anh biết là không vui vẻ gì lắm.

Nhưng Wilham không ngờ rằng trong chuyện này còn có cả bản thân cô Katherine Brookes nữa. Mãi về sau anh sẽ còn nhớ mãi những chi tiết của sự việc đã diễn ra sáng hôm đó. Anh vừa có một cuộc tranh cãi gay gắt với Tony Simmons về một khoản đầu tư lớn vào kim loại đồng và thiếc, anh đã có kiến nghị với ban lãnh đạo. Yêu cầu của nền công nghiệp đối với hai thứ kim loại này đang mỗi lúc một lên rất cao, mà William thì tin chắc rằng thế giới sẽ ngày càng khan hiếm những thứ đó. Tony Simmons thì không đồng ý với anh, lại cho rằng đầu tư tiền mặt nhiều hơn nữa vào thị trường chứng khoán kia. Trong đầu William đang còn nghĩ luẩn quẩn về chuyện đó thì cô thư ký đã dẫn cô vợ Brooker vào phòng làm việc của anh. Chỉ một nụ cươi của cô ta thôi là đủ xua tan hết trong đầu anh những chuyện đồng, thiếc, với mọi thứ khan hiếm khác trên thế giới. Cô ta chưa kịp ngồi xuống thì anh đã vội vòng quanh bàn giấy ra mời cô ngồi vào một chiếc ghế, chỉ sợ chưa xong thì cô ta biến đâu mất.

Wiìliam chưa hề bao giờ gặp một người đàn bà nào dễ thương dù chỉ bằng nửa cô athenne Brookes này thôi. Cô ta có mớ tóc vàng và quăn buông thõng xuống hai bờ vai, xoè ra dưới mũ và chung quanh thái dương. Mặc dầu đang để trở, khuôn mặt nhỏ nhắn của cô vẫn đẹp lạ thường, và cái dáng đó của cô cho anh thấy là một con người như thế thì ở tuổi nào cũng vẫn đẹp Đôi mắt nâu của cô thật to. Cô ta có vẻ đang lo ngại về những gì anh sắp nói.

William cố tỏ ra nghiêm túc.

- Thưa bà Brookes, tôi rất lấy làm tiếc nghe tin chồng bà qua đời, và tôi cũng rất ân hận buộc lòng phải mời bà đến đây hôm nay.

Giá như năm phút trước đó anh nói thế thì đúng. Anh chờ cô ta đáp lại.

Xin cảm ơn ông, ông Kane. - Giọng cô ta thật êm dịu. - Tôi rất tiếc bổn phận của tôi đối với ngân hàng, và xin đảm bảo với ông rằng tôi sẽ làm hết sức mình để làm tròn bổn phận đó.

William không nói gì, hy vọng cô ta sẽ nói tiếp.

Nhưng cô ta không nói. Anh lược kê ra một loạt những tài sản của Max Brookes. Cô ta vẫn yên lặng, cúi nhìn xuống.

- Bây giờ, thưa bà Brookes, bà hiện là người bảo lãnh cho những khoản vay của chồng bà, do đó vấn đề lại có liên quan đến những tài sản riêng của bà. - Anh nhìn vào hồ sơ. - Bà có khoảng tám chục nghìn đô la đầu tư, tôi đoán đó là tiền của gia đình, với một vạn bảy nghìn bốn trăm sáu mươi đô la trong tài khoản riêng của bà.

Cô ta nhìn lên.

- Như thế là ông biết rất rõ tình hình tài chính của tôi đấy thưa ông Kane. Tuy nhiên, ông cũng cần thêm vào đó Buckhurst Park là căn nhà của chúng tôi ở Phlorida hiện còn mang tên của Max với một số đồ tư trang có giá trị của tôi nữa. Tôi ước lượng tất cả những cái đó cộng với nhau cũng tương đương với ba trăm ngàn đô la còn thiếu lại ngân hàng. Tôi đang thu xếp để trang trải càng sớm càng tốt.

Trong giọng nói của cô ta chỉ hơi có một chút xúc động. William nhìn cô ta rất khâm phục.

- Thưa bà Brookes, ngân hàng chúng tôi hoàn toàn không có ý muốn tước đoạt tất cả những gì bà còn lại.

Nếu bà đồng ý, chúng tôi sẽ bán chứng khoán và cổ phiếu của bà, còn tất cả những gì bà vừa nói, kể cả ngôi nhà, chúng tôi tin rằng đó vẫn là của bà.

Cô ta ngập ngừng.

- Tôi cảm ơn sự rộng lượng của ông, thưa ông Kane. Nhưng tôi không muốn nợ lại ngân hàng một tí gì hoặc để cho cái tên của chồng tôi còn vương víu.

- Cô ta lại hơi xúc động, nhưng nén lại được. - Dù sao, tôi cũng đã quyết định bán ngôi nhà ở Phlorida và trở về nhà với bố mẹ tôi càng sớm càng tốt.

Nghe nói cô ta sẽ trở về Boston, tim William bỗng rộn lên.

- Nếu vậy thì có lẽ chúng ta có thể đồng ý với nhau về phương thức bán ra sao chứ, - Anh nói.

- Chúng ta có thể làm việc đó ngay bây giờ, - Cô ta thản nhiên đáp. - Ông sẽ có toàn bộ khoản tiền.

William tính trong bụng là phải gặp lại cô ta nữa. Chúng ta không nên vội vã quyết định ở đây. Tôi nghĩ có lẽ để tôi bàn thêm với các bạn đồng sự rồi sẽ thảo luận với bà được không ạ?

Cô ta khẽ nhún vai.

- Tùy ông thôi. Tôi thực sự không quan tâm lắm đến chuyện tiền nong, muốn giải quyết cách nào cũng được, và tôi cũng không muốn để ông phải phiền thêm làm gì.

William chớp mắt.

Thưa bà Brookes, tôi phải thú thật là tôi rất ngạc nhiên trước cử chỉ cao thượng của bà. ít nhất, bà cũng cho tôi được cái hân hạnh mời bà đi ăn trưa chứ.

Lần đầu tiên cô ta cười, để lộ lúm đồng tiền ở má bên phải. Wilìiam ngắm nhìn và trong suốt bữa ăn trưa ở nhà hàng Ritz anh làm hết cách để được thấy cô ta cười cho lộ rõ chỗ lúm đồng tiền đó nữa. Lúc anh trở lại làm việc ở cơ quan thì đã quá ba giờ chiều.

- ăn lâu đấy nhỉ William, - Tony Simmons bình luận.

- Vâng, vấn đề với nhà Brookes hóa ra phức tạp hơn tôi tưởng rất nhiều.

- Tôi nghĩ là giấy tờ đã rõ ràng cả rồi chứ, - Simmons nói. - Cô ta không phàn nàn về đề nghị của chúng ta, phải thế không? Tôi nghĩ trong trường hợp này, như thế nào chúng ta đã rộng rãi lắm đấy.

- Vâng, cô ta cũng thấy như vậy. Tôi tính còn phải thuyết phục để cô ta trả cho đến đồng đô la cuối cùng vào quỹ dự trữ của ta.

Tony Simmons ngạc nhiên nhìn anh.

- Cái cách nói đó nghe không phải như của William Kane mà chúng tôi từng biết và từng yêu quý. Với lại, chưa bao giờ lại gặp lúc thuận tiện cho ngân hàng của ta có thể tỏ ra cao thượng hơn bây giờ đâu.

William nhăn nhó. Từ khi anh về đây, anh với Tony Simmons vẫn luôn luôn không nhất trí với nhau về chuyện thị trường chứng khoán sẽ đi đến đâu. Kể từ khi Herbert Hoover được bầu vào Nhà Trắng tháng 11 năm 1928 đến giờ, thị trường vẫn liên tiếp đi lên.

Thực ra, chỉ mười ngày sau đó chứng khoán New York đã đạt được một kỷ lục trên sáu triệu cồ phiếu trong một ngày. Nhưng William thì tin rằng cái chiều hướng đi lên ấy chẳng qua chỉ do tiền của công nhiệp sản xuất ôtô đổ vào mà thôi, rồi kết quả sẽ là từ lạm phát giá cả đi đến mất ổn định. Tony Simmons, ngược lại, tin rằng cổ phiếu sẽ còn tăng vọt. Vì vậy, tại cuộc họp ban lãnh đạo, ý kiến của William kêu gọi phải cẩn thận vẫn bị át đi. Tuy nhiên, với tiền ủy thác riêng của anh, anh vẫn làm theo ý kiến mình và đầu tư vào những thứ như đất đai, vàng, hàng tiêu dùng và cả vào một số những bức tranh ấn tượng được chọn lọc, chỉ để 50 phần trăm tài sản vào chứng khoán.

Khi Ngân hàng Dự trữ Liên bang của New York đưa ra một pháp lệnh tuyên bố sẽ không chiết khấu cho những ngân hàng nào bỏ tiền ra cho khách hàng đầu cơ nữa, William coi như chiếc đinh thứ nhất đã được đóng vào quan tài của những tay đầu cơ tích trữ.

Anh lập tức điểm lại chương tình cho vay của ngân hàng và ước lượng Kane và Cabot đã bỏ ra hơn 26 triệu cho những khoản vay đó. Anh yêu cầu Tony Simmons rút những khoản tiền ấy về vì anh chắc rằng với quy định của chính phủ như vậy thì về lâu dài giá cổ phiếu nhất định sẽ giảm xuống. Trong cuộc họp lãnh đạo hàng tháng, hai bên tranh cãi với nhau rất ghê và cuối cùng lúc bỏ phiếu Wilìiam chỉ được hai trên 12.

Ngày 21 tháng Ba năm 1921, Blair và Công ty tuyên bố nhập vào với Ngân hàng Mỹ Châu, tức là vụ sáp nhập ngân hàng thứ ba cho thấy tình hình sẽ có thể sáng sủa hơn. Ngày 25 tháng Ba, Tony có công văn báo cho Wiìliam biết thị trường đã lại đạt một kỷ lục mới và chủ trương ngân hàng đổ thêm tiền vào chứng khoán. Vào lúc này, William đã điều chỉnh lại vốn của anh, chỉ còn để 25 phần trăm vào thị trường chứng khoán và như thế anh cũng đã mất thêm hai triệu đô la nữa, bị Alan Lloyd trách cứ.

- William, tôi hy vọng là anh biết mình đang làm gì chứ - Alan, tôi đã chơi với thị trường chứng khoán từ hồi mười bốn tuổi, và lần nào tôi cũng thắng vì nắm được chiều hướng của nó.

Đến mùa hè năm 1929, thị trường vẫn cứ tiếp tục vọt lên. Lúc này William đã không còn bán cổ phiếu nữa, nhưng anh phân vân không biết nhận định của Tony Simmons có đúng hay không nữa.

Vào gần lúc Alan Lloyd về nghỉ hưu thì ý đồ của Tony Simmons muốn thế chân ông làm chủ tịch ngân hàng xem ra đã có vẻ như một việc đã rồi. Triển vọng ấy khiến William không yên tâm lắm, vì anh cho rằng lối suy nghĩ của Simmons là quá nệ vào những quy ước thông thường. Ông ta bao giờ cũng tụt hậu so với thị trường. Điều này vào những năm kinh tế phát triển và những khoản đầu tư còn được cạnh tranh với nhau chặt chẽ hơn thì sẽ rất nguy hiểm. Trong con mắt của William thì một nhà đầu tư khôn ngoan không bao giờ chạy theo đa số, trái lại bao giờ cũng nhìn thấy mọi người sẽ quay theo hướng nào. Trước sau, WiUiam vẫn cho rằng đầu tư vào thị trường chứng khoán là dễ thất vọng, trong khi đó Tony Simmons thì tin rằng nước Mỹ đang bước vào thời kỳ vàng son hơn bao giờ hết.

Một vấn đề khác nữa William là Tony Simmons chỉ mới ba mươi chín tuổi, như thế có nghĩa là Wilham khó có hy vọng làm chủ tịch Kane và Cabot ít nhất là trong hai mươi sáu năm nữa. Điều đó thật không hợp với cái trước kia ở Haquard vẫn được gọi là sự nghiệp của anh.
 
Trong khi đó, hình ảnh Katherine Brookes luôn hiện ìên rõ nét trong đầu Wilham. Anh vẫn luôn viết cho cô để báo tin về việc bán chứng khoán và cổ phiếu. Những bức thư đó được đánh máy đàng hoàng, và nếu có trả lời thì viết tay cũng được. Hẳn cô ta phải nghĩ rằng anh là một nhà ngân hâng có lương tâm nhất trên đời này. Rồi đến đầu mùa thu, cô ta viết cho anh báo tin là đã tìm được người mua nhà đất ở Phlorida. William viết thư yêu cầu cô cho anh được nhân danh ngân hàng thương lượng về giá cả, và cô đồng ý.

Đầu tháng chín 1929 anh xuống Phlorida. Cô vợ Brookes ra ga đón anh. Anh thấy cô ta đẹp hơn rất nhiều so với hình ảnh anh có trong đầu. Ngọn gió nhẹ thổi tấm áo đen bó sát vào người cô lúc đứng chờ trên sân ga, tạo nên một bóng dáng khiến bất cứ người đàn ông nào cũng không thể chỉ nhìn cô một lần. Mắt của William cứ như dán vào cô.

Vì cô còn đang để tang nên cử chỉ đối với anh rất dè dặt và nghiêm túc nên Wilham không dám biểu lộ gì khác Anh kéo dài cuộc thương lượng với người mua trang trại Buckhurt và thuyết phục Katherine Brookes nhận lấy một phần ba giá bán còn hai phần ba thuộc về ngân hàng. Cuối cùng, sau khi giấy tờ đã được ký kết, anh không còn lý do gì để mà không trở về Boston. Anh mời cô đến khách sạn ăn tối với anh, trong bụng quyết tâm sẽ cho cô biết những cảm tình của anh đối với cô như thế nào. Nhưng đây không phải lần đầu tiên cô làm anh ngạc nhiên, mà trước khi anh nói đến chuyện đó thì cô đã xoay xoay cốc rượu để tránh nhìn thẳng vào anh và gợi ý anh nên ở lại Buckhurt thêm ít ngày.

- Coi như mấy ngày nghỉ của cả hai chúng ta. - Cô đỏ mặt. Wilham ngồi im lặng.

Cuối cùng cô mạnh bạo nói tiếp.

- Tôi biết rằng nói thế này là điên rồ, nhưng anh cũng cần hiểu là tôi ở đây rất cô đơn. Hình như trong mấy ngày qua tôi cảm thấy vui hơn bao giờ hết. Cô lại đỏ mặt. - Tôi nói như vậy dở quá và anh sẽ nghĩ không hay về tôi.

Tim William đập rộn lên.

Kate, trong chín tháng qua, tôi cũng chỉ muốn mình nói được dở như thế thôi.

- Vậy anh ở thêm ít ngày chứ, William?

- Vâng, tôi sẽ ở lại, Kate.

Đêm đó, cô xếp cho anh ở phòng khách lớn trong ngôi nhà Buckhurt, Mấy ngày đó, William sau này sẽ nhớ mãi, coi đó như một đoạn đời sung sướng nhất của mình. Anh đua ngựa với Kate và cô vượt anh....

Anh đi bơi với cô, và cô cũng bỏ xa anh. Anh đi tản bộ với cô và bao giờ cũng quay về trước. Cuối cùng, anh xoay ra chơi đánh bài với cô, và trong ba tiếng rưỡi thắng 3,5 triệu đô la.

- Trả anh bằng séc nhé? - Cô trịnh trọng nói.

- Cô quên mất rằng tôi biết cô có bao nhiêu tiền ư?

Nhưng tôi sẽ làm như thế này nhé. Chúng ta cứ tiếp tục chơi cho đến khi nào cô giành lại được số tiền đó.

- Như thế sẽ phải mấy năm, - Kate nói.

- Tôi sẽ chờ, - William nói.

Rồi anh kể cho cô nghe nhưng chuyện trong quá khứ của mình, những chuyện mà ngay cả với Matthequ anh cũng không nói. Anh đã quý trọng bố anh như thế nào, yêu mẹ anh như thế nào, căm ghét Henry osborne ra sao, và những tham vọng của anh với Kane và Cabot. Còn cô thì kể cho anh nghe hồi bé đã sống ở Boston thế nào, đi học ở Virginia ra sao, và kể đến chuyện lấy chồng sớm với Max Brookes.

Bảy ngày sau, khi cô ra tiễn anh ở sân ga, anh đã hôn cô lần đầu.

- Kate, anh muốn nói một điều này rất tự tin với em nhé. Anh hy vọng một ngày kia em sẽ dành cho anh những tình cảm hơn cả đối với Max nữa.

- Em đã bắt đầu cảm thấy thế rồi, - Cô khẽ đáp.

Wilham đăm đăm nhìn cô.

- Em đừng ở ngoài cuộc đời anh chín tháng nữa. - Em làm thế sao được anh đã bán nhà của em đi rồi mà.

Trên đường trở về Boston, cảm thấy sung sướng và yên tâm hơn bất cứ lúc nào kể từ khi bố anh qua đời, William thảo một báo cáo về việc bán trang trại Buckhurt. Anh luôn luôn nghĩ về Kate và năm ngày vừa qua. Ngay trước lúc tàu vào ga phía Nam, anh vội viết mấy chữ gửi cho cô:

Kate, Anh cảm thấy đã nhớ em rồi đấy. Thế mà chỉ mới qua mấy tiếng đồng hồ thôi. Xin em viết thư và báo cho anh biết bao giờ em sẽ về Boston. Trong khi chờ đợi, anh trở về với công việc của ngân hàng, và nghĩ rằng chỉ có thể không nhớ đến em nhiều lắm là năm phút mà thôi.

Yêu em, William Anh vừa bỏ thư vào hòm thư ở phố Charles thì nghe có tiếng rao của trẻ bán báo, và bao nhiêu ý nghĩ về Kate bỗng biến đi đâu hết.

- Phố Wall đổ sụp đây! William vội mua một tờ và giở ngay đến chỗ có tin đó Chỉ qua một đêm thị trường đã tụt xuống ghê gớm. Một số nhà tài chính cho đó chỉ là chuyện điều chỉnh lại. Nhưng Wilham cho đó là bắt đầu của một quá trình xuống dốc mà anh đã dự kiến từ mấy tháng trước đây. Anh chạy vội về ngân hàng và đến thẳng văn phòng chủ tịch.

Tôi nghĩ về lâu về dài thị trường sẽ lại đứng lên được, - Alan Uoyd bình tĩnh nói.

- Không bao giờ, - William đáp. - Thị trường đã quá tải Wá tải vì những nhà đầu tư nhỏ tưởng là họ sẽ nhanh chóng có được lợi nhuận mà họ liều mạng lao vào đó ông có trông thấy một quả bóng sắp nổ bao giờ chưa? Tôi sẽ bán hết. Đến cuối năm thì thl trường sẽ cạn không còn gì. Và điều này tôi đã báo trước cho ông biết từ tháng hai rồi, Alan.

- Tôi vẫn chưa đồng ý với anh, William. Nhưng ngày mai tôi sẽ triệu tập toàn ban lãnh đạo, để có thể thảo luận chi tiết về những quan điểm của anh.

- Cảm ơn ông, - William nói. Anh quay về chỗ làm việc và nhắc điện thoại nội bộ lên.

Alan, tôi quên chưa nói với ông là tôi đã gặp cô gái tôi định lấy rồi.

Cô ta biết chưa? - Alan hỏi.

- Chưa, - William đáp.

À ra thế, - Alan nói. - Vậy là đám cưới của anh cũng rất giống như sự nghiệp ngân hàng của anh đấy, William. Bất cử ai trực tiếp hên quan cũng chỉ được biết sau khi anh đã quyết định rồi.

Wilham cười, nhấc một máy điện thoại khác lên và báo việc anh đưa những tài sản của anh ra thị trường bán lấy tiền mặt. Tony Simmons lúc đó vừa bước vào ông ta đứng sững ở cửa nhìn William, tưởng như anh đã hoá điên.

- Trong tình hình hiện nay anh làm thế thì chỉ trong một đêm là sẽ mất đến cả chiếc sơ mi của anh nữa đấy.

- Nếu tôi còn cố giữ thì mất hơn thế nữa kia, - William đáp.

Tuần sau đó, anh chịu mất thêm hơn một triệu đô la nữa. Nếu là người không vững tin ở mình thì hẳn anh đã lao đao rồi.

Trong cuộc họp ban lãnh đạo vào hôm sau, anh lại bị tám phiếu chống sáu phiếu thuận về đề nghị của anh thanh toán các chứng khoán của ngân hàng. Tony Simmons đã thuyết phục được ban lãnh đạo rằng nếu không cầm cự thêm ít lâu nữa thì thật là vô trách nhiệm. William chỉ giành được một thành công nhỏ là thuyết phục các giám đốc ngân hàng đừng có mua vào nữa.

Hôm đó thị trường có lên được một chút, khiến William có dịp bán thêm được một số cổ phiếu riêng của mình. Đến cuối tuần, khi chỉ số liên tiếp tăng lên trong bốn ngày liền, William bắt đầu tự hỏi không biết mình có làm quá đáng không, nhưng tất cả những gì anh đã học được là trực giác của anh cũng nhắc nhở cho anh biết rằng làm như thế là đúng.

Alan Lloyd không nói gì. Tiền mà William để mất đó không phải tiền của ông, vả lại ông đã đang chuần bị để lặng lẽ về hưu rồi.

Ngày 22 tháng Mười, thị trường lại tổn thất một phen nặng nề nữa và Wilham lại yêu cầu Alan Lloyd là lúc này còn cơ hội thì nên xuất đi thôi. Lần này Alan nghe anh và để cho William được quyền bán một số chứng khoán chủ yếu của ngân hàng. Ngày hôm sau thị trường lại tụt xuống một mức sâu hơn nữa.

Bây giờ ngân hàng muốn bán gì cũng không còn ai mua nữa. Chứng khoán bán hạ giá đến mức tất cả những nhà đầu tư nhỏ ở Mỹ ai cũng đua nhau tìm cách chạy vạy ngầm để khỏi thua thiệt. Những nhà buôn chỉ đến cuối ngày mới biết được mình đã thiệt mất bao nhiêu.

Alan Lloyd nói chuyện điện thoại với ngân hàng Morgan và đồng ý rằng Kane và Cabot sẽ cùng với một nhóm ngân hàng khác vực lại tình hình nguy ngập bằng những chứng khoán lớn nhất của mình William không phản đối chính sách này, vì anh nghĩ nếu là chủ trương của nhóm thì Kane và Cabot sẽ có tinh thần trách nhiệm hơn, vả lại nếu thành công thì các ngân hàng đều sẽ khá lên được, Richard Whitney, phó chủ tịch Thị trường chứng khoán New York cùng với đại diện của nhóm ngân hàng organ, hôm sau đã đến tận nơi làm cái việc đầu tư hẳn ba mươi triệu đô la vào đó. Thị trường bắt đầu chững lại. Trong ngày hôm đó, người ta bán được 12.894.650 cổ phiếu và hai hôm sau thị trường đứng vững. Mọi người, từ Tổng thống Hoover cho đến những người chạy hàng xách, đều tin rằng tình hình nguy ngập đã qua rồi. Willam đã bán hầu hết những cổ phiếu riêng của mình. Phần mất của cá nhân anh so với ngân hàng ít hơn nhiều. Trong bốn ngày, ngân hàng đã mất trên ba triệu đô la mặc dầu Tony Simmons đã chịu nghe những gì William gợi ý. Ngày 29 tháng Mười, ngày được gọi là thứ Ba Đen Tối, thị trường lại sụt xuống một lần nữa. Mười sáu triệu sáu trăm mười ba ngàn ba chục cổ phiếu phải đem bán. Các ngân hàng trên toàn quốc đều biết sự thật là bây giờ có bán cũng không ai mua nữa. Nếu như mỗi người khách hàng đòi phải có tiền mặt, hoặc giả không lưu hành những khoản tiền vay của họ nữa, thì toàn bộ hệ thống ngân hàng sẽ đổ sụp.

Cuộc họp ban lãnh đạo ngày chín tháng Mười một mở đầu bằng một phút tưởng niệm John J. Riordan, chủ tịch quỹ ủy thác của Wận và cũng là một trong những giám đốc Kane và Cabot, vì ông vừa tự sát ở nhà. Đó là vụ tự sát thứ mười một của các giới ngân hàng Boston trong vòng hai tuần. Người mới chết là bạn rất thân của Alan Lloyd. Ông Chủ tịch tuyên bố Kane và Cabot đã mất đi gần bốn triệu đô la, nhóm Morgan không thành công trong việc tập hợp các ngân hàng được, vì vậy bây giờ mỗi ngân hàng phải tự mình hành động sao cho có lợi nhất. Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ đều ngấm ngầm rút còn các nhà lớn hơn thì không sao có được tiền mặt. Đám đông quần chúng tức giận kéo đến trước các ngân hàng New York.

Người ta phải cho tăng cường thêm lính bảo vệ. Alan nói chỉ cần thêm một tuần như thế này nữa thôi là tất Cả chúng ta sẽ bị quét sạch. Ông xin từ chức, nhưng các giám đốc không chịu. Vị trí của ông bây giờ cũng chẳng khác gì bất cứ chủ tịch ngân hàng lớn nào ở Mỹ. Tony Simmons cũng xin từ chức nhưng các đồng sự giám đốc không ai tán thành. Xem ra ông ta cũng không còn hy vọng gì thay thế được Alan Doyd nữa, vì vậy William im lặng không hề nói gì.

Để thỏa hiệp trước tình hình, người ta phái Simmons đi London phụ trách chuyện đầu tư ở hải ngoại. Như vậy bây giờ William lên làm Giám đốc quản lý các khoản đầu tư của ngân hàng mà không còn vướng víu gì nữa. Anh lập tức mời Matthequ Lester về làm phó cho mình. Lần này, Alan Lloyd không ho he một lời nào.

Matthequ đồng ý với William vào đầu mùa xuân, vì chỉ đến lúc đó bố anh mới cho anh đi được. Bản thân Lester cũng không thiếu gì rắc rối. Do đó William phải một mình lo các chuyện của bộ phận đầu tư cho đến lúc Matthequ có thể về được. Mùa đông năm 1929 là một thời kỳ rất đáng thất vọng cho William vì các công ty lớn nhỏ do người Boston quản lý đều theo nhau thất bại. Đã có lúc anh tự hỏi không biết Kane và Cabot còn có thể sống sót được không.

Nghỉ lễ Giáng sinh, Wilham về Phorida sống một tuần sung sướng với Kate, giúp cô gói ghém đồ đạc để trở về Boston. Cô nói đùa là những thứ quà Giáng sinh của William cho cô cũng đủ chật một hòm rồi và Kate áy náy thấy anh đối với cô rộng rãi thế.

Một người đàn bà góa không còn một xu dính túi bây giờ biết tặng lại anh gì đây? - Cô nhạo anh Wilham trả lời bằng cách buộc cô vào một cái hòm còn lại và đề chữ vào đó "Tặng phẩm cho William".

Anh trở về Boston trong lòng hết sữc phấn khởi. hy vọng lần này Kate sẽ cùng với anh báo hiệu cho một năm mới tốt lành hơn. Anh ngồi vào chỗ cũ của Tony Simmons đọc các thư từ gửi đến buổi sáng và biết rằng mình sẽ phải chủ toa. vài ba cuộc họp thanh toán dự kiến trong tuần đó. Anh hỏi cô thư ký xem mình sẽ phải gặp ai trước.

- Có lẽ lại một vụ phá sản nữa, thưa ông Kanne - À phải, tôi nhớ ra rồi, - William nói. Cál tên đó đối với anh không có nghĩa gì. - Đêm qua tôi đã xem hồ sơ rồi. Vụ này thật là rất không may. Bao giờ ông ta đến?

- Mười giờ, nhưng ông ta đã đang ngồi ngoài hành lang chờ ông rồi.

- Thế ư? Wilham nói. - Xin cô cho ông ấy vào. Ta giải quyết cho xong việc này đi đã.

quilliam lại mở hồ sơ để nhanh chóng nhớ lại những sự việc chính. Trong hồ sơ có một dòng gạch ngang tên khách hàng cũ là ông Davis Leroy nào đó.

Tên đó được thay thế bằng tên người khách đến sáng nay, Abel Rosnovski.

William nhớ lại rất rõ câu chuyện trước đây anh đã nói với ông Rosnovski và bây giờ anh lấy làm tiếc.
 
Hai Số Phận - Chương 16
Phải mất đến ba tháng Abel mới thấy được hết các vấn đề nghiêm trọng của Richmond Continental và anh hiểu tại sao khách sạn lại mất đi lắm tiền thế. Sau mười hai tuần lễ mở to mắt ra mà nhìn nhưng đồng thời lại phải cố làm cho mọi người tưởng anh lơ mơ không thấy gì, anh đã đi đến kết luận đơn giản, đó là:

lợi nhuận của khách sạn đã bị đánh cắp. Tất cả bộ máy nhân viên Richmond đều ăn cánh với nhau để làm việc đó, với một quy mô mà Abel không thể ngờ tới. Và bộ máy đó không thèm đếm xỉa gì đến người phó quản lý mới, một con người đã từng biết ăn cắp bánh mì trong trại giam để mà sống sót được. Vấn đề đầu tiên đối với Abel bây giờ là làm thế nào đề không ai biết anh đã phát hiện ra chuyện đó. Anh còn tiếp tục quan sát vào từng bộ phận nhỏ trong khách sạn đã. Chẳng bao lâu, anh đà thấy rõ mỗi bộ phận đều hoàn thiện cách riêng của nó để ăn cắp tài sản cho trôi.

Trước hết là ở quầy tiếp tân. Ở đây nếu có mười khách thì họ chỉ ghi tên tám người, còn tiền của hai người kia bỏ túi. Cách họ làm rất đơn giản. Nếu là ở khách sạn Plaza New York thì chỉ trong vài phút người ta có thể phát hiện ra ngay và nhân viên làm việc đó bị đuổi tức thì. Anh phụ trách quầy tiếp tân thường chọn một đôi vợ chồng già nào đó từ một bang khác đến đặt phòng và chỉ ở lại một đêm. Anh ta sẽ bí mật tìm hiểu xem đôi vợ chồng ấy có việc gì liên quan đến người khác trong thành phố hay không, nẽu không thì họ chỉ việc coi như quên không ghi tên khách vào sổ. Sáng hôm sau nếu họ trả tiền mặt thì tiền đó được bỏ vào túi ngay, miễn là khách không ký vào sổ và như thế thì không có chứng cứ nào là khách đã từng ở khách sạn này. Từ lâu, Abel nghĩ rằng mọi khách sạn đều phải ghi tên từng người khách. Trước đây ở Plaza anh đã thấy họ làm thế rồi.

Trong nhà ăn, hệ thống ăn cắp rất tế nhị. Tất nhiên những khách nào không phải người trú trong khách sạn thì ăn trưa hay ăn tối đều trả tiền mặt.

tự nhiên, Abel dần dần phát hiện rằng giữa quầy tiếp tân với nhà ăn có liên lạc để báo cho nhau biết là với những khách nào không đăng ký trong sổ bên ngoài thì trong nhà ăn cũng không có hóa đơn. Ngoài ra thường luôn luôn có những chuyện bày ra để sửa chữa, thay thế những đồ hỏng vỡ mất mát, từ những đồ tiện nghi đến lương thực, khăn trải giường và thỉnh thoảng còn mất cả đệm nữa. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng từng bộ phận, Abel đi đến kết luận là quá nửa số nhân viên trong khách sạn Richmond đều có dính líu đến những vụ ăn cắp này. Không một bộ phận nào trong khách sạn có được bộ mặt hoàn toàn trong sạch.

Lúc mới đến Richmond, Abel lấy làm lạ tại sao Desmond Pacey, người quản lý, lại không thấy được những chuyện diễn ra trước mũi ông ta trong một thời gian dài như vậy. Anh đã cho rằng ông ta lười và không thích nhữag chuyện kêu ca phàn nàn, thế thôi.

Ngay bản thân Abel cũng không thấy ngay được chính người quản lý lười ấy là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả những vụ ăn cắp này, và vì nó hoạt động rất khéo nên anh không nhận ra ngay được. Pacey đã làm việc cho công ty Richmond này hơn ba chục năm rồi. Ông ta đã lần lượt ở cương vị quản lý của tất cả những khách sạn của công ty. Hơn thế nữa, Desmond Pacey còn là bạn riêng của Davis Leroy. Như vậy, khách sạn Richimond ở Chicago mỗi năm mất đi hơn ba không.000 đô la, một tình hình mà Abel tính rằng có thể giải quyết ngay được nếu đuổi một số đông nhân viên, và bắt đầu bằng việc đuồi chính Desmond Pacey. Chuyện này sẽ thành vấn đề ngay, vì trong ba chục năm nay Davis Leroy hầu như không đuổi một nhân viên nào.

ông ta rộng lượng, và hy vọng rằng đến một lúc nào đó chẳng phải sa thải họ cũng đi. Nhưng Abel thì cho rằng những người như thế sẽ chẳng bao giờ đi, trái lại họ còn tiếp tục ăn cắp cho đến lúc khách sạn Richmond không còn gì nữa.

Abel biết rằng cách duy nhất có thể cứu vãn được khách sạn là làm một cuộc thử thách cuối cùng nữa với Davis Leroy. Để thực hiện mục đích ấy, đầu năm 1928, anh đi chuyến tàu tốc hành từ ga ilhnois đến St Louis rồi từ đó chuyển sang tàu Missouri Paciphic về Dallas:

Anh mang theo một bản báo cáo 200 trang mà anh đã bỏ sức tập hợp liền trong ba tháng ở căn phòng nhỏ trong khu phụ của khách sạn. Sau khi Davis Leroy đọc xong tất cả những chứng cớ anh thu thập được, ông ta ngồi nhìn Abel bằng con mắt ngạc nhiên và thất vọng.

ông ta gấp hồ sơ lại và nói:

Những người này đều là bạn của tôi cả. Một số trong những người đó đã làm việc với tôi ba chục năm nay rồi. Tất nhiên trong cái nghề này bao giờ cũng có chút lừa dối, nhưng tôi không ngờ họ lại cướp bóc của tôi đến mức này.

- Phải nói là một số những người đó đã ăn cắp của ông suốt từ ba chục năm nay. - Abel nói.

Bây giờ tôi biết làm thế nào đây? - Leroy nói.

- Tôi có thể chấm dứt ngay được chuyện thối nát này nếu ông loại bỏ Desmond Pacey và cho tôi toàn bộ quyền sa thải ngay tất cả những ai có dính líu đến các vụ ăn cắp.

Này anh Abel, tôi nghĩ có lẽ vấn đề không đơn giản như vậy được đâu.

- Vấn đề rất đơn giản, - Abel nói. - Nếu ông không cho tôi cái quyền đối xử với những thủ phạm ấy, thì tôi xin từ chức ngay từ phút này, vì tôi không có lợi ích gì trong việc làm một phần của cái khách sạn tham nhũng nhất ở nước Mỹ này.

- Hay ta giáng chức Desmond Pacey xuống làm phó quản lý? Như vậy tôi sẽ đưa anh lên làm quản lý và anh sẽ có thể kiểm soát được tình hình?

- Không được đâu, Abel đáp, - Pacey còn hai năm nữa mới phải đi, mà ông ta thì nắm chắc tất cả nhân viên Richmond. Đến lúc tôi chấn chỉnh được ông ta lại rồi thì ông cũng không còn hoặc bị phá sản hoặc cả hai. Tôi ngờ rằng tất cả những khách sạn khác của ông đều đang được quản lý theo cách ăn cắp như thế.

Nếu ông muốn xoay chuyển lại tình hình ở Chicago thì ông phải có một quyết định cứng rắn về Pacey ngay từ bây giờ, không thì sẽ nguy cho ông lắm. Tùy ông thôi.

- Những người Taxas chúng tôi nổi tiếng là hay nói thẳng những điều mình nghĩ, nhưng xem ra vẫn chưa bằng anh được, Abel. Thôi được, thôi được, tôi giao quyền cho anh ngay bây giờ. Chúc mừng anh. Anh là người quản lý mới của Richmond ở Chicago. Chúc mừng anh. Chờ để tôi báo cho Al Capone biết là anh về Chicago nhé. Ông ta sẽ về đây hưởng cái bình yên ở vùng Tây Nam này. - Leroy đứng dậy vỗ vai anh quản lý mới của mình và nói tiếp. - Abel này, anh đừnag tưởng tôi là người không biết ơn đâu. Anh đã làm được một công việc rất có giá trị Ở Chicago, và từ nay trở đi tôi sẽ coi anh như cánh tay phải của tôi.

Thực tình mà nói, Abel ạ, tôi làm ăn với Thị trường Chứng khoán cũng rất khá nên tôi không để ý được đến những chuyện mất mát như vậy. Cảm ơn Chúa tôi lại có được một người bạn trung thực đấy. Anh ở lại đêm và ăn với tôi một chút chứ.

- Tôi sẽ rất sung sướng được cùng ăn với ông, ông Leroy, nhưng tôi muốn ở lại đêm tại khách sạn Richmond Dallas vì có vài lý do riêng.

- Anh không để cho ai được thoát tội chứ, Abel?

- Nếu tránh được thì tôi tránh.

Tối hôm đó, Davis Leroy mời Abel ăn một bữa thịnh soạn và cho anh uống hơi nhiều rượu quhisky ông ta bảo tục lệ Ở miền Nam này đãi khách là phải như vậy. Ông ta còn nói với Abel rằng ông ta đang tính xem có ai đó quản lý cho toàn bộ hệ thống khách sạn Richmond để ông còn rảnh tay làm việc khác.

- Chắc là ông chả muốn đến cái thằng Ba Lan ngốc nghếch chứ? Abel nói, lúc này đã hơi líu lưỡi vì say.

- Abel, chính tôi mới là ngốc ngếch. Nếu như anh không khui được ra những thằng ăn cắp thì có lẽ tôi đến hỏng bét cả. Bây giờ biết được sự thật như thế rồi, chúng ta sẽ cho tất cả bọn nó một trận, rồi tôi để cho anh có cơ hội khôi phục lại cả Công ty Richmon và làm cho trở lại nổi như trước.

Abel nâng cốc lên, tay run run.

- Tôi xin uống chúc mừng cho điều đó, và chúc cho sự cộng tác của chúng ta được lâu dài, thắng lợi.

- Làm tới đi, Abel.

Abel ngủ lại đêm ở khách sạn Richmond Dallas.

Anh cho họ một cái tên giả, và bảo với quầy tiếp tân là anh chỉ có ở một đêm. Buổi sáng, anh theo dõi thấy biên lai chỉ có một bản và sau khi anh trả tiền rồi thì họ vứt luôn nó vào sọt rác, do đó những nghi ngờ của anh về các khách sạn Richmond khác càng được khẳng định Vấn đề không phải có ở Chicago. Anh quyết định sẽ thanh toán xong ở Chicago trước đã, rồi sẽ tính đến nhữag vụ ăn cắp của toàn công ty sau.

Anh gọi điện thoại cho Davis Leroy để báo cáo ông biết rằng anh đã phát hiện ra chuyện ăn cắp kia ở một khách sạn nữa của công ty.

Abel trở về Chicago cũng bằng con đường đã đi. Thung lũng Mississippi trải rộng ngoài tầm mắt từ cửa sổ xe lửa nhìn ra. Cảnh lụt lội từ năm ngoái vẫn còn dấu vết. Abel nghĩ bụng về đến Richmond Chicago anh sẽ cho họ một phen chẳng kém gì cảnh lụt lội này.

Đến nơi, anh không thấy có người phục vụ ban đêm ở khách sạn, tìm mãi chỉ thấy có một nhân viên trực.

Abel quyết định để cho tất cả đám họ ngủ một đêm ngon lành đã, rồi sáng mai sẽ mời họ chia tay. Một chú nhỏ sai vặt ra mở cửa trước cho anh về căn phòng ở nhà phụ.

- Ông đi mạnh khỏe chứ ạ, ông Rosnovski, - Chú bé hỏi.

- Tốt, cảm ơn chú. Ở nhà thế nào?

- Ôi rất yên ổn.

Được rồi đến mai chú sẽ còn thấy yên ổn hơn nữa, Abel nghĩ bụng, nhất là nhân viên còn lại sẽ chỉ có mình chú.

Abel bỏ đồ xuống rồi gọi bộ phận phục vụ phòng cho anh ăn nhẹ. Phải hơn một giờ sau họ mới đem lên. Uống cà phê xong, Abel cởi quần áo vào tắm nước lạnh, đầu nghĩ đến một kế hoạch cho ngày hôm sau.

Anh đã chọn đúng lúc trong năm để phục vụ "thảm sát', này. Bây giờ mới chỉ là đầu tháng hai và khách sạn chỉ có chừng 25 phần trăm khách. Abel tin rằng chỉ với một nửa số nhân viên hiện nay là đủ cho khách sạn Richmond hoạt động. Anh trèo lên giường, vứt bỏ gối xuống sàn, rồi lăn ra ngỉl say như chú bé nhân viên kia vậy.

Desmond Pacey, người mà ai ở Richmond cũng gọi ông ta là Pacey Lười, nay đã sáu mươi ba tuổi. Ông ta béo quá mức, chân ngắn và đi lại rất chậm chạp.

Desmond Pacey đã từng chứng kiến bảy người phó quản lý đến khách sạn này và ra đi. Một số thì quá tham và muốn nhận về phần mình nhiều hơn, số khác thì không hiểu được cái hệ thống ăn cắp kia làm ăn thế nào. Ông ta cho rằng anh chàng Ba Lan này cũng chẳng thông minh gì hơn những anh trước đây. Ông ta thủng thẳng đi đến văn phòng Abel để chuẩn bị họp vào mười giờ, miệng ti tỉ hát. Lúc này đã mười giờ mười bảy phút rồi.

- Xin lỗi để anh phải chờ, - Ông quản lý nói nhưng không có vẻ xin lỗi gì hết.

Abel không nói câu nào.

- Tôi đang bận chút việc ở quầy tiếp tân, chắc anh biết là việc gì rồi.

Abel biết quá đi chứ. Anh từ từ mở ngăn kéo bàn, lấy ra để trước mặt ông ta bốn chục tờ biên lai đã nhầu nát, có tờ bị xé làm bốn năm mảnh. Đó là những biên lai anh nhặt lại từ trong sọt rác hoặc những đĩa gạt tàn thuốc lá, những biên lai đã được khách trả tiền mặt nhưng không bao giờ được ghi vào sổ. Anh nhìn ông quản lý béo lùn cầm những mảnh giấy đó lên xem mà chưa biết là gì.

Desmond Pacey không thể hiểu được thật. Mà ông ta cũng không cần hiểu làm gì. Ông chẳng có chuyện gì đáng phải lo. Nếu như anh chàng ngốc Ba Lan này định chơi vào hệ thống ăn cắp của ông ta thì hoặc là ông cho anh hưởng một chút nào đó, hoặc là anh cuốn xéo đi chỗ khác, vậy thôi. Pacey nghĩ bụng không biết mình có thể cho anh ta được bao nhiêu phần trăm.

Có lẽ lúc này cho anh ta được ở trong một căn phòng tử tế thì bịt miệng được đấy.

- Ông bị đuổi, thưa ông Pacey, và tôi yêu cầu ông đi khỏi nơi này trong vòng một giờ.

Desmond Pacey hầu như không nghe anh nói những lời ấy vì ông ta không thể nào tin như vậy được - Anh vừa nói gì thế? Tôi không nghe rõ.

- Ông nghe rõ rồi, - Abel nói. - Ông bị đuổi.

- Anh không thể đuổi tôi được. Tôi là người quản lý và tôi đã làm việc với công ty Richmond trên ba mươi năm nay rồi. Nếu có chuyện phải đuổi ai thì tôi là người làm cái việc đó. Lạy Chúa, anh tưởng anh là ai thế?

- Tôi là người quản lý mới.

- Sao?

- Người quản lý mới. - Abel nhắc lại. - Ông Leroy vừa chỉ định tôi hôm qua, và bây giờ tôi đuổi ông đó, ông Pacey.

- Về tội gì?

- Về tội ăn cắp có quy mô. - Abel giơ những tờ biên lai đó lên để ông ta nhìn rõ hơn bằng cặp kính của mình. - Mỗi một người khách này đều trả tiền cả, nhưng không có một xu nào của họ rơi vào quỹ của Richmond. Và hóa đơn nào cũng có chữ ký của ông trong đó.

- Đến một trăm năm nữa anh cũng chả chứng minh được gì hết.

- Phải, tôi biết, - Abel nói. - Ông tổ chức một bộ máy giỏi lắm. Nhưng ông có thể đem bộ máy ấy đi hoạt động ở chỗ khác, còn ở đây thì vận của ông đã hết rồi. Ông Pacey ạ, người Ba Lan có câu phương ngôn cổ như thế này:

Bình có quai thì mới xách được nước. Bây giờ quai đã gẫy rồi, và ông thì bị đuổi.

- Anh không có quyền đuổi tôi. - Pacey nói. Mồ hôi toát ra ướt hết cả trán ông ta. - Davis Leroy là bạn thân của tôi. Chỉ ông ta mới có quyền đuồi tôi thôi.

Anh là người từ New York mới lên đây được ba tháng. Dù anh có nói với ông ta thì ông ta cũng chẳng nghe. Tôi chỉ cần gọi điện thoại một cái là có thề vứt anh ra khỏi khách sạn này.

ông gọi đi. - Abel nói. Anh nhắc điện thoại lên và bảo tổng đài cho nói chuyện với Davis Leroy ở Dallas.

Hai người nhìn nhau và chờ. Bây giờ mồ hôi đã nhỏ giọt xuống đến đầu mũi Pacey. Abel chợt nghĩ trong bụng không biết ông chủ mình có còn kiên quyết nữa không.

- Xin chào ông Leroy. Đây là Abel Rosnovski gọi từ Chicago. Tôi vửa đuổi Desmond Pacey và ông ta muốn nói chuyện với ông một câu.

Pacey run rẩy cầm lấy điện thoại. Ông ta chỉ nghe một lát.

- Nhưng, Davis, tôị... tôi biết ìàm thế nào? Tôi thề với ông là không phải như vậỵ... Hẳn có sự nhầm lẫn gì đây Abel nghe thấy tiếng điện thoại ngắt.

- Một giờ nữa, ông Pacoy, - Abel nói. - Nếu không tôi sẽ đưa những tờ biên lai này sang Cảnh sát Chicago.

- Khoan đã, - Pacey nói. - Anh đừng vội thế. - Giọng nói và cử chỉ của ông ta đã thay đổi hẳn. - Chúng tôi có thể đưa anh nhập vào hệ thống hoạt động này. Nẽu chúng ta cùng quản lý khách sạn thì anh sẽ có thu nhập rất khá. Sẽ có nhiều tiền hơn lúc anh làm phó quản lý cơ. Mà chúng ta đều biết Davis sẽ có thể chấp nhận được những mất mát....

- Tôi không còn là phó quản lý nữa, ông Pacey. Tôi là quản lý rồi. Vậy mời ông đi cho, đừng để tôi phải tống đi.

- Thằng Ba Lan khốn nạn, - Ông ta nói, biết rằng mình đã chơi đến con bài cuối cùng rồi nhưng không được - Anh liệu mà mở to đôi mắt của anh ra nhé, anh Ba Lan ạ, rồi tôi sẽ cho anh biết tay.

ông ta nói rồi bỏ ra. Đến giờ ăn trưa thì một loạt những người khác cũng theo gót ông ta ra ngoài đường từ trưởng nhà bàn, nhà bếp, nhà phòng, đến trưởng quầy tiếp tân, trực cửa cùng với mười bẩy nhân viên khác của Richmond mà Abel cho rằng không thể nào tha thứ được. Đến chiều, anh triệu tập tất cả những người làm việc còn lại, giải thích cho họ nghe chỉ tiết những việc anh đã làm và tại sao phải làm để đảm bảo cho mọi người biết rằng công việc của họ không có gì đáng lo ngại nữa.
 
Nhưng Abel cũng nói:

- Nếu tôi còn tìm thấy một đô la nào, chỉ một đô la thôi, không được để vào đúng chỗ của nó thì người liên quan sẽ bị đuổi ngay tức thì, mà không cần phải lý giải gì nữa. Các anh nghe rõ cả rồi chứ?

Không ai nói gì.

Trong mấy tuần lễ sau đó, nhiều nhân viên khác của Richmond cũng bỏ đi sau khi họ thấy rằng Abel không có ý định làm như Desmond Pacey trước đây và cũng không kiếm lợi gì vào đó cho riêng mình. Nhưng họ bỏ đi thì có người khác vào thay ngay.

Vào cuối tháng ba, Abel mời bốn người của khách sạn Plaza về làm việc ở Richmond. Những người này có ba điều giống nhau:

trẻ, nhiều tham vọng và lương thiện. Trong sáu tháng liền, chỉ có 37 người so với 110 người trước kia còn làm việc trong khách sạn Richmond. Vào cuối năm đầu, Abel mở một chai sâm banh thật to để cùng với Davis Leroy chúc mừng Richmond Chicago đã làm ăn có lãi. Lợi nhuận được 3.468 đô la. Số tiền lãi tuy nhỏ, nhưng là khoản lãi đầu tiên của khách sạn kể từ khi nó ra đời đến nay ba chục năm. Abel dự kiến sang năm 1929 sẽ thu lợi nhuận trên 25.000 đô la.

Davis Leroy rất vui mừng. Mỗi tháng ông ta lên thăm Chicago một lần, và bắt đầu tin tưởng ở các ý kiến của Abel. Ông ta còn thừa nhận rằng cái gì đã đúng với Richmond Chicago cũng sẽ đúng với tất cả những khách sạn khác của công ty. Abel thì muốn để xem khách sạn ở Chicago hoạt động trôi chảy như một xí nghiệp làm ăn đứng đắn và có lãi đã rồi mới xét đến những nơi khác. Leroy đồng ý và hứa sẽ dành cho Abel cương vị cộng tác ở các nơi khác thuộc công ty như dã làm ở Chicago.

Mỗi lần Davis đến Chicago, họ cùng chơi dã cầu và đua ngựa với nhau. Một lần, Davis thua mất 700 đô la mà không giành được tí gì trong cả sáu cuộc đua ngựa, ông ta giơ hai tay lên trời than vãn:

- Ôi, tôi cần gì phải bận tâm đến chuyện ngựa nữa, Abel nhỉ? Cứ đua với anh là đủ rồi.

Cô Melanie Leroy mỗi lần cũng đi theo bố về đây.

Cô xinh đẹp nhưng lạnh lùng, người nhỏ nhắn có đôi chân hấp dẫn và thu hút sự chú ý của mọi người trong khách sạn. Đối với Abel, cô có vẻ cao ngạo khiến anh muốn nói chuyện làm thân gì với cô cũng khó. Cô ta cũng không để cho anh được gọi bằng cái tên thân mật "Melanie" mà phải gọi bằng "Cô Leroy" hẳn hoi.

Mãi về sau cô ta mới biết rằng anh tốt nghiệp bằng kinh tế ở Đại học Columbia và còn hiểu biết về tiền nong hơn cô rất nhiều. Từ đó, cô ta nói năng có vẻ dịu dàng hơn và thỉnh thoảng còn đến ăn một mình trong khách sạn với Abel và nhờ anh giúp cho trước khi cô thi lấy bằng Nghệ thuật Tự do ở trường Đại học Chicago. Mỗi lúc một mạnh bạo hơn, thỉnh thoảng Abel cùng cô đi nghe hoà nhạc, xem hát, và đôi khi cũng cảm thấy hơi ghen mỗi khi cô đưa bạn trai đến ăn ở khách sạn mặc dầu mỗi lần đến cô đi với một bạn khác.

Dưới bàn tay quản lý vững chắc của Abel, nhà bếp trong khách sạn đã cải tiến được rất nhiều món ăn ngon, đến nỗi có những người đã ở Chicago ba chục năm nay nhưng chưa hề biết là có khách sạn này, bây giờ cũng gọi đến giữ chỗ ở nhà ăn vào mỗi tối thứ bảy.

Abel cho trang trí lại toàn bộ khách sạn - Đã hai chục năm nay bây giờ mới được trang trí - Và cho các nhân viên ăn mặc đồng phục bằng các màu xanh và vàng.

Có một người khác mỗi năm thường về ở Richmond, một tuần và cứ đều như thế một chục năm nay, vừa bước vào cửa khách sạn đã lại quay ra, tưởng mình vào nhằm khách sạn khác. Khi Al Capone đặc tiệc cho mười sáu người trong một phòng riêng của khách sạn để mừng ngày sinh nhật, lần thứ ba mươi của ông ta, Abel biết rằng như thế là anh đã đạt tới đỉnh cao của con đường sự nghiệp.

Trong khi thị trường chứng khoán phát triển thì tài sản riêng của Abel cũng tăng thêm. Mười tám tháng trước kia anh rời khách sạn Plaza thì vốn liếng chỉ có 8.000 đô la, bây giờ tài khoản anh đã lên đến ba không.000 đô la. Anh tin rằng giá thị trường sẽ còn tăng lên nữa, vì vậy bao giờ anh cũng lấy tiền lợi nhuận ra tái đầu tư nữa. Những yêu cầu cá nhân của anh vẫn còn rất khiêm tốn. Anh đã sắm được hai bộ quần áo mới và một đôi giầy nâu mới. ăn ở do khách sạn cung cấp, và anh cũng không có gì phải chi tiêu ngoài.

Tương lai của anh xem ra là sáng sủa. Công ty Richmond vẫn có tài khoản trong ngân hàng Continental từ hơn ba chục năm nay, vì vậy khi mới đến Chicago anh đã cho chuyển tiền của mình về ngân hàng này. Hằng ngày ra ngân hàng gửi số tiền khách sạn thu được ngày hôm trước. Vào một buổi sáng thứ sáu, anh ngạc nhiên thấy có người nhắn là giám đốc ngân hàng muốn gặp anh nói chuyện. Anh biết rằng không thể có chuyện tài khoản riêng của mình bị rút ra quá mức bao giờ, vì vậy anh đoán chắc là cuộc gặp này có cái gì đó liên quan đến Richmond.

Chắc cũng không thể có chuyện tài khoản của khách sạn không đủ để trả nợ cho ngân hàng, nếu có thì ba chục năm nay bây giờ mới là lần đầu. Một nhân viên trẻ của ngân hàng dẫn Abel đi qua dãy hành lang đến trước một khung cửa gỗ rất lịch sự. Một tiếng gõ khẽ, rồi người ta đưa anh vào gặp giám đốc.

- Tên tôi là Ctưtis Phenton, - Người đứng sau bàn giấy tự giới thiệu và đưa tay ra bắt tay Abel, mời anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây. Trông người ông ta tròn trĩnh, gọn gàng đeo đôi mắt kính bán nguyệt, cổ sơ mi trắng bong với chiếc cavát đen đi với bộ đồ ba mảnh của ông chủ ngân hàng.

Cảm ơn ông, - Abel bứt rứt nói. Không khí lúc này khiến anh nhớ lại cuộc gặp gỡ trước đây nỗi lo ngại là không biết rồi cái gì sẽ xảy ra.

Lẽ ra tôi mời ông cùng ăn trưa để nói chuyện thì tốt hơn , thưa ông Rosnovskị.. , nhưng...

Abel sững người. Anh quá biết rằng những ông chủ ngân hàng này chẳng dễ gì mời ai ăn không mất tiền nếu như họ không có những điều phiền toái muốn nói cho anh nghe.

- Nhưng có một vấn đề vừa xảy ra cần phải được giải quyết nên tôi muốn được cùng bàn với ông ngay.

Tôi xin đi thẳng vào vấn đề, thưa ông Rosnovski. Một trong những vị khách hàng đáng kính nhất của chúng tôi một bà có tuổi, bà Amy Leroỵ... Abel nghe nói đến tên đó ngồi thẳng ngay dậy,.... bà ta nắm trong tay hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của Công ty Richmond. Trước đây bà ta đã nhiều lần muốn chuyển những cổ phiếu đó sang tay ông em là Davis Leroy, nhưng ông ấy hoàn toàn không quan tâm gì đến việc mua lại nhữag cổ phiếu của bà Amy hết. Tôi có thể hiểu được những lý lẽ của ông Leroy. Ông ấy vốn đã có bảy mươi lăm phần trăm cổ phiếu của công ty rồi, chả cần phải bận tâm gì đến chỗ hai mươi lăm phần trăm còn lại kia nữa. Tài sản này là do các cụ để lại cho hai người. Nhưng bà Amy thì cứ muốn ìà đem bán những cổ phiếu ấy đi vì cứ để như thế nó sẽ chẳng bao giờ sinh lãi được.

Abel nghe chuyện đó không lấy làm ngạc nhiên chút nào.

ông Leroy cho biết là ông không phản đối việc bà Amy muốn đem bán những cổ phiếu ấy. Bà ta thì nghĩ rằng ở cái tuổi già nua hiện nay, thà có ít tiền để chi trước mắt còn hơn là cứ ngồi đó chờ cho đến khi công ty làm ăn có lãi thì không biết bao giờ. Do đó, thưa ông Rosnovski, tôi sẽ rất hoan nghênh nếu như ông biết có người nào quan tâm đến việc mua bán khách sạn và từ đó quan tâm đến việc mua những cổ phiếu này chăng?

- Bà Leroy định bán những cổ phiếu ấy với giá bao nhiêu? - Abel hỏi.

- Ồ tôi nghĩ bà ấy chỉ cần bán lấy sáu mươi lăm ngàn đô la thôi.

- Sáu mươi lăm ngàn thì hơi cao đối với loại chứng khoán không đem lại chút lời lãi nào, - Abel nói. Anh nói thêm, - Và trong những năm tời nó cũng chẳng có hy vọng gì hơn.

A, nhưng ông nên nhớ rằng người ta còn tính đến giá trị của cả mười một khách sạn kia nữa. - Crutis Phenton nói.

- Nhưng việc kiểm soát công ty vẫn là ở trong tay ông Leroy, như vậy thì hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của bà Leroy kia chẳng qua chỉ là những mẩu giấy thôi, không có nghĩa gì.

- Thôi thôi ông Rosnovski ơi, hai mươi lăm phần trăm của mười một khách sạn là cổ phần rất có giá trị, vậy mà chỉ có sáu mươi lăm ngàn đô la thôi đấy.

- Không có giá trị gì chừng nào ông Davis ieroy vẫn nắm quyền kiểm soát toàn bộ. Ông nói với bà Leroy là chỉ nên bán lấy bốn chục nghìn đô la thôi, ông Phenton ạ, như thế thì may ra tôi kiếm được người nào đó quan tâm đến chuyện này cho ông.

- Ông không thể nghĩ là người đó có khả năng trả được cao hơn một chút sao? - Ông Phenton nhướng đôi lông mày khi ông nói đến chữ cao hơn.

- Hơn một xu nữa cũng chả có đâu, ông Phenton.

ông chủ ngân hàng chụm đầu ngón tay vào nhau, tỏ vẻ đánh giá Abel không phải vừa.

- Vậy để tôi hỏi lại bà Amy xem ý kiến bà ấy thế nào. Tôi sẽ liên hệ và báo cho ông biết ngay nhé.

Rời văn phòng Curtis Phenton bước ra, tim Abel cũng đập rộn lên như lúc anh bước vào vậy. Anh vội quay về khách sạn kiểm tra vốn liếng của mình. Tài khoản của anh hiện nay đang là 33.112 đô la với tiền riêng ở ngoài là 3.008 đô la. Kiểm lại xong, Abel định tiếp tục làm việc như mọi ngày thường, nhưng đầu óc anh khó tập trung, không biết rằng cái bà Amy Leroy kia sẽ phản ứng với cái giá anh trả ra sao, anh nghĩ bụng không biết nếu mình nắm trong tay 25 phần trăm lãi suất của công ty Richmond thì tình hình sẽ ra thế nào.

Anh ngập ngừng mãi rồi mới báo cho Davis Leroy biết chuyện này. vì anh sợ rằng ông bạn Texas rất khôn ngoan kia có lẽ cho những tham vọng của anh là một thứ đe dọa gì chăng. Sau vài ngày suy nghĩ kỹ, anh cho rằng cứ nên đàng hoàng gọi cho Davis và báo cho ông ta biết những ý muốn của anh.

- Tôi muốn nói để ông biết tại sao tôi làm điều này, Davis. Tôi tin rằng công ty Richmond sẽ có một tương lai sáng sủa, và ông có thể tin chắc rằng do có tiền của tôi nằm trong đó thì tôi sẽ càng làm việc cật lực hơn. - Anh ngừng lại, rồi nói tiếp:

- Nhưng nếu ông muốn nhận cả hai mươi lăm phần trăm đó về cho ông thì tôi cũng thông cảm.

Anh lấy làm ngạc nhiên thấy ông ta không hám. - Thế này nhé, Abel. Nếu anh tin tưởng ở công ty thì anh cứ việc mua chỗ cổ phiếu đó của Amy đi. Tôi sẽ lấy làm tự hào có anh làm người cùng chung vốn.

Thế là được rồi đấy. Nhân đây, tôi cũng báo cho anh biết là tuần sau tôi sẽ mua thêm nhà chơi của Hội Sư tử Đỏ Thế nhé.

Abel vui mừng hết sức.

- Xin cảm ơn ông, Davis. Ông sẽ không bao giờ phải ân hận về quyết định này của ông.

- Tôi cũng tin như vậy, anh bạn chung vốn ạ. Một tuần sau, Abel trở lại ngân hàng. Lần này, chính anh là người xin gặp ông giám đốc. Lại một lần nữa, anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây và chờ ông Phenton nói.

- Tôi rất ngạc nhiên thấy rằng - Curtis Phenton bắt đầu nói nhưng không có vẻ gì ngạc nhiên. - Bà Leroy chấp nhận số tiền bốn chục ngàn đô la để bán hai mươi lăm phần trăm cồ phiếu của bà ta trong công ty Richmond. - Ông ta ngừng một lát rồi nhìn lên Abel.

Bây giờ đã được bà ta đồng ý như vậy rồi, tôi? xin hỏi ông có thể cho tôi biết ai là người mua những cổ phiếu ấy được không?

Vâng, Abel đáp một cách tin tưởng. - Tôi sẽ là người mua chính. - - À vâng, thưa ông, Rosnovski, - Giọng ông ta vẫn không tỏ ra ngạc nhiên.

Tôi xin phép hỏi ông làm thế nào có được bốn chục nghìn đô la?

- Tôi sẽ thanh toán những cổ phiếu của tôi và rút tiền trong tài khoản riêng, tất cả cộng lại chỉ còn thiếu chừng bốn ngàn đô la nữa. Tôi hy vọng ông sẽ có thể cho tôi tạm vay số tiền đó vì ông cũng rất tin rằng những cổ phiếu của Công ty Richmond chưa được đánh giá hết mức của nó. Vả lại, số tiền bốn ngàn đô la ấy cũng chẳng qua chỉ bằng tiền hoa hồng của ngân hàng mà thôi.

Curtis Phenton chớp mắt và nhăn mặt. Những người lịch sự có nói trắng trợn như vậy trong ngân hàng của ông bao giờ đâu. Điều làm cho ông bực hơn nữa là Abel lại chỉ có đúng bấy nhiêu tiền thôi.

- Xin ông cho tôi chút thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông nhé, ông Rosnovski. Rồi tôi sẽ báo lại để ông biết?

Nếu để chờ lâu nữa thì tôi sẽ không cần phải vay tiền, - Abel nói. - Với tình hình thị trường xoay chuyển như bây giờ thì các khoản đầu tư khách của tôi cũng sẽ đạt tới đủ bốn chục nghìn.

Abel phải chờ thêm một tuần nữa thì được ngân hàng Continental báo cho anh biết họ sẵn sàng ủng hộ anh. Anh lập tức thanh toán các tài khoản và vay thêm gần 4.000 đô la nữa để bù vào cho đủ bốn chục ngàn.

Trong sáu tháng, Abel đã trả được món nợ 4.000 đô la bằng cách mua vào bán ra cổ phiếu từ tháng ba đến tháng tám năm 1929, đó là những ngày làm ăn tốt nhất của thị trường chứng khoán.

Đến tháng chín, các tài khoản chung và riêng của anh đều có nhích lên hơn. Anh có thêm khá tiền để mua cho mình chiếc xe Buick mới và lúc này coi như anh đã làm chủ 25 phần trăm hệ thống khách sạn của Công ty Richmond. Abel lấy làm sung sướng đã bám được rất chắc vào giang sơn của Davis Leroy. Bây giờ thì anh càng tin tưởng có thể theo đuổi cô con gái của ông ta và theo đuổi cả 75 phần trăm tài sản còn lại kia nữa.

Đầu tháng Mười, anh mời Melanie đi nghe chương trình nhạc Mozart biểu diễn tại nhà giao hưởng Chicago. Diện bộ quần áo đẹp nhất vào người để tỏ ra anh đã béo tốt hơn trước, đeo chiếc cavát lụa đầu tiên và ngắm nhìn trong gương, anh tin rằng buổi tối nay anh sẽ thành công với người đẹp. Nghe hoà nhạc xong, Abel tránh không về Richmond mặc dầu thức ăn ở đó nay đã rất ngon, anh đưa Melanie đến ăn nhà hàng Loop. Anh cẩn thận, chỉ nói đến những chuyện kinh tế, chính trị, hai chủ đề mà cô ta biết là anh thông thạo. Cuối cùng, anh mời cô về phòng mình uống rượu. Cũng là lần đầu tiên cô ta được thấy những phòng trang trí rất đẹp như thế.

Abel rót Coca- Cola theo yêu cầu của cô, bỏ vào cốc vài viên đá nhỏ, đưa cốc cho cô và trong lòng càng tin tưởng thấy cô nhìn anh mỉm cười. Anh không khỏi liếc mắt nhìn vào đôi chân thon của cô bắt tréo lại với nhau. Anh tự rót cho mình một cốc buốc- bông.

Cảm ơn anh, Abel, về buổi tối rất thú vị.

Anh ngồi xuống bên cạnh cô, xoay xoay cốc rượu trong tay nghĩ ngợi.

- Trong rất nhiều năm tôi không được nghe âm nhạc Đến lúc nghe thì thấy nhạc của Mozart đi sâu vào tâm hồn mình hơn bất cứ nhà soạn nhạc nào khác Đôi khi trông anh rất là Trung - âu, Abel ạ. - Cô kéo tà áo lụa bị Abel ngồi phải. - Ai mà ngờ được rằng ông quản lý khách sạn lại thèm chú ý đến Mozart như vậy chứ Một trong những ông cha tôi, vị Nam tước Rosnovski đầu tiên, - Abel nói, đã có một lần được gặp nhà thiên tài đó và ông ta trở thành bạn thân của gia đình, do đó tôi vẫn thường nghĩ rằng Mozart là một phần của đời tôi.

Nụ cười của Melanie rất khó khăn, không biết cô thật sự nghĩ gì. Abel nghiêng đầu hôn vào má cô ở trên tai một chút, nơi có mấy sợi tóc vàng lòa xòa xuống mặt. Cô ta vẫn tiếp tục nói chuyện như không để ý gì đến hành động này của anh.

- Phrederick Stock biểu diễn chương ba hết sức sinh động, anh có thấy thế không?

Abel lại định hôn nữa. Lần này cô xoay mặt về phía anh để cho anh được hôn lên môi. Rồi cô lùi lại.

- Có lẽ tôi phải về trường đây.

- Nhưng cô vừa mới đến mà, - Abel vội vã nói. Vâng, tôi biết thế, nhưng sáng mai tôi phải dậy sớm. Chương trình ngày mai nặng lắm.

Abel lại hôn cô nữa. Cô ngả người ra ghế và Abel dần dần đưa tay lên ngực cô. Cô bỗng vùng đẩy anh ra.

- Tôi phải đi đây, Abel, - Cô nói.

- Thôi đừng, cô đừng đi vội, - Anh nói rồi lại định hôn cô nữa.
 
Nhưng Abel cũng nói:

- Nếu tôi còn tìm thấy một đô la nào, chỉ một đô la thôi, không được để vào đúng chỗ của nó thì người liên quan sẽ bị đuổi ngay tức thì, mà không cần phải lý giải gì nữa. Các anh nghe rõ cả rồi chứ?

Không ai nói gì.

Trong mấy tuần lễ sau đó, nhiều nhân viên khác của Richmond cũng bỏ đi sau khi họ thấy rằng Abel không có ý định làm như Desmond Pacey trước đây và cũng không kiếm lợi gì vào đó cho riêng mình. Nhưng họ bỏ đi thì có người khác vào thay ngay.

Vào cuối tháng ba, Abel mời bốn người của khách sạn Plaza về làm việc ở Richmond. Những người này có ba điều giống nhau:

trẻ, nhiều tham vọng và lương thiện. Trong sáu tháng liền, chỉ có 37 người so với 110 người trước kia còn làm việc trong khách sạn Richmond. Vào cuối năm đầu, Abel mở một chai sâm banh thật to để cùng với Davis Leroy chúc mừng Richmond Chicago đã làm ăn có lãi. Lợi nhuận được 3.468 đô la. Số tiền lãi tuy nhỏ, nhưng là khoản lãi đầu tiên của khách sạn kể từ khi nó ra đời đến nay ba chục năm. Abel dự kiến sang năm 1929 sẽ thu lợi nhuận trên 25.000 đô la.

Davis Leroy rất vui mừng. Mỗi tháng ông ta lên thăm Chicago một lần, và bắt đầu tin tưởng ở các ý kiến của Abel. Ông ta còn thừa nhận rằng cái gì đã đúng với Richmond Chicago cũng sẽ đúng với tất cả những khách sạn khác của công ty. Abel thì muốn để xem khách sạn ở Chicago hoạt động trôi chảy như một xí nghiệp làm ăn đứng đắn và có lãi đã rồi mới xét đến những nơi khác. Leroy đồng ý và hứa sẽ dành cho Abel cương vị cộng tác ở các nơi khác thuộc công ty như dã làm ở Chicago.

Mỗi lần Davis đến Chicago, họ cùng chơi dã cầu và đua ngựa với nhau. Một lần, Davis thua mất 700 đô la mà không giành được tí gì trong cả sáu cuộc đua ngựa, ông ta giơ hai tay lên trời than vãn:

- Ôi, tôi cần gì phải bận tâm đến chuyện ngựa nữa, Abel nhỉ? Cứ đua với anh là đủ rồi.

Cô Melanie Leroy mỗi lần cũng đi theo bố về đây.

Cô xinh đẹp nhưng lạnh lùng, người nhỏ nhắn có đôi chân hấp dẫn và thu hút sự chú ý của mọi người trong khách sạn. Đối với Abel, cô có vẻ cao ngạo khiến anh muốn nói chuyện làm thân gì với cô cũng khó. Cô ta cũng không để cho anh được gọi bằng cái tên thân mật "Melanie" mà phải gọi bằng "Cô Leroy" hẳn hoi.

Mãi về sau cô ta mới biết rằng anh tốt nghiệp bằng kinh tế ở Đại học Columbia và còn hiểu biết về tiền nong hơn cô rất nhiều. Từ đó, cô ta nói năng có vẻ dịu dàng hơn và thỉnh thoảng còn đến ăn một mình trong khách sạn với Abel và nhờ anh giúp cho trước khi cô thi lấy bằng Nghệ thuật Tự do ở trường Đại học Chicago. Mỗi lúc một mạnh bạo hơn, thỉnh thoảng Abel cùng cô đi nghe hoà nhạc, xem hát, và đôi khi cũng cảm thấy hơi ghen mỗi khi cô đưa bạn trai đến ăn ở khách sạn mặc dầu mỗi lần đến cô đi với một bạn khác.

Dưới bàn tay quản lý vững chắc của Abel, nhà bếp trong khách sạn đã cải tiến được rất nhiều món ăn ngon, đến nỗi có những người đã ở Chicago ba chục năm nay nhưng chưa hề biết là có khách sạn này, bây giờ cũng gọi đến giữ chỗ ở nhà ăn vào mỗi tối thứ bảy.

Abel cho trang trí lại toàn bộ khách sạn - Đã hai chục năm nay bây giờ mới được trang trí - Và cho các nhân viên ăn mặc đồng phục bằng các màu xanh và vàng.

Có một người khác mỗi năm thường về ở Richmond, một tuần và cứ đều như thế một chục năm nay, vừa bước vào cửa khách sạn đã lại quay ra, tưởng mình vào nhằm khách sạn khác. Khi Al Capone đặc tiệc cho mười sáu người trong một phòng riêng của khách sạn để mừng ngày sinh nhật, lần thứ ba mươi của ông ta, Abel biết rằng như thế là anh đã đạt tới đỉnh cao của con đường sự nghiệp.

Trong khi thị trường chứng khoán phát triển thì tài sản riêng của Abel cũng tăng thêm. Mười tám tháng trước kia anh rời khách sạn Plaza thì vốn liếng chỉ có 8.000 đô la, bây giờ tài khoản anh đã lên đến ba không.000 đô la. Anh tin rằng giá thị trường sẽ còn tăng lên nữa, vì vậy bao giờ anh cũng lấy tiền lợi nhuận ra tái đầu tư nữa. Những yêu cầu cá nhân của anh vẫn còn rất khiêm tốn. Anh đã sắm được hai bộ quần áo mới và một đôi giầy nâu mới. ăn ở do khách sạn cung cấp, và anh cũng không có gì phải chi tiêu ngoài.

Tương lai của anh xem ra là sáng sủa. Công ty Richmond vẫn có tài khoản trong ngân hàng Continental từ hơn ba chục năm nay, vì vậy khi mới đến Chicago anh đã cho chuyển tiền của mình về ngân hàng này. Hằng ngày ra ngân hàng gửi số tiền khách sạn thu được ngày hôm trước. Vào một buổi sáng thứ sáu, anh ngạc nhiên thấy có người nhắn là giám đốc ngân hàng muốn gặp anh nói chuyện. Anh biết rằng không thể có chuyện tài khoản riêng của mình bị rút ra quá mức bao giờ, vì vậy anh đoán chắc là cuộc gặp này có cái gì đó liên quan đến Richmond.

Chắc cũng không thể có chuyện tài khoản của khách sạn không đủ để trả nợ cho ngân hàng, nếu có thì ba chục năm nay bây giờ mới là lần đầu. Một nhân viên trẻ của ngân hàng dẫn Abel đi qua dãy hành lang đến trước một khung cửa gỗ rất lịch sự. Một tiếng gõ khẽ, rồi người ta đưa anh vào gặp giám đốc.

- Tên tôi là Ctưtis Phenton, - Người đứng sau bàn giấy tự giới thiệu và đưa tay ra bắt tay Abel, mời anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây. Trông người ông ta tròn trĩnh, gọn gàng đeo đôi mắt kính bán nguyệt, cổ sơ mi trắng bong với chiếc cavát đen đi với bộ đồ ba mảnh của ông chủ ngân hàng.

Cảm ơn ông, - Abel bứt rứt nói. Không khí lúc này khiến anh nhớ lại cuộc gặp gỡ trước đây nỗi lo ngại là không biết rồi cái gì sẽ xảy ra.

Lẽ ra tôi mời ông cùng ăn trưa để nói chuyện thì tốt hơn , thưa ông Rosnovskị.. , nhưng...

Abel sững người. Anh quá biết rằng những ông chủ ngân hàng này chẳng dễ gì mời ai ăn không mất tiền nếu như họ không có những điều phiền toái muốn nói cho anh nghe.

- Nhưng có một vấn đề vừa xảy ra cần phải được giải quyết nên tôi muốn được cùng bàn với ông ngay.

Tôi xin đi thẳng vào vấn đề, thưa ông Rosnovski. Một trong những vị khách hàng đáng kính nhất của chúng tôi một bà có tuổi, bà Amy Leroỵ... Abel nghe nói đến tên đó ngồi thẳng ngay dậy,.... bà ta nắm trong tay hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của Công ty Richmond. Trước đây bà ta đã nhiều lần muốn chuyển những cổ phiếu đó sang tay ông em là Davis Leroy, nhưng ông ấy hoàn toàn không quan tâm gì đến việc mua lại nhữag cổ phiếu của bà Amy hết. Tôi có thể hiểu được những lý lẽ của ông Leroy. Ông ấy vốn đã có bảy mươi lăm phần trăm cổ phiếu của công ty rồi, chả cần phải bận tâm gì đến chỗ hai mươi lăm phần trăm còn lại kia nữa. Tài sản này là do các cụ để lại cho hai người. Nhưng bà Amy thì cứ muốn ìà đem bán những cổ phiếu ấy đi vì cứ để như thế nó sẽ chẳng bao giờ sinh lãi được.

Abel nghe chuyện đó không lấy làm ngạc nhiên chút nào.

ông Leroy cho biết là ông không phản đối việc bà Amy muốn đem bán những cổ phiếu ấy. Bà ta thì nghĩ rằng ở cái tuổi già nua hiện nay, thà có ít tiền để chi trước mắt còn hơn là cứ ngồi đó chờ cho đến khi công ty làm ăn có lãi thì không biết bao giờ. Do đó, thưa ông Rosnovski, tôi sẽ rất hoan nghênh nếu như ông biết có người nào quan tâm đến việc mua bán khách sạn và từ đó quan tâm đến việc mua những cổ phiếu này chăng?

- Bà Leroy định bán những cổ phiếu ấy với giá bao nhiêu? - Abel hỏi.

- Ồ tôi nghĩ bà ấy chỉ cần bán lấy sáu mươi lăm ngàn đô la thôi.

- Sáu mươi lăm ngàn thì hơi cao đối với loại chứng khoán không đem lại chút lời lãi nào, - Abel nói. Anh nói thêm, - Và trong những năm tời nó cũng chẳng có hy vọng gì hơn.

A, nhưng ông nên nhớ rằng người ta còn tính đến giá trị của cả mười một khách sạn kia nữa. - Crutis Phenton nói.

- Nhưng việc kiểm soát công ty vẫn là ở trong tay ông Leroy, như vậy thì hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của bà Leroy kia chẳng qua chỉ là những mẩu giấy thôi, không có nghĩa gì.

- Thôi thôi ông Rosnovski ơi, hai mươi lăm phần trăm của mười một khách sạn là cổ phần rất có giá trị, vậy mà chỉ có sáu mươi lăm ngàn đô la thôi đấy.

- Không có giá trị gì chừng nào ông Davis ieroy vẫn nắm quyền kiểm soát toàn bộ. Ông nói với bà Leroy là chỉ nên bán lấy bốn chục nghìn đô la thôi, ông Phenton ạ, như thế thì may ra tôi kiếm được người nào đó quan tâm đến chuyện này cho ông.

- Ông không thể nghĩ là người đó có khả năng trả được cao hơn một chút sao? - Ông Phenton nhướng đôi lông mày khi ông nói đến chữ cao hơn.

- Hơn một xu nữa cũng chả có đâu, ông Phenton.

ông chủ ngân hàng chụm đầu ngón tay vào nhau, tỏ vẻ đánh giá Abel không phải vừa.

- Vậy để tôi hỏi lại bà Amy xem ý kiến bà ấy thế nào. Tôi sẽ liên hệ và báo cho ông biết ngay nhé.

Rời văn phòng Curtis Phenton bước ra, tim Abel cũng đập rộn lên như lúc anh bước vào vậy. Anh vội quay về khách sạn kiểm tra vốn liếng của mình. Tài khoản của anh hiện nay đang là 33.112 đô la với tiền riêng ở ngoài là 3.008 đô la. Kiểm lại xong, Abel định tiếp tục làm việc như mọi ngày thường, nhưng đầu óc anh khó tập trung, không biết rằng cái bà Amy Leroy kia sẽ phản ứng với cái giá anh trả ra sao, anh nghĩ bụng không biết nếu mình nắm trong tay 25 phần trăm lãi suất của công ty Richmond thì tình hình sẽ ra thế nào.

Anh ngập ngừng mãi rồi mới báo cho Davis Leroy biết chuyện này. vì anh sợ rằng ông bạn Texas rất khôn ngoan kia có lẽ cho những tham vọng của anh là một thứ đe dọa gì chăng. Sau vài ngày suy nghĩ kỹ, anh cho rằng cứ nên đàng hoàng gọi cho Davis và báo cho ông ta biết những ý muốn của anh.

- Tôi muốn nói để ông biết tại sao tôi làm điều này, Davis. Tôi tin rằng công ty Richmond sẽ có một tương lai sáng sủa, và ông có thể tin chắc rằng do có tiền của tôi nằm trong đó thì tôi sẽ càng làm việc cật lực hơn. - Anh ngừng lại, rồi nói tiếp:

- Nhưng nếu ông muốn nhận cả hai mươi lăm phần trăm đó về cho ông thì tôi cũng thông cảm.

Anh lấy làm ngạc nhiên thấy ông ta không hám. - Thế này nhé, Abel. Nếu anh tin tưởng ở công ty thì anh cứ việc mua chỗ cổ phiếu đó của Amy đi. Tôi sẽ lấy làm tự hào có anh làm người cùng chung vốn.

Thế là được rồi đấy. Nhân đây, tôi cũng báo cho anh biết là tuần sau tôi sẽ mua thêm nhà chơi của Hội Sư tử Đỏ Thế nhé.

Abel vui mừng hết sức.

- Xin cảm ơn ông, Davis. Ông sẽ không bao giờ phải ân hận về quyết định này của ông.

- Tôi cũng tin như vậy, anh bạn chung vốn ạ. Một tuần sau, Abel trở lại ngân hàng. Lần này, chính anh là người xin gặp ông giám đốc. Lại một lần nữa, anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây và chờ ông Phenton nói.

- Tôi rất ngạc nhiên thấy rằng - Curtis Phenton bắt đầu nói nhưng không có vẻ gì ngạc nhiên. - Bà Leroy chấp nhận số tiền bốn chục ngàn đô la để bán hai mươi lăm phần trăm cồ phiếu của bà ta trong công ty Richmond. - Ông ta ngừng một lát rồi nhìn lên Abel.

Bây giờ đã được bà ta đồng ý như vậy rồi, tôi? xin hỏi ông có thể cho tôi biết ai là người mua những cổ phiếu ấy được không?

Vâng, Abel đáp một cách tin tưởng. - Tôi sẽ là người mua chính. - - À vâng, thưa ông, Rosnovski, - Giọng ông ta vẫn không tỏ ra ngạc nhiên.

Tôi xin phép hỏi ông làm thế nào có được bốn chục nghìn đô la?

- Tôi sẽ thanh toán những cổ phiếu của tôi và rút tiền trong tài khoản riêng, tất cả cộng lại chỉ còn thiếu chừng bốn ngàn đô la nữa. Tôi hy vọng ông sẽ có thể cho tôi tạm vay số tiền đó vì ông cũng rất tin rằng những cổ phiếu của Công ty Richmond chưa được đánh giá hết mức của nó. Vả lại, số tiền bốn ngàn đô la ấy cũng chẳng qua chỉ bằng tiền hoa hồng của ngân hàng mà thôi.

Curtis Phenton chớp mắt và nhăn mặt. Những người lịch sự có nói trắng trợn như vậy trong ngân hàng của ông bao giờ đâu. Điều làm cho ông bực hơn nữa là Abel lại chỉ có đúng bấy nhiêu tiền thôi.

- Xin ông cho tôi chút thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông nhé, ông Rosnovski. Rồi tôi sẽ báo lại để ông biết?

Nếu để chờ lâu nữa thì tôi sẽ không cần phải vay tiền, - Abel nói. - Với tình hình thị trường xoay chuyển như bây giờ thì các khoản đầu tư khách của tôi cũng sẽ đạt tới đủ bốn chục nghìn.

Abel phải chờ thêm một tuần nữa thì được ngân hàng Continental báo cho anh biết họ sẵn sàng ủng hộ anh. Anh lập tức thanh toán các tài khoản và vay thêm gần 4.000 đô la nữa để bù vào cho đủ bốn chục ngàn.

Trong sáu tháng, Abel đã trả được món nợ 4.000 đô la bằng cách mua vào bán ra cổ phiếu từ tháng ba đến tháng tám năm 1929, đó là những ngày làm ăn tốt nhất của thị trường chứng khoán.

Đến tháng chín, các tài khoản chung và riêng của anh đều có nhích lên hơn. Anh có thêm khá tiền để mua cho mình chiếc xe Buick mới và lúc này coi như anh đã làm chủ 25 phần trăm hệ thống khách sạn của Công ty Richmond. Abel lấy làm sung sướng đã bám được rất chắc vào giang sơn của Davis Leroy. Bây giờ thì anh càng tin tưởng có thể theo đuổi cô con gái của ông ta và theo đuổi cả 75 phần trăm tài sản còn lại kia nữa.

Đầu tháng Mười, anh mời Melanie đi nghe chương trình nhạc Mozart biểu diễn tại nhà giao hưởng Chicago. Diện bộ quần áo đẹp nhất vào người để tỏ ra anh đã béo tốt hơn trước, đeo chiếc cavát lụa đầu tiên và ngắm nhìn trong gương, anh tin rằng buổi tối nay anh sẽ thành công với người đẹp. Nghe hoà nhạc xong, Abel tránh không về Richmond mặc dầu thức ăn ở đó nay đã rất ngon, anh đưa Melanie đến ăn nhà hàng Loop. Anh cẩn thận, chỉ nói đến những chuyện kinh tế, chính trị, hai chủ đề mà cô ta biết là anh thông thạo. Cuối cùng, anh mời cô về phòng mình uống rượu. Cũng là lần đầu tiên cô ta được thấy những phòng trang trí rất đẹp như thế.

Abel rót Coca- Cola theo yêu cầu của cô, bỏ vào cốc vài viên đá nhỏ, đưa cốc cho cô và trong lòng càng tin tưởng thấy cô nhìn anh mỉm cười. Anh không khỏi liếc mắt nhìn vào đôi chân thon của cô bắt tréo lại với nhau. Anh tự rót cho mình một cốc buốc- bông.

Cảm ơn anh, Abel, về buổi tối rất thú vị.

Anh ngồi xuống bên cạnh cô, xoay xoay cốc rượu trong tay nghĩ ngợi.

- Trong rất nhiều năm tôi không được nghe âm nhạc Đến lúc nghe thì thấy nhạc của Mozart đi sâu vào tâm hồn mình hơn bất cứ nhà soạn nhạc nào khác Đôi khi trông anh rất là Trung - âu, Abel ạ. - Cô kéo tà áo lụa bị Abel ngồi phải. - Ai mà ngờ được rằng ông quản lý khách sạn lại thèm chú ý đến Mozart như vậy chứ Một trong những ông cha tôi, vị Nam tước Rosnovski đầu tiên, - Abel nói, đã có một lần được gặp nhà thiên tài đó và ông ta trở thành bạn thân của gia đình, do đó tôi vẫn thường nghĩ rằng Mozart là một phần của đời tôi.

Nụ cười của Melanie rất khó khăn, không biết cô thật sự nghĩ gì. Abel nghiêng đầu hôn vào má cô ở trên tai một chút, nơi có mấy sợi tóc vàng lòa xòa xuống mặt. Cô ta vẫn tiếp tục nói chuyện như không để ý gì đến hành động này của anh.

- Phrederick Stock biểu diễn chương ba hết sức sinh động, anh có thấy thế không?

Abel lại định hôn nữa. Lần này cô xoay mặt về phía anh để cho anh được hôn lên môi. Rồi cô lùi lại.

- Có lẽ tôi phải về trường đây.

- Nhưng cô vừa mới đến mà, - Abel vội vã nói. Vâng, tôi biết thế, nhưng sáng mai tôi phải dậy sớm. Chương trình ngày mai nặng lắm.

Abel lại hôn cô nữa. Cô ngả người ra ghế và Abel dần dần đưa tay lên ngực cô. Cô bỗng vùng đẩy anh ra.

- Tôi phải đi đây, Abel, - Cô nói.

- Thôi đừng, cô đừng đi vội, - Anh nói rồi lại định hôn cô nữa.

Lần này cô chặn đứng anh lại và kiên quyết đẩy anh ra.

- Abel, anh làm gì thế? Anh tưởng mời tôi đi dự hoà nhạc và cho tôi ăn một bữa là có quyền mó vào người tôi đấy sao?
 
- Nhưng chúng ta đã đi với nhau như thế hàng tháng nay rồi, - Abel nói. - Tôi nghĩ là cô không lấy thế làm phiền chứ.

- Có phải chúng ta đi với nhau hàng tháng đâu, Abel. Chỉ thỉnh thoảng tôi ăn với anh trong phòng ăn của cha tôi, anh tưởng như vậy có nghĩa là chúng ta đã đi với nhau hàng tháng sao?

- Tôi xin lỗi, - Abel nói. - Tôi không hề có ý muốn làm gì cô, chỉ là muốn sờ vào nglrời cô thế thôi.

- Tôi không bao giờ cho phép người đàn ông nào sờ vào người tôi, cô nói. - Trừ phi tôi sẽ lấy người đó.

Nhưng tôi muốn lấy cô, - Abel chậm rãi nói.

Melanie phá lên cười.

- Có gì lạ đâu mà cười? - Abel đỏ mặt lên hỏi.

- Anh đừng ngớ ngẩn, Abel, tôi không bao giờ có thể lấy anh được.

- Tại sao không? - Abel hỏi, rất lạ với cái giọng kiên quyết đó của cô ta.

- Sẽ chẳng bao giờ có thể có chuyện một người đàn bà dòng dõi ở miền Nam mà đi lấy một người Ba Lan mới nhập cư đâu, - Cô ta đáp và ngồi thẳng dậy vuốt lại tà áo - Nhưng tôi là một Nam tước, - Abel nói với giọng kiêu hãnh.

Melanie lại phá lên cười.

- Chắc anh không nghĩ là có người tin điều đó chứ, Abel? Anh không thấy là mỗi khi anh nhắc đến cái danh tước ấy thì cả đám nhân viên khách sạn đều cười vào lưng anh đó sao?

Anh chững người, cảm thấy quái lạ, mặt lúc đỏ lúc tái - Họ cười sau lưng tôi à?, - Anh dằn giọng hỏi.

- Phải, - Cô đáp. - Hẳn anh biết rằng trong khách sạn người ta đã đặt cho anh cái tên là Nam tước Chicago chứ Abel lặng người không nói được.

- Thôi anh đừng có ngốc nghếch và bận tâm về chuyện đó làm gì nữa. Tôi nghĩ anh đã làm được một việc rất tốt cho bố tôi và bố tôi rất khâm phục anh đấy, nhưng tôi thì chả bao giờ có thể lấy anh được.

Abel ngồi yên lặng, lẩm bẩm nhắc lại câu cô ta vừa nói.

- Tất nhiên thế rồi. Bố tôi rất quý anh, nhưng ông sẽ chẳng bao giờ đồng ý cho anh làm con rể ông ấy được đâu - Tôi xin lỗi đã xúc phạm đến cô, - Abel nói.

- Không đâu, Abel. Trái lại tôi cho như thế là mình được quý chuộng. Thôi, chúng ta hãy quên đi đừag nói đến chuyện ấy nữa. Có lẽ anh vẫn đồng ý đưa tôi về nhà chứ?

Cô đứng dậy đi ra cửa trong khi Abel vẫn còn ngồi sững người. Anh chậm chạp đứng dậy và khoác áo ngoài vào cho Melanie. Đi trong hành lang, anh chợt nhớ ra mình hơi bị thọt chân. Họ cùng vào thang máy, rồi anh gọi xe đưa cô về. Trong khi xe tắc xi đợi ở ngoài, anh tiễn cô vào đến tận cổng ký túc xá của nhà trường. Anh hôn tay cô.

- Tôi mong rằng điều này không có nghĩa là chúng ta không còn là bạn của nhau nữa, - Melame nói.

- Tất nhiên rồi, - Anh cố đáp.

Cảm ơn anh mời tôi dự buổi hòa nhạc, Abel. Tôi tin chắc anh muốn tìm một cô gái Ba Lan đẹp để lấy cô ta sẽ chẳng khó khăn gì đâu. Chúc anh ngủ ngon nhé.

- Chào cô, - Abel nói.

Abel nghĩ là sẽ không có khó khăn gì lắm với thị trường chứng khoán New York, nhưng một hôm có người khách hỏi anh xem có thể thanh toán tiền khách sạn bằng cổ phiếu được không, anh mới ngớ ra.

Bản thân Abel chỉ giữ một số ít cổ phiếu vì bây giờ hầu hết tiền nong của anh đã gắn với Công ty Richmond rồi. Tuy nhiên anh cũng nghe lời khuyên của đại lý và bán hết những cổ phiếu còn lại của anh dù chịu thiệt một ít nhưng tài sản còn lại vững vàng hơn. Giá như vốn liếng của anh vẫn còn ngoài thị trường thì có lẽ anh đã không để ý đến những hoạt động lên xuống hàng ngày của chỉ số Doqu Jones.

Wãng nửa năm đầu, khách sạn làm ăn khá. Abel tính với đà này anh sẽ thực hiện được lợi nhuận như dự kiến là 25.000 đô la cho năm 1929, và anh thường xuyên báo cho Davis Leroy về nhữnb tiến bộ đã đạt được Nhưng đến tháng mười thì diễn ra vụ suy thoái và khách sạn chỉ còn nửa số khách đến thuê. Vào ngày Thứ ba Đen tối, Abel gọi điện xuống cho Davis Leroy.

ông chủ người Texas thường vẫn rất vui tính này bây giờ có vẻ chán chường, lo nghĩ, và không muốn dính đến những chuyện sa thải người làm việc của khách sạn nữa, điều mà Abel thấy đang rất cấp bách.

- Cứ chờ đấy đã, Abel, - Ông chủ nói. - Tuần sau tôi sẽ lên rồi ta cùng giải quyết, hoặc là tìm cách giải quyết Abel nghe ông ta nói câu sau mà chột dạ.

Có vấn đề gì đấy Davis? Có gì ông cần đến tôi không?

- Lúc này thì chưa.

Abel phân vân không hiểu.

- Tại sao ông không giao quyền cho tôi giải quyết ngay bây giờ rồi tuần sau ông lên đây tôi sẽ báo cáo lại có được không?

- Không dễ dàng thế đâu, Abel. Tôi không muốn bàn nhữag vấn đề này trên điện thoại, nhưng ngân hàng họ đang gây rắc rối với tôi về chuyện thua thiệt, trên thị trường chứng khoán, họ dọa nếu tôi không thu đủ tiền trả nợ thì sẽ buộc tôi phải bán hết khách sạn đi.

Abel lạnh người.

- Nhưng anh không có gì phải lo đâu, - Davis nói tiếp một cách yếu ớt. - Tuần sau lên Chicago tôi sẽ nói chi tiết cho anh biết. Từ nay đến đó, tôi tin rằng sẽ thu xếp được ổn thỏa thôi.

Điện thoại ngắt. Anh toát mồ hôi đầy người. Điều đầu tiên anh nghĩ là phải làm thế nào để giúp được cho Davis. Anh gọi sang cho Curtis Phenton để hỏi tên người chủ ngân hàng kiểm soát Công ty Richmond là ai. Anh cảm thấy nếu mình gặp được người đó thì có thể đỡ được cho Davis lắm.

Mấy ngày sau đó Abel liên tục gọi cho Davis nhiều lần để nói với ông ta rằng tình hình đang mỗi lúc một tồi tệ hơn, vì vậy phải có quyết định gấp. Nhưng Davis lại càng tỏ ra lúng túng chưa biết phải quyết định như thế nào. Đến lúc tình hình không còn kiểm soát được nữa, Abel tự mình quyết định. Anh bảo cô thư ký gọi điện thoại đề anh nói chuyện với chủ ngân hàng nắm Công ty Richmond trong tay.

- Thưa ông gọi ai, ông Rosnovski? - Tiếng một người đàn bà trịnh trọng hỏi.

Abel nhìn xuống tên viết trên mảnh giấy để trước mặt và cũng trả lời lại bằng một giọng trịnh trọng.

- Tôi xin chuyển cho ông.

Kính chào, - Một giọng oai vệ Ở đầu dây đằng kia nói. - Tôi giúp gì được ông đây?

- Tôi hy vọng như vậy, thưa ông. Tên tôi là Abel Rosnovski, - Abel hồi hộp nói. - Tôi là người quản lý khách sạn Richmond Chicago, và tôi muốn được gặp ông để bàn về tương lai của Công ty Richmond.

- Tôi không có quyền bàn bạc với ai trừ ông Davis Leroy, - Giọng dứt khoát trên dây đáp.

Nhưng tôi là chủ của 25 phần trăm tài sản Công ty Richmond kia mà, - Abel nói.

- Như vậy cần có người giải thích cho ông biết rằng trừ phi ông làm chủ 51 phần trăm tài sản, không thì ông không có cương vị gì bàn bạc với ngân hàng được, hoặc trừ phi ông được ông Davis Leroy ủy quyền.

- Nhưng ông ấy là bạn thân của tôị...

- Hẳn là như thế rồi, thưa ông Rosnovski.

- Và tôi muốn giúp - ông Leroy có giao cho ông quyền đại diện không?

Không, nhưng....

- Vậy thì rất tiếc. Về mặt nghề nghiệp, tôi sẽ không thể tiếp tục câu chuyện này với ông được.

Sao ông nhẫn tâm vậy? - Abel nói nhưng liền đó lấy làm ân hận ngay.

- Đó là ông nghĩ vậy thôi, ông Rosnovski. Xin chào ông.

ôi đồ chết tiệt, Abel nghĩ bụng và dập máy xuống. Anh lo rằng mình làm như vậy còn có hại hơn là giúp ích cho Davis. Bây giờ anh không còn biết làm gì nữa.

Nhưng anh không phải chờ lâu.

Tối hôm sau Abel thoáng thấy Melanie ở nhà ăn trong khách sạn. Cô ta không còn có vẻ tươi tỉnh và tự tin như mọi khi, mà có dáng mệt mỏi, lo âu.

Anh đã định đến hỏi cô ta xem có chuyện gì không, nhưng rồi lại thôi. Anh trở về phòng làm việc và chợt thấy Davis Leroy đang đứng một mình trước nhà sảnh. Ông ta mặc chiếc áo kẻ sọc đúng như ngày đầu ông đã gặp nói chuyện với Abel ở khách sạn Plaza.

- Có Melame trong phòng ăn không - Có cô ấy đang ở đó, - Abel nói. - Tôi không biết hôm nay ông lên đây. Để tôi báo thu xếp phòng đặc biệt cho ông ngay.

- Chỉ một đêm thôi, Abel, rồi chốc nữa tôi gặp riêng anh một tí.

Vâng được.

Abel không thích nghe nói đến "gặp riêng". Hay là Melanie đã mách bố về chuyện hôm trước? Có phải vì thế mà mấy hôm vừa rồi anh không sao yêu cầu Davis quyết định được gì hết?

Davis Leroy đi vội vào phòng ăn trong khi Abel ra quầy tiếp tân kiểm tra lại xem phòng đặc biệt trên tầng mười bảy có khách nào ở không. Đến nửa số phòng khách sạn không có khách, vì vậy phòng đặc biệt không có ai ở cũng là tự nhiên. Abel ghi tên cho ông chủ vào phòng đó rồi anh đứng ở quầy tiếp tân chờ đến hơn một tiếng đồng hồ. Anh trông thấy Melanie bỏ ra, mặt mũi sưng sỉa như cô ta vừa mới khóc vậy. Vài phút sau, bố cô theo ra.

- Anh kiếm lấy chai buốc- bông, Abel- chắc là khách sạn phải có - Rồi lên phòng tôi nhé.

Abel lấy hai chai buốc- bông ở tủ riêng của anh rồi lên tầng mười bẩy và đến phòng ông, trong bụng vẫn lo nghĩ không biết Melanie có nói gì với bố không.

- Anh mở chai, và tự rót cho anh một cốc lớn đi, Abel, - Davis Leroy nói.

Một lần nữa, Abel cảm thấy sợ chưa biết là sẽ có chuyện gì. Lòng bàn tay anh bắt đầu toát mồ hôi. Chả có lý vì anh muốn lấy con gái ông chủ mà bị đuổi?

Leroy với anh đã là bạn gần gũi với nhau từ hơn một năm nay rồi. Chuyện gì rồi anh cũng sẽ biết ngay đây thôi.

Uống cạn cốc rượu của anh đi.

Abel nốc một hơi hết cốc rượu. Davis Leroy cũng vậy - Abel, tôi hoàn toàn sập tiệm rồi. - Leroy ngừng lại một chút và lại rót rượu cho cả hai người. - Một nửa nước Mỹ cũng sập tiệm rồi, anh thử nghĩ coi.

Abel không nói gì, phần vì anh không nghĩ ra điều gì để nói. Hai người ngồi nhìn nhau rồi lại uống tiếp một cốc nữa. Abel cố thốt lên:

- Nhưng ông vẫn còn làm chủ mười một khách sạn.

- Đó là trước đây - Davis Leroy nói. - Phải nói đó là quá khứ Abel ạ. Tôi không còn làm chủ một khách sạn nào nữa. Ngân hàng đã thu về cho họ từ thứ năm trước rồi.

- Nhưng nó thuộc về ông kia mà. Nó thuộc về gia đình ông từ hai đời nay rồi kia mà, - Abel nói.

- Trước kia thì thế, bây giờ thôi rồi. Bây giờ nó thuộc về ngân hàng. Không có lý gì anh không biết tất cả sự thật đó, Abel. Hầu như mọi người ở Mỹ lúc này đều gặp tình trạng ấy, anh to anh bé cũng vậy.

Khoảng mười năm trước đây, tôi vay hai triệu đô la và lấy những kháeh sạn đó ra ký quỹ. Tôi đem tiền đó ra kinh doanh cổ phiếu, gửi nó vào những công ty rất vững chắc. Tôi đã xây dựng vốn lên đến gần năm tnệu, và cũng vì thế tôi không quan tâm gì đến những khách sạn nữa, vả lại nó vẫn luôn luôn được giảm thuế tính vào lợi nhuận tôi kiếm được trên thị trường.

Đến bây giờ thì những cổ phiếu khách sạn ấy không còn giá trị gì nữa, chỉ có đem làm giấy vệ sinh mà thôi. Trong ba tuần qua tôi cố sức bán đi nhưng không có ai mua.

Thế là thứ năm vừa rồi ngân hàng đã khóa sổ đối với tôi rồi. - Abel nhớ là anh nói chuyện này với chủ ngân hàng đúng vào hôm thứ năm. - Hầu hết những người nào là nạn nhân của cuộc phá sản lần này chỉ còn có mấy mẩu giấy để đảm bảo cho nhữag khoản vay của họ, nhưng với trường hợp của tôi thì ngân hàng họ đã có giấy tờ đem ký quỹ khách sạn từ trước rồi nên chả làm thế nào được. Vì thế đến khi tôi sập tiệm thì họ đã lập tức chiếm hữu các khách sạn. Bọn họ có cho tôi biết là sẽ bán công ty này đi, càng nhanh càng tốt.

- Thế là điên rồ. Họ sẽ chả thu về được gì vào lúc này, còn nếu họ ủng hộ chúng ta qua được cơn khó khăn này,. chúng ta sẽ cho họ thấy đầu tư có lãi cho mà coi.

Tôi biết anh làm được, Abel. Nhưng họ đã có kinh nghiệm với tôi trong quá khứ rồi nên không chịu. Tôi đã đến gặp họ giới thiệu về anh, và còn bảo họ tôi sẽ tập trung sức vào công ty này nếu được họ ủng hộ.

Nhưng họ không thèm quan tâm nữa. Họ chỉ còn coi tôi như một lìoại ngớ ngẩn mới vào nghề chẳng biết làm ăn gì nữa và cũng không còn vốn liếng gì. Trời ơi, tôi mà có cơ hội quay lại được, tôi sẽ cho cái thằng chủ ngân hàng ranh con ấy một trận rồi chiếm luôn cả ngân hàng của nó nữa. Bây giờ đây, điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là uống cho say đi. Vì tôi hết rồi, không còn xu nào nữa, phá sản rồi.

Thế là tôi cũng hết, - Abel chậm rãi nói.

- Không, anh bạn ơi, anh còn cả một tương lai trước mặt. Bất cứ ai tiếp quản công ty này cũng không thể làm gì được nếu không có anh.

- Ông quên rằng tôi có 25 phần trăm tài sản công ty Davis Leroy trừng trừng nhìn anh. Rõ ràng là ông ta đã quên đi điều đó.

- Ôi Lạy Chúa! Tôi có biết đâu anh đã bỏ hết tiền vào cơ nghiệp của tôi như thế, Abel? - Giọng ông ta cảm động.

- Bỏ hết, không còn giữ xu nào, - Abel nói. - Nhưng tôi không tiếc đâu, Davis. Thà mất cho một người khôn ngoan còn hơn được với một anh ngốc - Anh lại rót rượu buốc- bông vào cốc mình.

Davis Leroy long lanh nước mắt.

Anh biết không, Abel, anh là người bạn tốt nhất người ta có thể có được trên đời này. Anh chấn chỉnh lại khách sạn này, anh lại bỏ tiền của anh vào đó. Bây giờ tôi làm cho anh sạt nghiệp mà anh không hề phàn nàn một lời nào. Rồi lại còn con gái tôi nó không chịu lấy anh nữa chứ.

- Ông không lấy làm phiền lòng việc tôi hỏi cô ấy sao? - Abel nói. Mặc dầu đã có rượu vào người rồi, anh vẫn cứ không tỉn rằng ông ta không trách anh về chuyện đó.
 
- Cái con bé ngul ngốc ấy nó chả biết phân biệt tốt xấu thế nào. Nó muốn lấy một anh chàng chủ ngựa nào đó ở niền Nam mà trong gia phả đã có ba đời làm tướng cơ. Còn nếu lấy một anh nào ở miền Bắc thì cụ kỵ anh ta đã từng phải là người đầu tiên đến đất này bằng chiếc thuyền MaynoWer mới được. Nếu có anh nào khoe rằng mình có bà con họ hàng đã từng đi trên chiếc thuyền ấy, thì loại thuyền như vậy cũng đã chìm đến một nghìn lần trước khi sang đến đất này rồi. Rất tiếc tôi không có đứa con gái nào khác để gả cho anh. Abel. Chưa từng có ai phục vụ tôi trung thành hơn anh được. Có anh là một thành viên trong gia đình thì tôi cũng tự hào. Anh với tôi cùng cộng tác với nhau thì thành một cánh rất mạnh đấy, tuy nhiên tôi nghĩ một mình anh cũng đủ đánh bại cả đám họ rồi. Anh còn trẻ, phía trước anh còn đủ mọi thứ.

Mới hai mươi ba tuổi mà Abel bỗng cảm thấy mình rất già.

- Cám ơn ông đã tin cậy tôi và tâm sự như thế, Davis - Anh đáp. Vả lại, ai cần quái gì đến cái thị trường chứng khoán ấy? ông biết không, ông là người bạn tốt nhất tôi chưa từng có đấy. - Rượu đã bắt đầu nói.

Abel rót cho mình một cốc buốc- bông nữa và nốc cạn. Đến gần sáng thì hai người đã làm hết cả hai chai rượu. Lúc Davis ngủ thiếp đi ở ghế thì Abel cố gượng dậy đi xuống tầng mười, cởi quần áo rồi lăn ra giường Anh đang ngủ say thì có tiếng đập cửa thình thình. Đầu anh quay cuồng nhưng tiếng đập cửa vẫn tiếp tục mỗi lúc một to hơn. Anh lật đật đứng dậy được và lê bước ra cửa. Đó là chú nhỏ sai vặt của khách sạn.

- Mau lên, ông Abel, ông xuống mau lên, - Chú bé vừa nói vừa chạy xuống hành lang.

Abel khoác vội chiếc áo ngủ lên người, xỏ chân vào đôi đép rồi lảo đảo chạy theo, chú bé đang giữ cửa thang máy cho anh bước vào.

Mau lên, ông Abel,- Chú bé lại nói.

- Đi đâu vội thế- Abel hỏi. Đầu óc anh vẫn còn quay cuồng. Thang máy từ từ xuống nhà. Anh chợt nhớ ra cuộc nói chuyện hồi đêm. Có lẽ bây giờ ngân hàng đến tịch thu khách sạn đây.

- Có một người nhảy ra ngoài cửa sổ.

- Khách à? Abel tỉnh ngay người.

- Vâng, có lẽ thế, - Chú bé nói. - Nhưng tôi không chắc lắm.

Thang máy xuống đến tầng cuối. Abel vội đẩy cửa sắt và chạy ra đường. Cảnh sát đang có mặt ở đây.

Giá không trông thấy chiếc áo kẻ sọc sặc sỡ kia thì anh không nhận ra người đó là ai. Một viên cảnh sát đang lấy những chi tiết cua vụ tai nạn. Một người mặc thường phục bước đến chỗ Abel.

ông là quản lý?

- Vâng, chính tôi.

ông có thể biết được người này là ai không?

- Tôi biết, - Abel đáp, lưỡi hơi líu.- Tên ông ta là Davis Leroy.

ông có biết ông ta ở đâu đến và chúng tôi làm thế nào liên lạc với người thân của ông ta được?

Abel ngoảnh đi không dám nhìn vào thân thể ông ta đã bị dập nát hết. Anh ta trả lời như chiếc máy.

ông ta ở Dallas, có cô Melanie Leroy là con gái ông ta. Cô ấy là sinh viên đang sống trong khu học xá của Đại học Chicago.

- Được Chúng tôi sẽ cho người đến gặp cô ta ngay.

- Không, ông đứng làm thế. Để tôi đích thân đi gặp cô ấy Abel nói.

- Cảm ơn ông. Không phải do người lạ báo tin thì như vậy tốt hơn.

- Thật là một điều khủng khiếp, mà không cần thiết phải làm thế này,- Abel nói và liếc nhìn lại thân thể người bạn.

- Ngày hôm nay, đây là vụ thứ bảy ở Chicago đấy,- Viên sĩ quan nói và gập cuốn sổ nhỏ lại. - Chúng tôi sẽ còn cần phải kiểm tra lại phòng ông ta nữa. Ông đừng cho ai thuê căn phòng ấy nếu chúng tôi chưa có lệnh nhé.

Vâng, tùy ông.

Viên cảnh sát bước ra chiếc xe cứu thương.

Abel nhìn mấy người khiêng cáng nhặt cái xác của Davis Leroy ở vỉa hè lên. Anh thấy lạnh run người, khuỵu đầu gối xuống và trong bụng đau dội lên. Lại một lần nữa anh mất đi một người bạn gần gũi nhất.

Có lẽ, nếu mình uống ít đi và suy nghĩ thêm một chút thì đã cứu sống được ông ấy rồi. Anh gượng đứng dậy trở về phòng, tắm nước lạnh thật lâu rồi lóng ngóng mặc quần áo vào. Anh gọi mang đến cốc cà phê đen.

Uống xong, anh miễn cưỡng bước lên phòng đặc biệt rồi mở cửa. Ngoài hai chai rượu buốc- bông đã uống cạn, trong phòng không có một tí đấu hiệu gì nói lên cái thảm cảnh đã diễn ra trước đây ít phút. Rồi anh thấy trên chỉếc bàn ở đầu giường có mấy bức thư.

Giường vẫn còn để nguyên, chưa ai nằm. Một bức thư gửi cho Melame. Bức thư thứ hai gửi cho một luật sư ở Dallas. Và một bức thứ ba gửi Abel. Anh xé thư ra xem, nhưng hầu như không dám đọc những lời nói cuối cùng của Davis Leroy. Thư viết:

,,Abel thân mến, Sau khi ngân hàng quyết định như vậy, tôi chỉ còn một cách này thôi. Tôi không còn gì để sống. Làm lại từ đầu thì tôi đã già quá rồi. Tôi muốn anh biết là tôi tin rằng anh là người duy nhất có thể làm được điều gì đó thoát khỏi tình trạng rắc rối ghế gớm này.

Tôi đã viết lại một chúc thư trong đó để lại cho anh cả 75 phần trăm chứng khoán của công ty Richmond.

Tôi biết cái đó bây giờ vô dụng, nhưng nó sẽ đảm bảo cho anh với cương vị là người chủ hợp pháp của công ty. Anh đã có can đảm mua 25 phần trăm cổ phần bằng tiền của anh, thì anh có quyền xem xét sẽ mặc cả với ngân hàng như thế nào. Tôi để tất cả những gì còn lại cho Melanie, kể cả ngôi nhà. Chỉ có anh là người báo tin cho nó biết thôi. Đừng để cảnh sát nói.

Tôi sẽ rất tự hào nếu có anh là con rể đấy Bạn anh, Davis" Abel đọc đi đọc lại bức thư rồi gấp lại cẩn thận cất vào ví.

Vào cuối buổi sáng hôm đó anh đến học xá và tìm cách báo tin một cách nhẹ nhàng cho Melame biết.

Anh ngồi trên ghế mà lúng túng mãi không biết nói gì thêm sau khi báo tin ấy. Nhưng cô nghe tin ấy với vẻ rất bình tĩnh, dường như cô đã biết trước chuyện sẽ xảy ra mặc dầu cô không che giấu được nỗi xúc động. Cô không khóc trước mặt Abel, có lẽ để anh về rồi cô sẽ khóc.

Lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy thương xót cho cô.

Abel trở về khách sạn. Anh quyết định không ăn bữa trưa và bảo người phục vụ chỉ đem lên cho anh một cốc nước cà chua trong khi anh mở xem các thư từ gửi đến. Có một lá thư của Curtis Phenton thuộc ngân hàng Continental. Anh chắc ngày hôm nay sẽ có nhiều thư lắm. Phenton có nhận được lời khuyên của một ngân hàng Boston tên là Kane và Cabot, và họ sẵn sàng nhận trách nhiệm về tài chính đối với Công ty Richmond. Lúc này, công việc kinh doanh vẫn cứ nên tiếp tục như thường, chờ đến khi nào có thể họp với ông Davis Leroy để bàn về số nhận các khách sạn trong công ty đã. Abel ngồi nhìn những chữ trong lá thư ấy, rồi sau khi uống hết cốc nước cà chua nữa, anh thảo một bức thư cho chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, một ông Alan Lloyd nào đó. Năm ngày sau, anh nhận được thư trả lời yêu cầu anh đến dự một cuộc họp ở Boston vào ngày bốn tháng giêng để thảo luận việc thanh toán công ty với một ông giám đốc chuyên lo về những vụ phá sản. Trong khi chờ đợi, ngân hàng sẽ có thể tìm hiểu thêm được về cái chết bất ngờ và bi thảm của ông Leroy.

Cái chết bất ngờ và bi thảm ư? Vậy ai gây ra cái chết ấy? Abel bỗng thốt lên rất to. Anh nhớ lại câu nói của Davis Leroy lúc trước:

"Tôi mà có cơ hội quay lại được tôi sẽ cho cái thằng chủ ngân hàng ranh con ấy một trận rồi chiếm luôn cả ngân hàng của nó cho mà coi - Ông đừng lo Davis. Tôi sẽ làm việc đó cho ông, - Abel nói.

Trong những tuần cuối năm đó, Abel điều khiển các hoạt động của khách sạn công ty Richmond Continental một cách rất chặt chẽ, từ nhân viên đến giá cả và cố làm sao cho không bị chìm thêm nữa.

Anh không thể không nghĩ đến mười khách sạn kia trong công ty bây giờ tình hình ra sao. Nhưng dù nghĩ đến anh cũng không có thì giờ tìm hiểu. Vả lại cũng không phải là trách nhiệm của anh nữa.

° ° °

Ngày bốn tháng Giêng năm 1939, Abel Rosnovski đến Boston,anh đi từ ga xe lửa đến ngân hàng Kane và Cahot bằng xe tắc xi và đến trước giờ hẹn ít phút. Anh ngồi ở phòng tiếp khách, phòng này rộng hơn và trang hoàng đẹp hơn bất cứ phòng ngủ nào ở khách sạn Richrllol Chicago. Anh ngồi đọc tờ Nhật báo phố Wall. Tờ báo toàn nói cái điệu như năm một ngàn chín trăm ba mươi sẽ là năm làm ăn khấm khá hơn. Anh không tin. Một người đàn bà cỡ trung niên có vẻ nghiêm nghị bước vào phòng.

- Ông Kane sẽ gặp ông bây giờ, thưa ông Rosnovski.

Abel đứng dậy theo bà qua dẫy hành lang dài vào một căn phòng nhỏ lát gỗ sồi có chiếc bàn lớn bọc da.

Ngồi đằng sau bà là một người đàn ông to lớn, đẹp trai mà Abel đoán cũng chạc tuổi mình. Mắt anh ta cũng ánh như mắt Abel. Trên tường phía sau anh ta là một bức tranh chân dung của một người lớn tuổi hơn, nét mặt giống với người trẻ tuổi ngồi dưới. Đó hẳn là bố anh ta, Abel nghĩ bụng. Nhìn anh ta, Abel đã nghĩ ngay là với vụ suy thoái này, anh ta vẫn sẽ sống sót được. Ngân hàng thì muốn thế nào họ cũng vẫn có lợi.

- Tên tôi ìà Wilham Kane, - Người trẻ tuổi ngồi sau bàn đứng dậy chìa tay ra. - Xin mời ông ngồi, ông Rosnovski.

Cảm ơn ông, - Abel đáp.

Wilìiam nhìn kỹ con người nhỏ bé trong bộ quần áo không vừa với anh ta lắm nhưng có đôi mắt rất cương nghị.

- Có lẽ ông cho phép tôi nói ngay đến tình hình gần đây nhất theo chỗ chúng tôi hiểu - Nhà ngân hàng mắt xanh nói.

- Vâng, tất nhiên.

- Cái chết bi thảm và quá sớm của ông Leroỵ...- William nói với một vẻ không tự nhiên lắm.

Phải, do sự bất nhã của các ông đấy, Abel nghĩ bụng.

- Hình như đã đặt ông vào tình thế phải quản công ty Richmond này cho đến khi nào ngân hàng chúng tôi tìm được người mua những khách sạn ấy.

Mặc dầu bây giờ cả trăm phần trăm cổ phần của công ty đều đã mang tên ông nhưng toàn bộ tài sản đó, dưới dạng mười một khách sạn, đều đã được ông Leroy trước đây thế chấp để vay của ngân hàng hai triệu đô la, do đó về mặt pháp lý đã là tài sản của chúng tôi. Như vậy ông không còn trách nhiệm gì với những khách sạn ấy nữa. Nếu như bây giờ ông muốn hoàn toàn tách mình ra khỏi những hoạt động này, thì tất nhiên chúng tôi cũng rất thông cảm.

Một kiểu gợi ý rất xúc phạm đây, Wilham nghĩ bụng, nhưng đằng nào thì cũng phải nói ra.

Còn Abel thì nghĩ:

đây là kiểu mà bất cứ anh chủ ngân hàng hàng nào cũng làm, hễ có vấn đề khó khăn là rũ tuột ngay.

William Kane nói tiếp.

Trong khi chờ đợi thanh toán số tiền hai triệu đô la nợ ngân hàng, tôi e rằng chúng tôi phải xét đến những tài sản khác của ông Leroy coi như không đủ để trả nợ. Chúng tôi ở ngân hàng này rất hoan nghênh việc dính líu của riêng ông đến công ty, và chúng tôi chưa làm gì đụng đến các khách sạn ấy trước khi có dịp nói chuyện trực tiếp với ông. Chúng tôi nghĩ có lẽ ông có thể biết đến người nào đó có ý mua lại những tài sản này, như nhà cửa, đất đai, và bản thân công việc kinh doanh kia cũng là một tài sản có giá trị.

- Nhưng không đủ giá trị để ông ủng hộ tôi chứ gì,- Abel nói.- Anh đưa tay lên vuốt mớ tóc đen rậm của mình. - Ông sẽ cho tôi một thời gian bao nhiêu lâu để tìm người mua?

William ngập ngừng một lúc vì anh trông thấy chiếc vòng bạc ở cổ tay Abel Rosnovski. Anh đã có trông thấy chiếc vòng bạc đó một lần rồi, nhưng không thể nhớ ra là đã thấy ở đâu.

- Ba mươi ngày. Ông nên nhớ rằng hiện nay hàng ngày ngân hàng vẫn phải chịu đựng những mất mát của mười trong số mười một khách sạn ấy. Chỉ có Chicago Richmond là có lãi chút ít thôi.

- Nếu ông cho tôi thêm thời gian và ủng hộ tôi, ông Kane, tôi sẽ làm cho tất cả eác khách sạn đó kinh doanh có lãi. Tôi biết là tôi làm được, - Abel nói. - Chỉ cần ông cho tôi một cơ hội để tôi chứng minh điều đó.- Abel thấy mình như nghẹn họng, không nói được hết lời - Mùa thu năm ngoái khi ông Leroy đến gặp chúng tôi cũng đã đảm bảo với ngân hàng như vậỵ. - Wiìham nói.- Nhưng thời buổi bây giờ khó khăn lắm.

Không thể nói trước là kinh doanh khách sạn sẽ phất lên được, mà chúng tôi thì không phải những người chuyên việc khách sạn, thưa ông Rosnovski. Chúng tôi chỉ là những nhà ngân hàng.

Albel đã bắt đầu thấy bực mình với cái "thằng ranh con" ăn mãc lịch sự này. Davis nói đúng thật. - Cũng là khó khăn với các nhân viên khách sạn của tôi nữa đấy - Anh nói.- Ông tưởng tượng bây giờ bán những khách ấy đi thì họ còn sống nhờ vào đâu được?

- Tôi e rằng đó không phải trách nhiệm của chúng tôi ông Rosnovski ạ. Tôi phải hành động cho lợi ích tốt nhất của ngân hàng vậy thôi.

Lợi ích tốt nhất của chính ông chứ, ông Kanẻ- Abel nói lại, giọng gay gắt.

Anh chàng kia đỏ mặt.

Đó là một ý kiến không công bằng, ông Rosnovski ạ nếu như không thông cảm với những khó khăn của ông thì tôi sẽ rất lấy làm giận đấy.

- Rất tiếc là ông không kịp thời thông cảm với ông Davis Leroy, - Abel nói. - Nếu được thông cảm thì đã không có chuyện. Ông Kane, chính ông đã giết chết ông ấy. chính ông đã đẩy ông ấy đến chỗ phải nhẩy ra ngoài cửa sổ, ông và những đồng nghiệp của ông chỉ việc ngồi yên phận ở đây trong khi chúng tôi phải lăn lưng ra mà làm để đảm bảo cho các ông có thể khi thuận tiện thì kiếm bở còn khi không thuận tiện thì đè đầu đè cổ người ta chứ gì?

William cũng đã nổi nóng. Tuy nhiên, anh không biểu lộ ra ngoài mặt như Abel Rosnovski.

- Kiểu bàn bạc như thế này thì chẳng đưa chúng ta đến đâu được, ông Rosnovski. Tôi cần báo trước để ông biết nếu trong vòng ba mươi ngày ông không kiếm ra được người mua, thì buộc chúng tôi sẽ phải đưa các khách sạn ra công khai bán đấu giá.

Rồi sau đó ông sẽ khuyên tôi tìm vay tiền ở một ngân hàng khác chứ gì, - Abel mỉa mai. - Ông biết tôi là thế nào rồi mà ông vẫn không ủng hộ, vậy ông bảo tôi còn đi đâu nữa - Tôi e rằng tôi cũng không biết, - Wilham đáp. - Điều đó là hoàn toàn tùy ông. Lệnh của ban giám đốc chúng tôi là giải quyết tài sản này càng nhanh càng tốt và tôi cũng chỉ biết làm như vậy. Có lẽ xin ông tiếp xúc với tôi không chậm hơn ngày bốn tháng hai và cho tôi biết ông đã tìm được người mua chưa. Xin chào ông, ông Rosnovski.

William đứng dậy và lại chìa bàn tay. Lần này, Abel không thèm bắt tay nữa và anh đi thẳng ra cửa.

Willam đứng đó nhăn mặt nhìn theo Abel đã đóng cửa lại. Anh vẫn còn băn khoăn về chiếc vòng bạc kia. Không biết anh đã nhìn thấy nó ở đâu một lần rồi.

Cô thư ký trở lại. Cô ta nói.

- Con người nhỏ bé mà ghê gớm quá.

- Không đâu, không hẳn như thế đâu, - William nói.- Ông ta nghĩ rằng chính chúng ta đã giết người bạn đồng sự của ông ta, và bây giờ thì cllúng ta đang giải tán công ty của ông ta mà không đếm xỉa gì đến những người làm ăn ở đó, chưa kể đến bản thân ông ta là một người tỏ ra rất có năng lực. Phải nói là ông Rosnovski đã rất có lễ độ mặc dầu ở trong hoàn cảnh như vậy, còn tôi thì phải thú thật là tôi rất lấy làm tiếc thấy ban giám đốc ngân hàng này đã không chịu ủng hộ Ông ta. - Anh nhìn lên cô thư ký.

- Cho tôi nói chuyện điện thoại với ông Cohen.

° ° °

Albel trở về Chicago vào sáng hôm sau, trong lòng vẫn còn bực bội về chuyện Wilham Kane đã đối xử với mình như vậy. Anh không nghe rõ chú bé bán báo rao những gì ở góc đường vì anh đang gọi chiếc xe tắc xi và trèo lên ngồi ở phía sau.

- Cho tôi về khách sạn Richmond.

ông có phải nhà báo không?- Người lái xe đánh lên phía phố State và hỏi anh.

- Không. Sao ông hỏi thế?- Abel nói.

- Không, vì ông hỏi về Richmond mà. Hôm nay các nhà báo đều đến đó cả.

Abel không thể nhớ ra khách sạn Richmond của mình có định làm gì để thu hút các nhà báo như vậy đâu nhỉ.

Người lái xe nói tiếp:

- Nếu ông không phải nhà báo thì có lẽ tôi đưa ông đến một khách sạn khác chứ?

- Tại sao thế? Abel hỏi lại, ngơ ngác.
 
Nếu ông về khách sạn đó thì chả ngủ ngon được đâu vì Richmond đă bị cháy trụi rồi còn đâu.

Chiếc xe vừa quay rẽ ở góc đường thì Abel đã thấy mình đối diện với cảnh khách sạn Chicago Richmond bị cháy trụi. Xe cảnh sát, xe cứu hỏa, gỗ ván bị cháy đen với nước tràn trề cả ngoài đường phố. Anh bước ra ngoài xe nhìn những gì còn lại của căn nhà đầu đàn của công ty Davis Leroy.

Người Ba Lan thường khôn ngoan tỉnh táo sau khi tai vạ đã xảy ra rồi, Abel nghĩ bụng và nắm chặt tay đấm mạnh vào bên chân thọt của anh. Anh không thấy đau, vì chẳng còn lại gì để mà thấy đau nữa.

- Bọn khốn nạn?- Anh thét to lên. - Tao đã chịu đựng còn hơn thế này nữa cơ. Nhưng rồi tao sẽ diệt từng đứa chúng mày cho mà coi. Từng thằng Đức, thằng Nga, thằng Thổ Nhĩ Kỳ, thằng vô lại Kane, và bây giờ đến cả cái này nữa. Tao sẽ diệt hết. Không ai giết được Abel Rosnovski đâu.

Người phó quản lý trông thấy Abel đang hoa chân múa tay bên chiếc xe tắc xi vội chạy đến. Abel cố tỏ ra bình tĩnh.

Mọi người chạy ra được an toàn chứ? - Anh hỏi.

- Vâng, lạy Chúa. Khách sạn gần như không có khách, vì vậy chạy thoát ra được không có vấn đề gì lắm. Chỉ một vài người hơi bị xây xát và bị bỏng, đã được đưa đến bệnh viện. Nhưng ông không có gì đáng phải lo đâu.

- Tốt. ít ra cũng yên tâm được về chuyện đó. Tạ Ơn Chúa, khách sạn đã được bảo hiểm cẩn thận, tôi nhớ hình như trên một triệu đô la. Chúng ta rất có thể biến cái tai vạ này thành ra có lợi được đấy.

- Nếu đúng như báo chí sáng nay đã nói thì không được đâu - Anh nói vậy là sao?- Abel hỏi.

- Có lẽ tự Ông nên đọc xem trong đó nói gì thì hơn, ông chủ ạ, - Người phó quản lý đáp.

Abel bước đến quầy bán báo gần đó, bỏ ra hai xu mua số báo mới nhất của tờ Diễn đàn Chicago. Dòng chữ lớn ở trang đầu đã đủ nói lên hết cả:

KHÁCH SẠN RiCHMoND BốC CHÁY - Có THỂ Do Cố Ý ĐốT PHÁ Abel lắc đầu tỏ ra không tin. Anh đọc đi đọc lại dòng chữ đó.

- Còn có gì xảy ra hơn thế được?- Anh lẩm bẩm.

ông có chuyện gì không thế?- Chú bán báo hỏi.

- Hơi một tí thôi,- Abel đáp và quay lại người phó quản lý.

- Ai phụ trách điều tra của cảnh sát?

- Viên sĩ quan đang đứng tựa vào xe cảnh sát kia kìa, - Người phó quản lý nói và chỉ tay ra phía một người cao gầy có cái đầu hói. - Tên ông ta là Trung úy o Malley.

- Được rồi,- Abel nói.- Bây giờ ông cho tất cả nhân viên sang khu nhà phụ đi. Mười giờ sáng mai tôi sẽ đến gặp tất cả mọi người. Còn trước đó ai muốn tìm tôi thì đến nhà hàng Stenvens. Tôi sẽ ở đây cho đến khi nào điều tra ra vụ này.

- Như thế cũng được.

Abel bước ra chỗ Trung úy óMalley tự giới thiệu.

Viên cảnh sát cao gầy hơi cúi xuống bắt tay Abel. A, ông cựu quản lý biến đi đâu mất bây giờ mới về nhìn cảnh tan hoang đây.

- Ông sĩ quan, tôi không thấy đó là chuyện đáng đùa,- Abel nói.

- Xin lỗi, - Ông ta nói.- Đúng là không có gì đáng đùa. Khiếp, mất cả một đêm dài. Ta đi uống cái gì chứ.

Viên cảnh sát cầm lấy khuỷu tay Abel và đưa anh qua Đại lộ Michigan đến một hiệu ăn ở góc đường.

Trung úy óMalley gọi hai cốc sữa trứng. Abel cười khi anh thấy người ta để trước mặt cốc sữa đã đánh lên thành bọt trắng xoá. Từ bé đến giờ, đây là lần đầu tiên anh ăn sữa trứng đánh thành bọt.

- Tôi biết thế này là ngộ lắm. Mọi người trong thành phố đều phá luật và họ đều uống rượu buốc- bông với uống bia, - Viên cảnh sát nói,- Vì vậy phải có người uống cái khác chứ. Dù sao, luật cấm uống rượu cũng chẳng thể cấm mãi được. Rồi sau đây chắc tôi sẽ gặp nhiều khó khăn, vì bọn cướp sẽ phát hiện ra là tôi chỉ thích có sữa đánh trứng thôi.

Abel lại cười.

- Bây giờ nói đến những vấn đề của ông, ông Rosnovski. Trước hết tôi phải nói ngay là ông sẽ chẳng có tí hy vọng gì giành được tiền bảo hiểm cho khách sạn đó đâu. Các nhà chuyên gia chữa cháy đã đi xem xét kỹ lưỡng tất cả những chỗ còn lại của toà nhà và họ phát hiện ra đâu đâu cũng sặc mùi dầu lửa.

Mà người ta cũng không thèm giấu nó nữa cơ. chỉ cần một que diêm đủ cho cả tòa nhà cháy bùng lên rồi.

- Ông có nghĩ là ai gây ra chuyện này không? Abel hỏi.

- Xin ông để tôi hỏi. Ông có nghĩ về chuyện ai có thù hằn gì với khách sạn hoặc với cá nhân ông không?

Abel ậm ừ nói.

- Có đến năm chục người, ông ạ. Hồi mới đến đây, tôi đã thanh toán cả một bọn sâu mọt. Nếu ông cần, tôi có thể cho ông cả danh sách.

Có lẽ tôi sẽ cần đến, nhưng cứ theo như người ta nói ở quanh đó thì có thể tôi cũng không cần đến, - Viên trung úy nói.- Tuy nhiên, nếu ông có được một thông tin gì chắc chắn thì ông cứ cho tôi biết, ông Rosnovski. Ông cần cho tôi biết, vì tôi nói để ông liệu là ông có rất nhiều kẻ thù ở ngoài kia lắm đấy, ông ta vừa nói vừa chỉ tay ra ngoài phố.

- Ông nói vậy là sao?- Abel hỏi.

Có người nói chính ông làm chuyện đó vì ông đã mất hết tiền vào vụ phá sản vừa rồi, và bây giờ ông cần đến tiền bảo hiểm.

Abel đang ngồi đứag vụt dậy.

- Bình tĩnh, bình tĩnh. Tôi biết cả ngày hôm đó ông ở Boston, và điều quan trọng nữa là ở Chicago người ta biết ông xây dựng khách sạn thì có chứ đốt phá thì không. Nhưng chắc chắn là đã có người đốt khách sạn Richmond và thế nào tôi cũng tìm ra được tên đó. Bây giờ thì hãy cứ để đó đã.- Ông ta đứng dậy.- Để tôi trả tiền sữa trứng, ông Rosnovr'ki. Tương lai thế nào cũng có lúc tôi nhờ đến ông.

Hai người cùng đi ra cửa. Viên cảnh sát cười với cô gái ngồi ở quỹ thu tiền. Ông khen cô có - Đôi chân đẹp nhưng chỉ tiếc cho váy của cô theo mốt mới lại hơi quá dài. Ông ta đưa cho cô đồng năm mươi xu và nói.

Cô em glữ lấy tiền lẻ nhé.

- Cảm ơn ông lắm, - Cô gái nói.

- Chả ai khen tôi được một câu,- Vlên trung úy nói.

Abel lại cười, lần này là lần thứ ba. Trước đây một tiếng đồng hồ, anh không nghĩ là mình còn có thể cười được nữa.

Lúc ra đến cửa, viên trung úy nói tiếp:

- Nhân đây, xin nói để ông biết là công ty bảo hiểm đang cho người tìm ông. Tôi không nhớ tên hắn ta, nhưng tôi chắc thế nào hắn cũng sẽ tìm ông. Ông đừng vội thù ghét gì hắn nhé, vì nếu như hắn tưởng ông có dính líu đến vụ này thì ai mà trách hắn được?

ông cứ liên lạc với tôi nhé, ông Rosnovski, tôi sẽ còn cần nói chuyện với ông nữa đấy.

Abel nhìn viên trung úy đi lẫn vào đám đông đứng đó rồi anh. chậm chạp đi về phía khách sạn Stevells thuê phòng - ngủ lại đêm. Viên tiếp tân của khách sạn vốn đã ghi tên phần lớn những người ở Richmond chạy sang, không khỏi mỉm cười thấy cả đến quản lý của khách sạn ấy cũng phải chạy sang đây nữa.

Vào đến trong phòng, Abel ngồi xuống viết một bức thư chính thức gửi cho William Kane, kể lại tất cả những chi tiết nào đó anh có thể biết được về vụ cháy. Trong thư anh cũng nói muốn nhân lúc được. tự do một cách không ngờ này đi một tua thăm .các khách sạn khác của công ty. Abel thấy mình chả nên nán lại Chiacago làm gì với đống tro tàn Richmond này và với hy vọng có ai đến cứu cho anh thoát được cái xui xẻo ở đây Sáng hôm sau , sau một bữa ăn sáng thịnh soạn ở Stenvens, Abel bao giờ cũng thấy dễ chịu trong một khách sạn được quản lý tử tế, anh đi bộ đến ngân hàng Contineltal gặp Curtis Pheutơn đề nói lại cho ông ta nghe về thál độ của ngân hàng Kane và Cabot, nói cho đúng hơn là thái độ của William Kane. Mặc dầu Abel nghĩ yêu cầu này là vô lý nhưng anh vẫn nêu lên ý kiến là sẽ tìm người mua lại công ty Richmond với giá hai triệu đô la.

- Vụ cháy đó chả giúp gì được cho chúng ta, nhưng tôi sẽ xem có thể làm gì được không, Phenton nói với vẻ tích cực hơn là Abel tưởng.- Hồi ông mua 24 phần trăm cổ phần của bà Leroy, tôi đã bảo những khách sạn đó là vốn hếng có giá trị và ông làm như vậy là đúng. Mặc dầu có chuyện phá sản vừa rồi, tôi vẫn không nghĩ khác đâu, ông Rosnovski. Tôi đã theo dõi việc ông quản lý khách sạn gần hai năm nay rồi, nếu là cá nhân tôi quyết định thì tôi sẽ ủng hộ Ông, nhưng tôi e rằng ngân hàng này sẽ không đồng ý cứu cho Công ty Richmond đâu. Chúng tôi biết tình hình tài chính của Công ty này từ lâu rồi, nên không tin tưởng lắm. Bây giờ lại thêm vụ cháy đó càng khó. Tuy nhiên, tôi vẫn còn có một số quan hệ với bên ngoài nên tôi sẽ xem họ có thể giúp được gì. Trong thành phố này có lẽ ông còn có nhiều người khâm phục ông hơn là ông tưởng, ông Rosnovski.

Sau khi nghe mấy lời bình luận của Trung úy o Melley, abel nghĩ bụng không biết mình còn có bạn nào ở Chicago nữa không. Anh cảm ơn Curtis Phenton, rồi trở ra quầy rút 5.000 đô la trong tài khoản của khách sạn. Cả buổi sáng hôm đó, anh ở lại trong khu nhà phụ của Richmond. Anh trả cho mỗi nhân viên hai tuần lương và bảo họ có thể tiếp tục ở lại trong nhà này ít nhất một tháng hoặc cho đến khi nào kiếm được việc khác Rồi anh trở lại khách sạn Stenvens, gói ghém ít quần áo mới phải mua thêm vì số cũ đã bị cháy hết, và chuẩn bị đi một tua thăm các khách sạn khác của Công ty Richmond.

Anh đánh chiếc xe Buick vừa mua trước khi có vụ thị trường chứng khoán đổ sụp, đi về phía Nam và bắt đầu bằng khách sạn Richmond ở St. Louis. Chuyến đi quanh các khách sạn của công ty mất gần bốn tuần.

Mặc dầu nơi nào cũng yếu kém và làm ăn thua lỗ cả, nhưng trong cách nhìn của Abel thì không nơi nào đến nỗi tuyệt vọng. Ở đâu cũng đều có địa điềm rất tốt có nơi thậm chí khách sạn ở chỗ tốt nhất trong thành phố. Ông già Leroy ngày xưa rõ ràng là có con mắt tinh đời hơn ông con, Abel nghĩ bụng. Anh kiểm tra lại cẩn thận chính sách bảo hiểm của từng khách sạn, đều không thấy có vấn đề gì. Cuối cùng anh đến khách sạn Richmond ở Dallas và anh có thể tin chắc được một điều, đó là bất cứ ai mua được công ty này với giá hai tnệu đô la thì sẽ có lợi vô cùng. Anh ước gì mình có được cơ hội này, vì anh biết rõ cách làm thế nào cho công ty được phát đạt.

Về đến Chicago, anh lại đến khách sạn Stenvens. Ở đây có nhiều thư đang đợi anh. Trung úy óMaliey muốn được gặp anh. Cả William Kane, Curtis Phenton và cuối cùng là một ông Henry osborne nào đó.

Abel bắt đầu bằng luật pháp đã. Anh nói chuyện điện thoại với óMalley và hẹn gặp ông ta ở Đại lộ Michigan. Abel ngồi trên một chiếc ghế quay lưng vào quầy nhìn ra cái vỏ cháy đen của Khách sạn Richmond và chờ viên Trung úy. O Malley đến muộn vài phút nhưng không xin lỗi, ông ta ngồi luôn xuống ghế bên và xoay người sang nhìn Abel.

- Tại sao ta phải gặp nhau thế này nữa?- Abel hỏi. Ông còn nợ tôi đấy, - Viên Trung úy nói. Ở Chicago này, ai còn nợ ÓMalley một cốc sữa trứng thì không chạy đi đâu được.

Abel gọi hai cốc, một cốc to và một cốc thường.

- Ông tìm ra điều gì không? Abel hỏi và đưa ống hút sữa cho ông ta.

- Bọn anh em bên cứu hỏa nói đúng đấy, đây là vụ cố ý đốt Chúng tôi đã bắt giam một gã tên là Desmond Pacey, sau mới biết hắn là người quản lý cũ của Richmond. Đó là vào hồi ông, phải thế không?

Có lẽ như vậy, - Abel nói.

- Tại sao lại có lẽ?- Viên Trung úy hỏi.

- Tôi cho đuổi Pacey về tội giả mạo hóa đơn khách sạn. lão ta dọa sẽ trả thù tôi. Tôi thì tôi không quan tâm, vì đời tôi đã có quá nhiều chuyện đe dọa như vậy rồi, cho nên những loại người như Pacey có dọa mấy tôi cũng không coi vào đâu.

ấy thế mà chúng tôi phải coi chừng lão ta đấy. Cả bên cơ quan bảo hiểm nữa. Tôi được nghe là họ sẽ không trả một xu nào nếu không chứng minh được rằng giữa Pacey với ông không có sự đồng lõa gì với nhau trong vụ đốt này.

- Bây giờ tôi cũng chỉ cần có thế, - Abel nói.- Làm sao ông biết chắc rằng đó là Pacey?

Ngay trong ngày xảy ra vụ cháy, chúng tôi đã tìm ra lão ta ở khu thương tật trong bệnh viện thành phố.

Chúng tôi chỉ cần hỏi qua bệnh viện cho biết tên từng người đã vào bệnh viện hôm đó vì bị bỏng thôi. May làm sao - Trong nghề cảnh sát chúng tôi thường gặp may thế đấy vì chẳng phải tất cả chúng tôi đều là Sherlock Holmes cả đâu - Có bà vợ của một viên thượng sĩ nghe nói đến tên lão ta đã biết ngay đó là người quản lý cũ của khách sạn Richmond, vì bà ta đã từng làm ở đó rồi. Dù không biết chuyện đó thì tôi cũng vẫn có thể tìm ra được, vì nó đã rõ như hai với hai là bốn. Lão ta đã nhanh chóng khai ra ngay, hình như lão ta chẳng ngại gì chuyện bị giam cả, coi như trả thù được như thế là sướng rồi. Chỉ mới trước đây ít lúc thôi, tôi vẫn chưa xác định được ông ta trả thù như thế để làm gì, nhưng bây giờ thì tôi hiểu rồi, tuy tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vậy là coi như chuyện đó đến đây kết thúc, ông Rosnovski ạ.

Viên Trung úy lại ngậm vào ống hút cạn sữa trong cốc - Ông làm cốc nữa nhé, - Abel hỏi.

Thôi, tôi đủ rồi. Tôi còn nhiều việc trong ngày hôm nay lắm.- Ông ta đứng dậy.- Chúc ông may mắn, ông Rosnovski. Nếu ông có thể chứng minh với cơ quan bảo hiểm là ông không dính líu gì đến Pacey thì ông sẽ đòi được tiền đấy. Nếu vụ này đưa ra tòa thì tôi sẽ làm mọi cách để giúp ông nếu được. Ông cứ liên lạc với tôi nhé.

Abel nhìn ông ta đi khuất sau cửa. Anh cho cô phục vụ một đô la rồi bước ra ngoài hè và đứng nhìn vào khoảng không, khoảng không trước đây gần một tháng là Khách sạn Richmond. Rồi anh quay mình đi trở về khách sạn Stenvens.

Lại một bức thư nữa của Henry osbome, mà trong thư này anh vẫn chưa biết được người đó là ai. Chỉ còn một cách để tìm hiểu. Abel gọi thẳng cho osbome thì được biết ông ta là thanh tra của Công ty Bảo hiểm Great Western có liên quan đến khách sạn này.

Abel hẹn gặp osborne vào buổi trưa. Rồi sau đó anh gọi cho William Kane ở Boston thông báo lại về chuyến đi của anh thăm các khách sạn kia.

- Tôi cũng muốn nói thêm rằng tôi có thể biến những thua lỗ của các khách sạn đó thành lợi nhuận nếu tôi được ông cho thêm thời gian và ủng hộ tôi.

Những gì tôi đã làm được ở Chicago, tôi sẽ có thể làm được với tất cả khách sạn khác của công ty.

ông có thể làm được đấy, ông Rosnovski, nhưng tôi e rằng sẽ không phải bằng tiền của ngân hàng Kane và Cabot. Tôi cũng xin nhắc để ông nhớ rằng ông chỉ còn ít ngày để tìm người mua thôi đấy. Xin chào ông.

- Thật là một bọn hãnh tiến, - Abel nói nhưng đầu dây đằng kia không còn ai nghe. - Tôi không đáng dùng tiền của các anh được hả? Được rồi, một ngày kia bọn vô lại các anh....

Tiết mục sau trên chương trình nghị sự của Abel là làm việc với người của công ty bảo hiểm Henry osbome hóa ra là một người cao lớn, bảnh trai, có đôi mắt đen và bộ tóc đen đã đốm bạc. Abel thấy ông ta thoải mái và hợp với tính mình. Ngoài câu chuyện của Trung úy óMalley, osborne không có ý trả một đồng nào trong khi cảnh sát đang đòi truy tố Desmond Pacey và trong khi chưa có gì chứng thực rằng Abel không dính líu đến vụ đốt phá này. Henry osborne xem ra có vẻ rất thông cảm với toàn bộ vấn đề.

Công ty Richmond có đủ tiền xây dựng lại khách sạn không? - Osborne hỏi.

- Chẳng có xu nào, - Abel nói.- Cả công ty đã bị thế nợ, và bây giờ ngân hàng đang thúc tôi phải bán đi đây - Tại sao lại là ông? - Osborne hỏi.

Abel giải thích đầu đuôi chuyện anh đã mua cổ phần mà không thật sự làm chủ khách sạn như thế này. Henry osborne nghe có vẻ ngạc nhiên.
 

Có thể bạn quan tâm

Top